Luận văn Quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trường đại học Hồng Đức

Các trường ĐHCL đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh

tế, xã hội của mỗi quốc gia, thể hiện:

Các trường ĐHCL đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực với số lượng lớn,

chất lượng cao, là nơi nghiên cứu, chuyển giao các ứng dụng khoa học kỹ thuật cho

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước: hàng năm hệ thống các

trường ĐHCL cung cấp cho thị trường lao động hàng trăm nghìn nhân lực có trình

độ, chất lượng, kỹ năng lao động tốt cho nhiều ngành lao động. Ngoài ra, các

trường ĐHCL là nơi nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ mới, góp

phần tăng năng suất lao động, hiện đại hóa sản xuất, tăng chất lượng của quá trình

phát triển.

Các trường ĐHCL thể hiện vai trò điều tiết, định hướng của Nhà nước đối

với giáo dục đại học: việc đầu tư của Nhà nước để thành lập các trường ĐHCL giúp

điều tiết cơ cấu đào tạo hợp lý, duy trì và phát triển giáo dục đào tạo, tạo ra sự bình

đẳng cho mọi thành viên trong xã trong việc tiếp cận với giáo dục đại học, mang lại

lợi ích cho toàn thể xã hội.

pdf25 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 672 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trường đại học Hồng Đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên hiện nay mức độ tự chủ tài chính của trƣờng là chƣa cao, hiệu quả hoạt động tài chính chƣa đạt đƣợc nhƣ mong muốn. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu thực trạng hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính, phân tích, đánh giá những kết quả đạt đƣợc, những tồn tại, hạn chế, các nguyên nhân để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tài chính, tăng mức độ tự chủ tài chính, hƣớng tới mục tiêu tự chủ hoàn toàn về tài chính của trƣờng Đại học Hồng Đức. Nghiên cứu về hoạt động quản lý tài chính của trƣờng đại học theo cơ chế tự chủ tài chính phù hợp với chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng mà học viên đang theo học. Cùng với các lý do phân tích ở trên, tôi chọn đề tài “Quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trường Đại học Hồng Đức” làm đề tài nghiên cứu luận văn. Luận văn tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau: 1) Cơ chế tự chủ tài chính áp dụng tại các trƣờng ĐHCL hiện nay nhƣ thế nào, quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng ĐHCL đƣợc thực hiện nhƣ thế nào, gồm những nội dung gì? 2) Thực trạng hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức diễn ra nhƣ thế nào ? 3) Giải pháp nào để có thể tăng cƣờng hiệu quả hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức? 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức, đƣa ra những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế bất cập cần khắc phục, luận văn hƣớng đến việc đề xuất các phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức để từ đó tăng mức độ tự chủ tài chính của trƣờng. 2.2. Nhiệm vụ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng ĐHCL. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức trong thời gian vừa qua, chỉ ra những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức trong thời gian tới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng Đối tƣợng nghiên cứu là hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: trƣờng Đại học Hồng Đức Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2013 đến năm 2015 4. Phƣơng pháp nghiên cứu * Cách tiếp cận Xuất phát từ việc tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nƣớc có liên quan đến đề tài nghiên cứu, tác giả tiến hành thiết