Luận văn Quán ngữ tình thái tiếng Việt

Cũng nhưQN theo cách hiểu thông thường, QNTT là những tổhợp

từhay lời nói mang tính ổn định được tái hiện nhiều lần do nhu cầu cần

thiết của sựgiao tiếp. Tính thành ngữvà tính ổn định của cấu trúc của

QNTT không cao. Đặc điểm của cụm từtựdo còn in đậm trong các cụm

từcố định thuộc loại này. Song, chúng không đơn thuần là phương tiện

liên kết hay dùng để đưa đẩy, rào đón, dẫn ý, chuyển ý nhưcác nhà từ

vựng đã nhận định. Trên thực tế, chúng có vai trò quan trọng và đa dạng

hơn nhiều.Tác dụng của QNTT là làm phương tiện bổtrợ, tác động vào

nội dung mệnh đề, vào ý nghĩa của chỉnh thểcâu; đưa vào câu những

kiểu tình thái đánh giá, biểu cảm khác nhau, gắn câu với hoàn cảnh giao

tiếp hiện thực, tạo nên tính sinh động, uyển chuyển và chính xác của câu

nói. Trên cơsởquan sát những QNTT thu được, chúng tôinhận thấy

chúng có những đặc điểm nổi bật đáng chú ý sau đây:

pdf94 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3114 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quán ngữ tình thái tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, có chức năng liên kết. o Về cấu trúc, thường có cấu trúc là cụm từ, một số trường hợp có kết cấu là cụm chủ – vị (chẳng hạn: ai có ngờ đâu, ai có dè đâu,…). o Về chức năng tạo câu, QNTT tương đương với từ. o Về ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa của QNTT tương đương với ý nghĩa của một từ hoặc cụm từ. o Là cụm từ cố định (đơn vị có sẵn trong vốn từ vựng của ngôn ngữ) nhưng ranh giới của lớp từ này với cụm từ tự do (đơn vị cấu tạo tự do trong lời nói) là không rõ ràng, cụ thể. Từ những đặc điểm trên, qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi tổng hợp và đưa vào danh sách một số QNTT TV thường dùng. Chúng cũng là đối tượng nghiên cứu của luận văn (x.Phụ lục). * Tiểu kết Nhìn chung, ở chương này, chúng tôi đã bước đầu xác định một số đặc điểm cơ bản của lớp từ được chọn làm đối tượng khảo sát ở luận văn – QNTT tiếng Việt. So sánh với thành ngữ, chúng tôi rút ra vài đặc điểm khác nhau cơ bản giữa hai khái niệm quán ngữ và thành ngữ. Luận văn đưa ra bốn loại QN được phân biệt nhau trên cơ sở giữa chúng có sự khác nhau về công dụng. Từ đó nhận ra QNTT – dùng trong chức năng dụng học – là loại được sử dụng phổ biến hơn cả. Cũng cần nói thêm rằng, trong chương này, luận văn chỉ đề cập đến một khía cạnh khá nhỏ trong một phạm trù rộng lớn như khái niệm tình thái. Đó là chúng tôi nhận ra rằng phần lớn ý nghĩa tình thái đều có liên quan đến trạng thái nhận thức, đánh giá, thái độ, tâm lí và tình cảm của người nói. Cùng với những phương tiện từ vựng khác, QNTT là đơn vị có khả năng biểu hiện ý nghĩa tình thái với đặc điểm và cách dùng riêng. Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TIẾNG VIỆT Cũng như QN theo cách hiểu thông thường, QNTT là những tổ hợp từ hay lời nói mang tính ổn định được tái hiện nhiều lần do nhu cầu cần thiết của sự giao tiếp. Tính thành ngữ và tính ổn định của cấu trúc của QNTT không cao. Đặc điểm của cụm từ tự do còn in đậm trong các cụm từ cố định thuộc loại này. Song, chúng không đơn thuần là phương tiện liên kết hay dùng để đưa đẩy, rào đón, dẫn ý, chuyển ý như các nhà từ vựng đã nhận