kế nghiên cứu phù hợp với bối cảnh, chủ thể, đối tƣợng nghiên cứu. Từ đó, thu thập, phân tích, đánh giá các số liệu thực tế liên quan. Các giải pháp và đề xuất cũng đƣợc đƣa ra dựa trên kết quả phân tích dữ liệu thực tế. * Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập thông tin + Tài liệu thứ cấp: Các số liệu, tài liệu đƣợc thu thập thông qua việc thống kê, nghiên cứu các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc liên quan đến quản lý tài chính, đến cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập; các văn bản, báo cáo liên quan đến quản lý tài chính, quy chế chi tiêu nội bộ của trƣờng Đại học Hồng Đức trong giai đoạn 2013 - 2015; đề tài, các sách, tạp chí, các website có liên quan. + Tài liệu sơ cấp: Các số liệu đƣợc thu thập theo phƣơng pháp điều tra, khảo sát dựa trên các bảng hỏi. - Phương pháp tổng hợp thông tin: Thu thập số liệu từ các báo cáo, sổ sách của trƣờng Đại học Hồng Đức, tài liệu, thông tin trên báo chí và internet và tổng hợp thông tin dựa trên các phƣơng pháp tổng hợp: phân tổ thống kê, đồ thị thống kê, bảng thống kê. - Phương pháp phân tích thông tin + Phƣơng pháp thống kê tổng hợp, phƣơng pháp so sánh số tuyệt đối và phƣơng pháp so sánh bằng số tƣơng đối, thống kê. Phƣơng pháp thu thập, phân tích dữ liệu, đánh giá sơ đồ, biểu mẫu. + Sử dụng phần mềm SPSS đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng đến mức học phí kỳ vọng của ngƣời học. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo và phụ lục, kết luận, luận văn đƣợc kết cấu gồm 4 chƣơng: Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận về quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng đại học công lập Chƣơng 2: Phƣơng pháp nghiên cứu Chƣơng 3: Thực trạng hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức Chƣơng 4: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước Vấn đề tự chủ đại học, trong đó có tự chủ tài chính luôn là vấn đề thu hút đƣợc nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, ngƣời làm chính sách trong lĩnh vực giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay. Trên thế giới, tự chủ đại học đƣợc xem là yếu tố quan trọng nhất trong quản trị đại học. Trong tự chủ đại học, tự chủ về tài chính là vấn đề quan trọng, đƣợc đề cập và nghiên cứu thông qua nhiều báo cáo, công trình. Theo Anderson & Johnson (1998), các thành tố trong tự chủ đại học bao gồm: Tự chủ nguồn nhân lực: trƣờng đƣợc quyền quyết định về các vấn đề liên quan đến điều kiện tuyển dụng, lƣơng bổng, sử dụng nguồn nhân lực, bổ nhiệm, miễn nhiệm các vị trí trong khu vực học thuật và khu vực hành chính. Tự chủ trong các hoạt động học thuật và chương trình giáo dục: phƣơng pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên, nội dung chƣơng trình và giáo trình học liệu. Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến tuyển sinh và quản lý sinh viên. Tự chủ trong các chuẩn mực học thuật: các tiêu chuẩn của văn bằng, các vấn đề liên quan đến kiểm tra và kiểm định chất lƣợng. Tự chủ trong nghiên cứu và xuất bản, giảng dạy và hướng dẫn học viên cao học, các ưu tiên trong nghiên cứu và quyền tự do xuất bản. Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến quản lý hành chính và tài chính, quản lý và sử dụng ngân sách, các nguồn tài chính của trường. Theo Hauptman (2006) thì có ba nguồn tài chính nhằm duy trì các hoạt động giảng dạy và nghiên cứu của các trƣờng ĐHCL bao gồm nguồn NSNN cấp, học phí và các khoản đóng góp từ xã hội. Trong đó, đóng góp từ NSNN là quan trọng nhất, vì vậy không thể giảm sự hỗ trợ 100% từ NSNN và để các trƣờng tự tìm nguồn kinh phí hoạt động. Do đó, trong hoạt động của các trƣờng nên kết hợp linh hoạt các nguồn tài chính trên. Cũng theo Hauptman (2007) có ba mô hình về tài chính cho các trƣờng ĐHCL: Mô hình 1: Miễn học phí hoặc áp dụng học phí thấp Theo mô hình này thì nguồn tài chính chủ yếu của các trƣờng ĐHCL là từ NSNN (chiếm khoảng 90%), học phí chiếm tỷ trọng thấp (chiếm khoảng 10%). Trong mô hình này, các trƣờng ĐHCL phải hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn tài trợ của Nhà nƣớc, học phí hoàn toàn bị kiểm soát. Để có thể áp dụng thành công mô hình này, các quốc gia cần phải có đủ năng lực tài chính để đầu tƣ cho giáo dục ĐHCL. Mô hình 2: Học phí được hoàn trả sau khi tốt nghiệp Theo mô hình này thì NSNN sẽ đóng vai trò là nguồn đầu tƣ ban đầu cho các trƣờng ĐHCL, những đối tƣợng thụ hƣởng dịch vụ giáo dục đại học phải trả tƣơng xứng với chất lƣợng của dịch vụ cung cấp theo phƣơng thức vay tín dụng và trả sau khi tốt nghiệp. Để áp dụng đƣợc mô hình này cần có hai điều kiện: một là mức độ đầu tƣ ban đầu của NSNN và các thành phần khác đủ hình thành một ĐHCL có chất lƣợng, hai là Nhà nƣớc cần thiết lập đƣợc một cơ chế hữu hiệu nhằm thu hồi nợ vay của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Mô hình 3: Tăng học phí kết hợp với các chính sách hỗ trợ Theo mô hình này, mức học phí phải đƣợc tính toán sao cho có thể bù đắp một phần đáng kể các chi phí hoạt động của các trƣờng ĐHCL, đồng thời mô hình này sẽ hƣớng đến các chính sách hỗ trợ học phí đối với các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Gia tăng học phí đƣợc xem nhƣ một giải pháp chủ yếu nhằm chia sẽ chi phí giáo dục. Nhƣ vậy, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh và khả năng nguồn NSNN đầu tƣ cho giáo dục đại học mà có thể lựa chọn mô hình tài chính thích hợp áp dụng cho các trƣờng ĐHCL. Frank Ziegle (1998) đã chỉ ra những ƣu điểm khi chính phủ Đức thực hiện giao quyền tự chủ tài chính cho các trƣờng đại học: một là tất cả khoản tiền chi ngân sách cho các trƣờng đại học trong một năm đƣợc chuyển toàn bộ trong một lần duy nhất. Điều này giúp các trƣờng đại học dự kiến, đƣa ra quyết định phân bổ nguồn lực hiệu quả khi họ biết chính xác số tiền ngân sách mình có. Hai là so với việc phân bổ ngân sách theo nhiều cấp nhƣ truyền thống, việc phân quyền xử lý ngân sách cho chính các trƣờng đại học là hiệu quả hơn. Bởi vì các trƣờng đại học nắm rõ nhu cầu của chính họ, giúp việc phân bổ ngân sách hiệu quả và linh hoạt hơn. Ba là việc phân quyền khiến các trƣờng đại học phải chịu trách nhiệm nhiều hơn đối với việc xử lý nguồn vốn ngân sách. Ngân sách chỉ đƣợc phân bổ một lần, nên ngƣời đứng đầu các trƣờng đại học phải sử dụng một cách tiết kiệm nhất. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra rằng muốn việc tự chủ tài chính đƣợc thực hiện hiệu quả thì Chính phủ phải bãi bỏ những quy định gây hạn chế quyền tự chủ của các trƣờng đại học. Tạp chí The Economist trong cuộc khảo sát toàn cầu về giáo dục đại học năm 2006, cho rằng sự thành công của giáo dục đại học Hoa Kỳ có phần do vai trò có giới hạn của Chính phủ và do mức độ tiếp cận cao với các nguồn tài chính. 1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước Tại Việt Nam, vấn đề tự chủ cho các trƣờng ĐHCL, trong đó có tự chủ tài chính đã đƣợc đề cập trong một số văn bản pháp luật. Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14/06/2005 và Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục số 44/2009/QH12 ngày 25/11/2009 đã nói về vấn đề tự chủ của các trƣờng ĐHCL: quy định các trƣờng đại học đƣợc tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong xây dựng chỉ tiêu, tổ chức tuyển sinh, chƣơng trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy, học tập, tuyển dụng, huy động và sử dụng các nguồn tài chính(...). Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 ngày 18/6/2012 đã quy định chi tiết hơn về quyền tự chủ đối với các trƣờng đại học. Về phía Chính phủ, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Ngày 25/4/2006, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, hiện nay đƣợc thay thế bằng Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Để đẩy mạnh hơn việc đổi mới cơ chế hoạt động của các trƣờng ĐHCL, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2015 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL giai đoạn 2014 – 2017 và bƣớc đầu cho một số trƣờng đại học đƣợc áp dụng nhƣ Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Hà Nội, Đại học Tài chính - Marketing, Đại học Ngoại thƣơng, Đại học Công nghiệp Dệt May Hà Nội, Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh, Đại học Công nghiệp thực phẩm TP. Hồ Chí Minh, Đại học Điện lực, Học viện Công nghệ Bƣu chính viễn thông. Điều này thể hiện sự đổi mới tƣ duy và cơ chế quản lý giáo dục đại học hƣớng sang việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học, nhất là áp dụng cơ chế tự chủ tài chính. Với việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các trƣờng ĐHCL đã mở ra cơ hội cho các trƣờng nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản của đơn vị, sử dụng NSNN đƣợc giao tiết kiệm, hiệu quả hơn. Khi nguồn thu tăng lên, các trƣờng sẽ có những nguồn lực tài chính để tăng đầu tƣ cho cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực để từ đó nâng cao chất lƣợng giáo dục đại học. Đồng thời , các trƣờng ĐHCL có nguồn lực nâng cao đời sống, thu nhập của giảng viên, tạo động lực để họ tích cực lao động nâng cao chất lƣợng đào tạo. Tuy nhiên, mặc dù thời gian áp dụng cơ chế tự chủ tài chính đối với các trƣờng đại học đã 10 năm nhƣng kết quả đạt đƣợc chƣa cao, việc áp dụng cơ chế tự chủ tài chính vẫn còn nhiều hạn chế và mâu thuẫn trong thực tế. Đã có nhiều công trình, bài nghiên cứu của các nhà khoa học trong nƣớc đánh giá, phân tích thực trạng việc áp dụng cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng ĐHCL, những kết quả đạt đƣợc, các hạn chế, nguyên nhân các hạn chế, các giải pháp tăng hiệu quả áp dụng cơ chế tự chủ tài chính của các trƣờng ĐHCL ở Việt Nam hiện nay. Các công trình tập trung nghiên cứu vào 3 vấn đề chính của cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng ĐHCL gồm cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính, huy động nguồn lực tài chính, sử dụng các nguồn tài chính. Thứ nhất, về cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính Nguyễn Trƣờng Giang (2012) chỉ ra việc phân bổ NSNN cho các cơ sở đào tạo công lập mang tính bình quân, chƣa gắn với nhu cầu đào tạo, cơ cấu ngành nghề, chất lƣợng đào tạo. Việc giao dự toán NSNN cho các trƣờng ĐHCL đƣợc thực hiện theo cơ chế khoán, việc giao khoán đƣợc căn cứ vào khả năng của ngân sách, dự toán đƣợc giao năm trƣớc để làm căn cứ giao khoán năm sau, việc giao khoán ngân sách dựa trên các định mức ban hành đã lâu, chƣa đƣợc sửa đổi, mức khoán NSNN không đƣợc điều chỉnh theo số lƣợng, chất lƣợng, cơ cấu ngành nghề và quy mô đào tạo của các trƣờng hàng năm. Việc phân bổ này không gắn với kết quả đào tạo, số lƣợng, chất lƣợng học sinh đào tạo, tính năng động, hiệu quả trong tổ chức hoạt động của các cơ sở đào tạo nên không tạo động lực cạnh tranh nâng cao chất lƣợng đào tạo giữa các trƣờng ĐHCL. Tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhƣ: thay đổi cơ chế phân bổ NSNN theo các tiêu chí đầu vào là số lƣợng, quy mô học sinh nhập học, sang việc phân bổ NSNN theo tiêu chí đầu ra, gắn với các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong đào tạo, định mức phân bổ chi phí đào tạo, có sự phân biệt giữa cơ sở hoạt động có chất lƣợng, hiệu quả, với cơ sở kém chất lƣợng, không hiệu quả, thực hiện phân bổ kinh phí gắn với các kết quả đánh giá, kiểm định độc lập về chất lƣợng đào tạo; Nhà nƣớc cần phải thực hiện tái cơ cấu phân bổ nguồn lực NSNN cho giáo dục đại học theo hƣớng ƣu tiên cho việc xây dựng, tăng cƣờng cơ sở vật chất, trang thiết bị đảm bảo chất lƣợng đào tạo, giảm dần, tiến tới không hỗ trợ chi phí đào tạo đối với những ngành học đã đáp ứng nhu cầu xã hội, ngành học mà ngƣời học và gia đình sẵn sàng bỏ chi phí để theo học; Xây dựng các tiêu chí để từng bƣớc thực hiện việc đấu thầu kinh phí đào tạo từ NSNN, theo đó nguồn lực từ NSNN sẽ đƣợc giao cho những cơ sở đào tạo có chất lƣợng, hiệu quả và chi phí hợp lý, thực hiện cạnh tranh làm mạnh giữa các cơ sở đào tạo, không phân biệt cơ sở công lập, ngoài công lập. Nguyễn Minh Thuyết (2014) đề cập đến vấn đề phân bổ NSNN cho các trƣờng ĐHCL, các trƣờng ĐHCL nhận kinh phí hoạt động từ NSNN theo chỉ tiêu đào tạo, tức là số lƣợng ngƣời học đƣợc Nhà nƣớc đài thọ (số này thƣờng chỉ bằng 1/3 số ngƣời học trong thực tế) và có trách nhiệm quản lý, sử dụng nguồn NSNN theo quy định của Luật NSNN. Kinh phí NCKH trên thực tế đƣợc phân bổ theo số lƣợng cán bộ, thƣờng là bằng 1/3 kinh phí chi theo số lƣợng cán bộ cho các viện NCKH. Cơ sở giáo dục đại học đƣợc quyết định mức học phí trong phạm vi khung học phí do Chính phủ ban hành. Điều nay gây ra nhiều khó khăn cho các trƣờng ĐHCL trong việc giảng dạy và NCKH. Tác giả cũng đề xuất một số giải pháp đổi mới việc phân bổ ngân sách cho các trƣờng ĐHCL trong thời gian tới. Thứ hai, về huy động nguồn lực tài chính của các trường ĐHCL Phạm Thị Vân Anh (2016) chỉ ra nguồn tăng thu của các trƣờng đại học hiện nay vẫn là tăng quy mô đào tạo chứ chƣa huy động đƣợc nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa học công nghệ và dịch vụ tƣ vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức và cá nhân trong nƣớc. Điều này phản ánh chất lƣợng đào tạo và NCKH của các trƣờng ĐHCL hiện nay chƣa cao. Trong khi ở nhiều trƣờng đại học trên thế giới, nguồn thu từ chuyển giao NCKH khá lớn. Các trƣờng đại học đƣợc tự chủ về mức chi nhƣng tự chủ về thu chƣa tƣơng xứng, dẫn tới hiệu quả của việc thực hiện tự chủ không hơn là bao so với không tự chủ. Về nguồn thu từ học phí, tác giả cho rằng do bị khống chế về trần học phí, mức trần học phí thƣờng thấp, thu không đủ chi cho nên một số cơ sở giáo dục ĐHCL xé rào, ban hành nhiều khoản thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong việc sử dụng nguồn thu. Việc duy trì mức học phí thấp, dẫn đến các cơ sở giáo dục ĐHCL không có đủ nguồn để cải thiện thu nhập cho giảng viên từ nguồn học phí chính quy, không thu hút và giữ đƣợc những giảng viên có trình độ tham gia giảng dạy. Để có nguồn bổ sung thu nhập các trƣờng phải khai thác từ các hoạt động đào tạo không chính quy, dẫn đến thời gian đứng lớp của giảng viên đại học phần lớn bị quá tải. Phùng Xuân Nhạ và các cộng sự (2012) cho rằng việc áp mức trần học phí theo quy định tại Nghị định 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ tại các trƣờng ĐHCL áp dụng cơ chế tự chủ về tài chính là chƣa hợp lý. Các tác giả đề xuất, đối với các ngành nghề có khả năng xã hội hóa cao (ví dụ tài chính, ngân hàng, thƣơng mại) nên xây dựng lộ trình cho phép các cơ sở đào tạo tự xác định mức học phí, đảm bảo tự cân đối kinh phí đào tạo. NSNN tiết