định. Trên thực tế, chúng có vai trò quan trọng và đa dạng hơn nhiều. Tác dụng của QNTT là làm phương tiện bổ trợ, tác động vào nội dung mệnh đề, vào ý nghĩa của chỉnh thể câu; đưa vào câu những kiểu tình thái đánh giá, biểu cảm khác nhau, gắn câu với hoàn cảnh giao tiếp hiện thực, tạo nên tính sinh động, uyển chuyển và chính xác của câu nói. Trên cơ sở quan sát những QNTT thu được, chúng tôi nhận thấy chúng có những đặc điểm nổi bật đáng chú ý sau đây: 2.1. Đặc điểm hình thức của QNTT tiếng Việt Gần đây, một số nhà Việt ngữ học đã thấy được tầm quan trọng của QNTT trong việc tạo nghĩa tình thái hay kiến tạo phát ngôn. Thế nhưng, việc nghiên cứu về QN tình thái cho đến nay có thể nói là còn khá mỏng và rời rạc. Các thông tin về ngữ pháp mà chúng hàm chứa dường như quá ít ỏi và khó khái quát thành đặc điểm chung. Rõ ràng do không có tiêu chí minh bạch, cụ thể về hình thức cũng như nội dung nên nhìn chung các thủ pháp phân tích kiểu cấu trúc luận đối với lớp từ này còn gặp phải nhiều khó khăn. Dù vậy, chúng tôi cũng mong muốn khái quát được một số đặc điểm hình thức cấu tạo của QNTT. Xét từ góc độ hình thức cấu tạo nội tại của bản thân các QNTT, có thể thấy chúng là những tổ hợp có độ dài ngắn khác nhau. Căn cứ vào số lượng thành tố tham gia cấu thành tổ hợp, một cách chung nhất có thể phân chúng thành hai nhóm: - Nhóm 1: các QNTT có cấu tạo gồm hai thành tố, như: ắt hẳn, biết đâu, chả trách, có lẽ, hóa ra, lại còn, nghe chừng, quả tình, phải chi, giá mà, thảo nào, thế ra,… Đây là những tổ hợp mà trước nay quan niệm truyền thống nhìn từ góc độ cấu trúc của câu vẫn gọi là thành phần phụ của câu. - Nhóm 2: các QNTT có cấu tạo từ ba thành tố trở lên. Ví dụ: ấy thế mà, của đáng tội, cực chẳng đã, chưa biết chừng, đến mùa quýt, chẳng đâu vào đâu, bất quá là cùng, làm cho ra vẻ,… Căn cứ vào khả năng phân bố vị trí của các QNTT trong câu / phát ngôn, chúng ta có thể phân thành: - Các QNTT ở vị trí cuối câu/ phát ngôn: P cũng nên, P có khác, P không chừng, P là cái chắc, P là cùng, P quá đi chớ, P thì có,… - Các QNTT ở vị trí đầu câu/ phát ngôn, cho phép dự báo thông tin phát ngôn. Đây hầu như là hình thức khá phổ biến của QN tiếng Việt và cũng là lí do chủ yếu chúng được xếp vào hệ thống ngữ cố định. Theo đó là các QN: theo tôi thì, có ngờ đâu là, rõ ràng là, nghe đâu, thấy bảo, hơi sức đâu mà, may mắn thay, thật tình mà nói, thảo nào,… - Các QNTT ở vị trí linh hoạt: +Đầu hoặc cuối câu/ phát ngôn: thôi nào, không biết, … +Đầu hoặc giữa câu/ phát ngôn: chắc là, hình như, quả thật, chẳng lẽ,.. Dễ dàng nhận thấy cấu trúc của QNTT là một vấn đề cần bàn đến để giúp phân biệt chúng với các cấu trúc của các loại đơn vị khác trong ngữ cố định. Theo chúng tôi QN khá đa dạng về cấu trúc cú pháp. Một số QNTT khi được sử dụng vẫn có thể thêm vào hoặc cắt đi một, hai thành tố một cách rất linh hoạt. QNTT khá gần gũi với cụm từ tự do. Có nghĩa là có rất nhiều QNTT có cấu trúc chưa hoàn toàn ổn định như các đơn vị cụm từ cố định khác. Vì thế những trường hợp này rất khó khái quát đặc điểm về cấu trúc cú pháp của QNTT. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi, nếu căn cứ vào đặc điểm cấu tạo, có thể tạm thời xếp một số QNTT vào những cấu trúc cơ bản sau: 2.1.1. QNTT có cấu tạo là những tổ hợp từ có quan hệ đẳng lập Ví dụ: chẳng chóng thì chày, qua ngày đoạn tháng, không sớm thì muộn, ngày một ngày hai, được chăng hay chớ, đến nơi đến chốn, ra đầu ra đũa, cắn rơm cắn cỏ, ra môn ra khoai… Trong những QNTT này, chúng ta nhận thấy tính thành ngữ còn khá cao. Do vậy, chúng chẳng khác TN là mấy. Trường hợp cùng một tổ hợp từ mà các nhà nghiên cứu xếp vào những lớp từ khác nhau cũng là khá phổ biến. Chẳng hạn, với tổ hợp từ ra môn ra khoai, Nguyễn Hữu Quỳnh cho là TN và xếp nó vào bảng TN tiếng Việt [49, tr.307], nhưng Hoàng Trọng Phiến lại cho nó là QN và giải thích: “ra môn ra khoai” tương đương với ra nhẽ, biểu hiện nghĩa làm rõ sự thật của một sự việc, một hành động. Ví dụ: (20) Việc này phải làm cho ra môn ra khoai (phải làm cho ra nhẽ) chứ không thể để mập mờ như vậy được.” [22, tr.216] Tình trạng phức tạp về ngữ nghĩa của các QNTT cũng như những đặc trưng bản chất của chúng, cho thấy những QNTT có cấu tạo theo quan hệ bình đẳng, ngang hàng này đứng ở vị trí trung gian giữa TN và QN. 2.1.2. QNTT có cấu tạo là những tổ hợp từ có quan hệ chính phụ Cụm từ chính phụ khác với cụm từ đẳng lập về kết cấu. Trong cụm từ chính phụ có một thành tố trung tâm và một hay nhiều thành tố phụ bổ sung ý nghĩa cho thành tố trung tâm. Căn cứ vào loại từ trung tâm và thành tố phụ, căn cứ vào quan hệ ý nghĩa, quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố với nhau, ta có thể xác lập trong tiếng Việt có các kiểu loại cụm từ khác nhau như cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ. Xét về cấu tạo, một số khá lớn, QNTT tiếng Việt là các cụm từ có quan hệ chính phụ. Sau đây là vài hình thức hiện thực mà chúng tôi quan sát được: 2.1.2.1. QNTT có cấu tạo là tổ hợp từ có động từ làm trung tâm. Chẳng hạn: cần gì lại phải, cần chi mà, kể làm gì, làm (cho) ra vẻ, biết lấy làm, liệu sao thì liệu,.. Ví dụ: (21) Đứng trước bọn con gái, cậu ta làm cho ra vẻ mình là con người có văn hóa, làm ra vẻ ta đây là trí thức. Một số QNTT có hình thức là một tổ hợp có động từ nói làm trung tâm, như: nói trộm bóng vía, bỏ quá cho, nói khí không phải, nói sai đừng chấp, nói bỏ ngoài tai,…. Theo Trần Ngọc Thêm, mô hình này là Động từ + thành tố chỉ cách thức; theo chúng tôi, vì đặc tính siêu ngôn ngữ của QN nên động từ này thường là nói. Những QNTT có hình thức này chủ yếu bộc lộ sự đánh giá của người nói đối với điều được nói ra theo yêu cầu của nghi thức giao tiếp để đảm bảo tính lịch sự hay sự kiêng tránh theo quy ước của cộng đồng. Chúng có hiệu lực tạm thời như một lời xin lỗi trước. Đặc biệt trong phần QN là cụm động từ, chúng tôi nhận thấy có hiện tượng gặp nhau của cụm động từ với một mệnh đề tỉnh lược chủ ngữ, như: biết đâu chừng, nghe đâu, nghe nói, thấy bảo,.. Ví dụ: (22) Nghe đâu nó sắp về nước rồi phải không? Cũng có thể tái hiện “Tôi” trước “nghe đâu” mà cụm từ này vẫn cùng một chức năng: (23) Tôi nghe đâu nó sắp về nước phải không hoặc: (23’) (Tôi) nghe nói nó sắp về nước phải không? Đa số QN loại này tỉnh lược chủ ngữ một cách tối đa, đến một lúc chúng không còn được nói ra nữa. Lý do thật đơn giản, như chúng tôi đã trình bày, tuy nói là “tỉnh lược chủ ngữ” nhưng chủ ngữ ở đây không thể nào khác hơn là chủ thể phát ngôn (người nói) nên QN dạng này không có chức năng thông báo thông tin thực “Ai làm điều đó”. Nó chỉ là phương tiện đưa đẩy, che chắn. Vì lý do tiết kiệm ngôn ngữ, về mặt tâm lý giao tiếp, … có lẽ người nói thấy không cần thiết nói ra chủ ngữ (vì đó chính là người nói). Thói quen này lâu dần được cố định hoá thành một biểu thức. Ngược lại, nếu thay bằng “Cô ta nghe nói”, “Họ nghe nói”… thì những đơn vị vừa thay đó không phải là QN mà là một tổ hợp tự do, cú pháp hoá thành một mệnh đề thực sự của một câu ghép. Và phát ngôn này chứa đựng hai thông tin thực “Ai làm”, “Làm cái gì”, … 2.1.2.2. QNTT có cấu tạo là một tổ hợp từ có tính từ làm trung tâm Các QNTT loại này thường xuất hiện trong các câu cảm mang đậm màu sắc tình thái, chẳng hạn cực chẳng đã, may mà, may mắn thay, rủi thay, lạ thay,… Ví dụ: (24) May mà còn có đất mua chịu được. Hoặc : (25) Đại hội nhà văn lần thứ tư được nhớ lại như một đại hội có nhiều ý kiến trái ngược gay gắt. May thay các nhà văn của chúng ta đã tỏ ra vững vàng. Theo nguồn ngữ liệu mà chúng tôi thu thập để đưa vào khảo sát không có QNTT có cấu tạo là cụm danh từ. Còn về trường hợp những QNTT có cấu trúc là một cụm chủ-vị như Ai có ngờ đâu, Ai có dè đâu, Nó chết một cái là,..như cũng đã nói, đây chỉ là hình thức phiếm định chủ ngữ. Chúng tuy có hình thức là một câu nhưng chức năng, vai trò trong câu chỉ tương đương với ngữ (tổ hợp từ) như ngờ đâu, dè đâu, chết một cái là…Nếu khảo sát ba yếu tố “rõ thật”, “ai đời”, “rõ khéo”, ta thấy chúng đều đồng đẳng về chức năng: dấu hiệu biểu hiện một thái độ trách cứ, mỉa mai (26) Ay chết! Con làm hỏng cái này rồi. “Ay chết” được Hoàng Trọng Phiến coi là QN và giải thích: Hư từ này có chức năng như một câu cảm thán, tỏ ý ngạc nhiên, can ngăn. Câu tiếp theo nói về nội dung cảm thán đó. [22, tr.2]. Từ ví dụ trên, chúng ta thử lược bỏ “ấy”, phát ngôn sẽ còn lại chỉ một từ đơn là “chết”: (26’) Chết! Con làm hỏng cái này rồi. Hoặc lược bỏ “chết”: (26’’) Ay! Con làm hỏng cái này rồi. PN không thay đổi vì “ấy chết”, “chết” và “ấy” đều có chức năng công cụ, nếu có khác nhau thì chỉ là ở cấp độ cảm thán. Do đó, nếu đã chấp nhận “ấy chết”(26) là QN thì “chết”(26’) và “ấy”(26’’) cũng là QN. Hoàng Phê quan niệm các QNTT là những tác tử lôgic tiếng Việt. Dựa theo ý kiến này và quan niệm “từ ghép hư” của Đỗ Hữu Châu, chúng tôi cho rằng, mặc dù có hình thức từ đơn (sự trùng hợp ngẫu nhiên của một yếu tố ngôn ngữ), QNTT vẫn có khuynh hướng được hình thành bằng nhiều hình vị hoặc sự kết hợp nhiều hình vị vào một từ đơn có sẵn, vốn cũng là hoặc không phải là QN để tạo nên một tổ hợp QN có nghĩa tình thái rất cao. Ví dụ có lẽ = có + lẽ sẽ có phái sinh chắc có lẽ = chắc + có+ lẽ + nào, thảo nào (mà) = thảo + nào + (mà), ấy vậy mà = ấy + vậy + mà, chẳng trách là = chẳng + trách + là,… Chúng được tái sử dụng nhiều lần sau đó và trở nên ổn định, tức là có độ lặp. Các QN ấy thiếu lôgic về ngữ nghĩa thuần tuý nhưng lúc bấy giờ, có vẻ như người nói cố tình muốn dùng như vậy để làm nổi bật về nghĩa tình thái trong hành vi liên kết ấy của người nói. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy rằng về tổng quát, biểu thức QN tiếng Việt không có hiện tượng cấu trúc hoá cao, nhưng trong trường hợp phản ánh tình thái, QN tiếng Việt cũng có những biểu thức khá ổn định như: Thật đúng (là) P/Thật là P/Rõ là/X thay /Cho +X(cho lắm, cho hay, cho đành)/ Chưa+X( chưa biết chừng, chưa chi)/Có +X(có chăng, có họa là)/ Nghe+X/ Phải +X/ Ra+X/… Rõ ràng, cấu trúc cú pháp của QNTTTV rất đa dạng, phức tạp, ngoại lệ nhiều hơn quy luật. Có lẽ do chúng còn quá gần gũi với các đơn vị là cụm từ tự do, các thành tố của chúng được thêm vào hay bớt đi đến mức tối giản chỉ còn lại một từ đơn là có thể được. Vì vậy cấu trúc của QNTT có thể tồn tại từ nhỏ nhất là từ đơn đến lớn nhất là mệnh đề. Tóm lại, trong thuật ngữ QNTT, QN chỉ còn lại một cái tên, trên thực tế, đặc điểm “ngữ” của nó không còn có ý nghĩa truyền thống là một “cụm từ” nữa mà chỉ là một “yếu tố ngôn ngữ” như danh ngữ, động ngữ, tính ngữ, hoặc nói theo thuật ngữ ngữ dụng học là một dấu hiệu diễn ngôn (discourse signal/marker/device), ở đó có khả năng một chức năng có thể được biểu hiện bằng nhiều hình thái và một hình thái có khả năng chỉ ra nhiều chức năng. Như vậy, tuy có tên là QN nhưng trong khi hành chức, các thành tố dụng học này không mang nhiều đặc trưng gần gũi với các đơn vị cụm từ cố định khác. Nói cách khác, chúng đã tồn tại vượt ra khỏi hệ thống cụm từ cố định. Đây là một vấn đề mà chúng tôi nhận thức rằng vẫn còn gây tranh cãi nên các ý kiến đưa ra của chúng tôi hoàn toàn không phải là những kết luận cuối cùng mà chỉ là những điều có tính gợi mở trong nghiên cứu. 2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa – chức năng của QNTT tiếng Việt 2.2.1. Vấn đề chung Trên quan điểm chức năng, khi nói đến vấn đề nghĩa, Cao Xuân Hạo đã viết: “(…) người ta đã từng thấy có thể phân định đơn vị từ, phân chia từ loại, phân biệt thực từ và hư từ…, căn cứ vào những tiêu chí ngữ nghĩa được hiểu một cách đơn giản hóa quá mức nghĩa ở đây chẳng qua là khả năng biểu hiện những sự vật hiện tượng của thế giới hiện thực, không thấy rằng chức năng biểu thị và cương vị ngữ pháp không phải là một, cũng không thấy rằng nghĩa biểu hiện mới chỉ là một trong các bình diện đa dạng của nghĩa. Cách quan niệm sơ lược về nghĩa khiến cho phần đông các tác giả không thấy cần biết đến nghĩa logic ngôn từ, ý nghĩa tình thái, giá trị thông báo, giá trị ngôn trung (illocutionnary force), giá trị xuyên ngôn (perlocutionary force)” [2, tr.4-5]. Theo đó, tác giả đã xếp một số yếu tố biểu thị tình thái của câu, trong đó có các QNTT, vào cấu trúc Đề - thuyết, với tư cách là cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Trong công trình nghiên cứu của mình, Cao Xuân Hạo đã dành hẳn một chương mục để miêu tả những yếu tố biểu thị tình thái của câu trong cấu trúc cú pháp cơ bản, gồm những yếu tố tình thái làm thành đề của câu, những yếu tố biểu thị tình thái được xử lí như một phần thuyết tình thái (được đánh dấu bằng thì hoặc là) [2, tr.174-182]. Xét ví dụ sau: (27) Dù sao (thì) cung đã muộn rồi. (28) Anh ở đây mà phiền thì lạ thật. (Ghi chú: Đ: đề; T: thuyết; đ: đề; t: thuyết; C: câu) Như vậy, qua phân tích và lí giải của Cao Xuân Hạo theo quan điểm của ngữ pháp chức năng, ta thấy, những QNTT dẫu sao (thì), (thì) lạ thật, đảm nhiệm chức năng thành phần câu. Dù tác giả có gọi đó là siêu