kiệm đƣợc từ những ngành nghề này chuyển sang góp phần thực hiện cơ chế Nhà nƣớc đặt hàng đối với các ngành nghề đào tạo ít có khả năng xã hội hóa (ví dụ khoa học cơ bản, nghệ thuật, điện hạt nhân, sƣ phạm) với mức giá đặt hàng đƣợc tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo. Để thực hiện việc cải cách học phí và cơ chế cấp phát NSNN vừa nêu, các tác giả đề xuất thực hiện đồng thời hai giải pháp: một là xây dựng và phê duyệt đề án tự chủ tài chính (trong đó có chính sách học phí) theo trƣờng; hai là Nhà nƣớc chủ động từng bƣớc giao quyền tự chủ tài chính cao hơn cho toàn khối giáo dục (trong đó có quyền tự chủ về xác định mức học phí). Tuy nhiên các giải pháp này mới dừng lại ở tính định hƣớng, cần tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa để có thể triển khai thực tế. Nguyễn Trƣờng Giang (2012) cho rằng mức học phí thấp ở các trƣờng ĐHCL nhƣ hiện nay không đủ bù đắp chi thƣờng xuyên. Chính sách học phí của Việt Nam đã đƣợc giữ nguyên trong một thời gian trên 10 năm (từ 1998 đến 2009), đến năm 2010 đƣợc điều chỉnh theo quy định tại Nghị định số 49/2010/NĐ-CP với mức điều chỉnh theo lộ trình tăng dần từ 20-25% mỗi năm. Tuy vậy theo tính toán đến năm 2015 mức thu học phí cũng chỉ đáp ứng đƣợc từ 40% -50% chi phí đào tạo cần thiết. Điều này dẫn tới việc các trƣờng ĐHCL không có đủ nguồn tài chính cần thiết để bù đắp chi phí đào tạo, đảm bảo chất lƣợng đào tạo và tái đầu tƣ phát triển, không có đủ nguồn tài chính để cải thiện thu nhập cho giảng viên, không thu hút và giữ đƣợc những giảng viên có trình độ chuyên tâm tham gia giảng dạy. Tác giả cũng đề xuất giải pháp từng bƣớc tính đủ chi phí đào tạo cần thiết trong học phí, việc tính đủ học phí là cần thiết, phù hợp với thông lệ quốc tế về giáo dục đại học, học đại học để có nghề, tạo thu nhập kiếm sống nuôi sống bản thân và gia đình nên ngƣời học phải đóng đủ học phí. Thứ ba, sử dụng các nguồn tài chính của các trường ĐHCL Đỗ Thị Thanh Vân (2012) trong nghiên cứu của mình đã đƣa ra những kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ những hạn chế, vƣớng mắc trong quá trình áp dụng cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng ĐHCL. Tác giả đề cập đến thực trạng mức thu học phí và chỉ tiêu tuyển sinh còn giới hạn bởi các quy định của Nhà nƣớc, cơ chế, định mức chi tiêu còn thiếu thực tiễn, nhiều khoản chi phát sinh thực tế nhƣng không có cơ chế thu đảm bảo, chƣa có cơ chế chính sách đủ mạnh để các trƣờng chi trả tiền lƣơng, thƣởng với mức hấp dẫn để thu hút những cán bộ, giảng viên có chất lƣợng làm việc. Cùng với những nhận xét trên, nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra những bất cập, hạn chế trong sử dụng các nguồn tài chính tại các trƣờng ĐHCL. Về thực chất tự chủ tài chính, các trƣờng chủ yếu đƣợc tự chủ về chi nhƣng cơ bản không đƣợc tự chủ về thu. Trong sử dụng nguồn tài chính, các trƣờng ĐHCL không đƣợc thực hiện chi trả lƣơng cho giảng viên với mức cao hơn mà chủ yếu dựa vào thang bảng lƣơng do Nhà nƣớc quy định, cơ chế tuyển dụng, bồi dƣỡng chuyên môn vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này mâu thuẫn với quan điểm khuyến khích các trƣờng ĐHCL có nguồn thu cao chuyển sang hoạt động theo cơ chế nhƣ một doanh nghiệp. Với điều kiện kinh tế thị trƣờng và hội nhập kinh tế thế giới sâu rộng nhƣ hiện nay, các doanh nghiệp đang thực hiện trả lƣơng rất linh hoạt, các trƣờng đại học sẽ rất khó cạnh tranh trong việc thu hút nhân tài, huy động nguồn lực cho phát triển, xây dựng cơ sở vật chất để nâng cao chất lƣợng đào tạo. Nhƣ vậy, có thể thấy liên quan đến đề tài luận văn của hoc̣ viên có rất nhiều nghiên