đề hay thuyết tình thái và cho là “cả hai gói câu nói vào một cái khung tình thái” [2, tr.181], nhưng vẫn quả quyết “Nó hoàn toàn đáp ứng với định nghĩa của một phần Đề: đó là cái phạm vi ứng dụng của phần Thuyết, tức phần còn lại của câu” [2, tr.176]. Trái lại, có tác giả lại xếp lớp từ này vào Tình thái ngữ và cho rằng: “Chúng không tham gia vào cấu trúc cú pháp biểu thị nội dung phản ánh hiện thực khách quan. Nó là hình thức thể hiện một trong hai thành phần nghĩa cơ bản của câu, thành phần nghĩa tình thái dụng học. Tuy có vai trò quan trọng về nghĩa nhưng tình thái ngữ vẫn không được xem là thành phần chính của câu, bởi lẽ: -Tình thái ngữ không phải là thành phần ngữ pháp bắt buộc phải có trong câu bình thường để đảm bảo tính hoàn chỉnh, độc lập của câu như chủ ngữ, vị ngữ. Đ T C đ2 đ3 C t3 t2 T Đ -Tình thái ngữ tồn tại theo phương thức đi kèm với cấu trúc cú pháp biểu thị nội dung phản ánh hiện thực”. [5, tr.92-94]. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tạm gác sang một bên vấn đề quy từ loại hay thành phần câu cho những tổ hợp nêu trên. Chúng đều được coi là những QNTT( với tư cách là một đơn vị ngôn ngữ), và chúng tôi sẽ khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa - chức năng của lớp từ này. Trước hết, dựa theo giáo trình “Sơ thảo Ngữ pháp chức năng” [2, tr.177-179], chúng tôi xin khái lược một số nét cơ bản về ngữ nghĩa của QNTT tiếng Việt như sau: - Giới thiệu điều được nhận định hay trần thuật như có một giá trị chân lí tương đối hay một khả năng xác thực hạn chế nào đó thật ra, kể ra, suy ra, xem ra, may ra, nhỡ ra (một cái), lẽ ra, lí ra, đằng thằng ra, thiếu chút nữa,… Ví dụ: (29) Thật ra thì tôi có biết gì đâu. (30) Nói cho đúng ra thì anh cũng có nóng. (31) Ngữ này xem ra cũng biết điều. (32) May ra thì cũng được vài thúng gạo. (33) Lẽ ra anh phải đến sớm hơn. (34) Phải cẩn thận, nhỡ ra một cái thì phiền lắm. - Khẳng định tính đương nhiên trong mọi tình huống: dẫu sao (thì)… cũng…, thế nào cũng…., đằng nào cũng…, đằng nào (mà)… chẳng. Ví dụ: (35) Dù sao thì cũng đã muộn rồi. - Nhận định về một khả năng cùng cực: ít ra thì, giỏi lắm là, may lắm là, cùng lắm thì, quá lắm thì,… Ví dụ: (36) Anh ăn giỏi lắm là được bốn bát chứ mấy. (37) Cùng lắm thì lấy thóc giống ra mà bán. - Thừa nhận giá trị chân lí của một nhận định được tiền giả định, hoặc nhấn mạnh giá trị chân lí của nhận định kế theo: quả thật, quả tình, quả tình, phải nói. - Dẫn nhập một khả năng, một phỏng đoán, một nhận định về khả năng: có thể, có lẽ, hình như, dường như, dẫu như, tưởng như, không loại trừ, không chừng, chưa biết chừng, nghe đâu, nghe nói, không khéo. - Dẫn nhập một sự tình kèm theo một sự đánh giá trong quan hệ với tình huống: có điều, được (một) cái, khốn nổi, hiềm một nổi, (chỉ) mỗi tội, (chỉ) tiếc cái, đáng tiếc, đáng buồn, đáng mừng,… - Nhận định về chân lí đương nhiên của sở thuyết: tất nhiên, (lẽ) đương nhiên, cố nhiên, hẳn, ắt, chắc chắn, chắc hẳn, chắc đúng, quả thật, vị tất, chưa chắc, không nhất thiết,… - Nhận định về tính cùng cực của cái sự tình hay khả năng do sở thuyết biểu thị: hết sức, hay nhất, tốt hơn cả, tệ nhất, đáng tiếc nhất, may lắm, ít nhất,… - Nhận định về ưu thế (về thực tiễn, về đạo đức) của điều