cƣ́u. Các nghiên cứu đã đánh giá thực trạng, đƣa ra nhiều hạn chế và đề xuất nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng cơ chế tự chủ tài chính cho các trƣờng ĐHCL. Tuy nhiên, các giải pháp đƣa ra còn chung chung, chƣa đi vào cụ thể, nhất là đối với những trƣờng đại học đặc thù hơn. Chƣa có nhiều nghiên cứu đối với những trƣờng ĐHCL mang tính chất đặc thù hơn nhƣ các trƣờng ĐHCL địa phƣơng. Đại học Hồng Đức là một trƣờng đại học địa phƣơng trực thuộc UBND tỉnh Thanh Hóa, cơ chế hoạt động, cấp phát sử dụng vốn NSNN cũng có những đặc thù khác biệt. Mức độ tự chủ về tài chính hiện nay của trƣờng tƣơng đối thấp, mức thu học phí cũng thuộc diện thấp nhất trong cả nƣớc. Tuy nhiên, tự chủ đại học trong tƣơng lai gần không phải là một sự lựa chọn mà là một tất yếu đối với tất cả những trƣờng mong muốn tồn tại, nâng cao chất lƣợng đào tạo. Những trƣờng ĐHCL đặc thù cần một lộ trình cụ thể hơn để tiến tới tự chủ hoàn toàn về tài chính. Chính vì vậy, luận văn sẽ nghiên cứu về quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Hồng Đức, thông qua phân tích, khảo sát để đánh giá thực trạng áp dụng, kết quả áp dụng cơ chế tự chủ tài chính và đƣa ra lộ trình tiến tới tự chủ tài chính ở mức độ cao hơn cho Đại học Hồng Đức trong thời gian tới. 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng đại học công lập ở Việt Nam 1.2.1. Đặc điểm và vai trò của các trường đại học công lập 1.2.1.1. Đặc điểm của các trường đại học công lập Giáo dục đại học là hệ thống giáo dục bậc cao tiếp theo bậc trung học phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân dành cho học sinh có khả năng và nguyện vọng học tiếp lên các trình độ cao hơn, đƣợc trang bị học vấn cao hơn và đƣợc cấp các bằng cấp trong nhiều lĩnh vực ngành nghề từ bậc cao đẳng, đại học và sau đại học. Theo Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 ngày 18/06/2012, cơ sở giáo dục đại học bao g ồm tổ hợp các trƣờng cao đẳng, trƣờng đại học, viện nghiên cứu khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học. Cũng theo Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13, cơ sở giáo dục đại học trong hê ̣thống giáo duc̣ quốc dân gồm: - Trƣờng cao đẳng; - Trƣờng đại học, học viện ; Đại học vùng, đại học quốc gia (sau đây gọi chung là đại học); - Viện NCKH đƣợc phép đào tạo trình độ tiến sĩ. Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đƣợc tổ chức theo các loại hình sau đây: - Cơ sở giáo dục ĐHCL thuộc sở hữu Nhà nƣớc, do Nhà nƣớc đầu tƣ, xây dựng cơ sở vật chất; - Cơ sở giáo dục đại học tƣ thục thuộc sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tƣ nhân hoặc cá nhân, do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tƣ nhân hoặc cá nhân đầu tƣ, xây dựng cơ sở vật chất. Nhƣ vậy, có thể định nghĩa: ĐHCL là trƣờng đại học do chính quyền (trung ƣơng hoặc địa phƣơng) thành lập, xây dựng và quản lý, đƣợc chính quyền đảm bảo nguồn chi thƣờng xuyên để hoạt động. Về đặc điểm, ngoài các đặc điểm chung của hệ thống các trƣờng đại học nhƣ về sản phẩm đào tạo, cách thức hoạt động và đào tạo, các trƣờng ĐHCL có những đặc điểm riêng biệt nhƣ: Về cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy hoạt động: các trƣờng ĐHCL do chính quyền (trung ƣơng hoặc địa phƣơng) thành lập. Do đó chịu sự quản lý, giám sát của chính quyền về hoạt động, tổ chức bộ máy quản lý theo các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc trung ƣơng và địa phƣơng. Bộ máy tổ chức đƣợc thành lập theo quy định của pháp luật thƣờng bao gồm Hội đồng trƣờng, Ban giám hiệu, cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050007873_0771_2003198.pdf
Tài liệu liên quan