được nói trong phần tiếp theo: tốt hơn, chẳng thà,… - Giới thiệu điều sau đó là một điều kiện duy nhất cần thiết: miễn, miễn sao, chỉ xin một điều, chỉ cốt (sao)… - Nhận định về tính bất ngờ của điều được nói trong phần tiếp theo: không ngờ, ai ngờ, ai có dè, ngờ đâu, dè dâu,… - Dẫn nhập một sự tình mới phát hiện hay có tác dụng giải thích: lẽ ra, hóa ra, chẳng hóa ra, số là, chả (…) là. Vấn đề mà luận văn tập trung giải quyết là việc phân tích khía cạnh ngữ nghĩa của các QNTT nằm trong nhóm, tức là sự phân loại các kiểu nghĩa thường gặp của QNTT và mô tả chúng theo cách tiếp cận của ngữ nghĩa- chức năng. Như vậy, phân tích các kiểu nghĩa, luận văn không chỉ sử dụng các tri thức của ngữ nghĩa học truyền thống mà còn tận dụng các kết quả phân tích ngữ nghĩa học gần đây cho vấn đề đặt ra. Với tư cách là một đơn vị biểu đạt ý nghĩa tình thái, các QNTT thường có ý nghĩa, chức năng riêng. Nghĩa của chúng không chỉ thuộc vào nghĩa từ vựng, vào nghĩa ngữ pháp mà còn gắn với ngữ nghĩa – ngữ dụng trong câu. Như vậy, nghĩa của chúng không phải là phép cộng cơ giới đơn thuần nghĩa của từng thành tố tạo thành tổ hợp. Nói cách khác, mỗi QNTT có thể được xem như là một thể hoàn chỉnh, hoạt động như một khối có sẵn trong đó các thành tố đã ít nhiều mất tính độc lập. Chẳng hạn, xét QNTT chỉ có điều P, trong các ví dụ sau: (38) Có chiến đấu thì có hi sinh. Chỉ có điều anh ấy mất mà không biết con mình là trai hay gái. (Kiếp người, tr.78) (39)Thì ra ở đây cũng có những nhà tầng nay mai. Chỉ có điều những khu đất rộng rãi lên nhà tầng không phải của anh em trong đơn vị. (VNQĐ 3/95, tr.15). (40)Bình yên và bão tố đều cần cả, miễn là đúng lúc đúng chỗ. Chỉ có điều cô đến với bình yên của mình và bỏ lại bão tố cho ông Xung, cô tàn nhẫn quá. (Phù thủy, tr.180) (41)Thiên đình lại phải đại nghị. Có điều không ai tâu trình được điều gì thực sự bổ ích. (Tuyển tập truyện ngắn I/tr.194). Chúng ta dễ dàng nhận thấy những phát ngôn có chứa QNTT chỉ có điều luôn giả định sự tồn tại của một phát ngôn QNTT nào đó có trước. Theo Từ điển tiếng Việt (2000), quan hệ ngữ nghĩa giữa P và QNTT là quan hệ bổ sung, “P là ý bổ sung quan trong cho QNTT” [12,198]. Cách giải thích này, theo chúng tôi là chưa thật chính xác. Qua quan sát và phân tích ngữ liệu, chúng tôi cho rằng tổ hợp từ có điều trong kiểu cấu trúc Q (chỉ) có điều P không chỉ cho biết P là sự bổ sung cho QNTT mà còn cho biết thái độ và sự đánh giá của người nói rằng sự bổ sung, điều chỉnh này là không nhiều, có giới hạn. Nét nghĩa tình thái đánh giá không nhiều, có giới hạn này là do từ có mang lại. Điều này có nghĩa là với tư cách là một QNTT, có không còn là một tình thái từ. Nó thường đứng trước danh từ, đôi khi có “chỉ” đi kèm ở trước biểu thị mức độ thấp, ít của điều được nêu ra ở danh từ. Ví dụ: (42) Mỗi bữa, nó ăn (chỉ) có hai chén cơm. Như vậy, rõ ràng là ngay trong trường hợp nghĩa của các thành tố tạo thành QNTT còn rất gần với nghĩa từ vựng vốn có của nó thì thật ra chúng có nét nghĩa khác so với nghĩa của tổ hợp tự do có cùng hình thức. Điều này cũng sẽ được khẳng định hơn trong trường hợp các QNTT cũng do tổ hợp các từ với nhau tạo nên, song hầu như rất khó nhận biết hay tìm ra được sợi dây liên hệ về ngữ nghĩa mà QNTT biểu thị với nghĩa của các thành tố cấu thành tổ hợp. Đó là trường hợp các QNTT kiểu: ai đời P bao giờ, chẳng qua P, cực chẳng đã P, dễ thường P, dù thế nào đi nữa P, khéo mà P, không khéo mà P, gì thì gì P, P quá đi chứ, của đáng tội P,… Có thể nói, ở đây đã diễn ra một sự chuyển biến sâu xa về mặt nghĩa. Chúng ta không thể trực tiếp dựa vào nghĩa của các yếu tố ghép thành tổ hợp để tìm ra nghĩa cho toàn tổ hợp, cho dù chỉ là nghĩa bề mặt. Ngô Hữu Hoàng cho rằng đây là ngữ nghĩa bậc hai và phân tích cơ chế hình thành nó qua ví dụ sau: Xét cụm từ chả/ chẳng trách của hai phát ngôn dưới đây: (43) Em chả/ chẳng trách anh được. (44) Thế thì mỡ đặt miệng mèo. Chả/ chẳng trách có trời giữ. Đứng về mặt quan hệ cú pháp - ngữ nghĩa mà nói, có thể thấy ngay chả/ chẳng trách(43) là một tổ hợp cú pháp bình thường, có vị ngữ động từ trách ở dạng phủ định, có một mệnh đề thông tin trực tiếp là “Người nghe không bị trách cứ”. Thế rồi từ cái “lịch sử” ngữ nghĩa đó, trong nói năng, giao tiếp, người ta lại dùng đi dùng lại cho bất kì một hiện tượng nào đó không thể không xảy ra từ một hệ quả tất yếu (nên phải chấp nhận mà không trách cứ), biến nó thành một loại ngữ nghĩa tình thái, giao cho nó nhiệm vụ báo hiệu một tình cảm, một thái độ chấp nhận đối với thực tế mà mệnh đề thông tin ngay sau đó phản ánh. Và chả/chẳng trách (44) vì thế mà mất đi quan hệ cú pháp giữa hai thành tố chả và trách, bị hình thái hóa thành một chỉnh thể từ vựng – ngữ pháp không thể tách rời và về cú pháp trở thành thành phần độc lập của câu, khi cắt bỏ đi thì nội dung thông tin của phát ngôn không hề thay đổi mà chỉ vắng bóng hoặc khiếm khuyết về cấp độ nghĩa tình thái. Bên cạnh đó chả trách có các tổ hợp hư từ công cụ đồng nghĩa khác có cùng chức năng như thảo nào, đúng là, thật là… rất xa lạ với chả trách của ví dụ (43), và phát ngôn này không thể chấp nhận được khi nói: (43’) Em thảo nào/ đúng là/ thật là anh được. Trong khi đó đối với (44), chúng ta có thể thay thế được hàng loạt các đồng nghĩa ấy theo trục liên tưởng: (44’) … Thảo nào/ đúng là/ thật là… có trời giữ”. (tr.26-27) Lập luận như trên đã cho thấy các QNTT được dùng như công cụ để người nói thực hiện sự đánh giá đối với nội dung mệnh đề, cho biết điều được nói ra là chân thực hay không chân thực, khen hay chê, tán thành hay phản đối điều ấy. Trong thực tế giao tiếp, việc dùng ngôn ngữ để hỏi lại, để chất vấn hay bác bỏ điều được nói ra trước đó hoặc để đánh giá, chú giải nó về một phương diện nào đó, là khá phổ biến. Chẳng hạn, khi ai đó nói: nói khí không phải P, nói bỏ ngoài tai P, nói bỏ quá cho P, khí vô phép P, nói không phải nói P, … thì ngoài việc thông báo P, người ấy còn thể hiện sự đánh giá của cá nhân mình rằng: “điều tôi nói ra (P) theo phép lịch sự thông thường hay theo suy nghĩ của tôi là có gì đó không đúng, không phải lắm nhưng tôi vẫn nói và mong được người đối thoại thông cảm mà bỏ qua cho”. Với tư cách là người bản ngữ, người nghe mặc nhiên hiểu thông điệp này khi tiếp nhận một phát ngôn mở đầu bằng một trong số các QNTT trên. Và từ đó, một cách ngẫu nhiên, họ tự chuẩn bị cho mình “tâm thế” tiếp nhận cũng như cách thức ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVNNH003.pdf