Luận văn Quản trị rủi ro tín dụng theo hiệp ước basel II tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam

MỞ ĐẦU .1

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG

THEO TIÊU CHUẨN CỦA HIỆP ƢỚC AN TOÀN VỐN BASEL II

TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI.6

1.1. Tổng quan về hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong các

ngân hàng thƣơng mại .6

1.1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại (NHTM).6

1.1.2. Nguyên tắc tín dụng .8

1.1.3. Lãi suất tín dụng.10

1.1.4. Quy trình tín dụng .10

1.1.5. Rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại.11

1.1.6. Quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại.15

1.2. Một số nội dung chính trong Hiệp ƣớc an toàn vốn Basel II liên quan

đến quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thƣơng mại.27

1.2.1. Lịch sử ra đời của Ủy ban Basel và Hiệp ước an toàn vốn Basel II .27

1.2.2. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn của Hiệp ước an toàn

vốn Basel II trong các ngân hàng thương mại .29

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn của

Hiệp ước an toàn vốn Basel II trong các ngân hàng thương mại.36

1.3. Kinh nghiệm áp dụng Hiệp ƣớc an toàn vốn Basel II tại một số ngân

hàng thƣơng mại trên thế giới và bài học kinh nghiệm rút ra cho ngân

hàng thƣơng mại cổ phần Ngoại thƣơng Việt Nam .38

1.3.1. Kinh nghiệm áp dụng Hiệp ước an toàn vốn Basel II tại một số ngân hàng

thương mại trên thế giới.38

1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại

thương Việt Nam.41

pdf127 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 443 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản trị rủi ro tín dụng theo hiệp ước basel II tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng, bão lãnh...Đối với mỗi món vay Cán bộ khách hàng cần thu thập đầy đủ thông tin và thẩm định các thông tin này. Nội dung thẩm định có hai phần là định tính và định lượng. Thực trạng ban hành và thực hiện quy trình thẩm định Hồ sơ pháp lý: Đây là yếu tố cần phải thu thập thông tin đầy đủ đầu tiên trong quá trình thẩm định. Thông tin chứng minh pháp lý của khách hàng bắt buộc phải thu thập như: - Giấy phép đăng ký kinh doanh – Mã số thuế; Quyết định thành lập doanh nghiệp (Tuỳ theo mô hình của mỗi khách hàng mà yêu cầu cung cấp hồ sơ); Điều lệ hoạt động; Các quyết định bổ nhiệm (Bầu Chủ tịch HĐQT/Hội đồng thành viên, bổ nhiệm Giám đốc, Kế toán trưởng); Thu thập mọi thông tin có liên quan đến người chịu trách nhiệm pháp lý, người lãnh đạo; Các giấy phép có liên quan đến ngành nghề đặc thù...Đối với các dự án, phải thu thập thêm nhiều hồ sơ pháp lý liên quan đến dự án như: Quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền, Giấy chứng nhận đầu tư, Giấy phép xây dựng, Giấy phép về an toàn Phòng cháy chữa cháy, cam kết về môi trường... Uy tín của khách hàng: Uy tín là một khái niệm mang tính định tính khá đặc trưng. Có thể nói uy tín là cái bên trong nó được thể hiện thông qua cái bên ngoài, do vậy cách duy nhất để đánh giá uy tín là thông quá các yếu tố bên ngoài. Riêng đối với lĩnh vực ngân hàng, khách hàng được đánh giá là uy tín thường được thể 53 hiện với các biểu hiện bên ngoài như sau: - Lịch sử vay nợ sạch – tức là chưa có nợ quá hạn hoặc nợ xấu tại các tổ chức tín dụng (Thông tin này cán bộ Khách hàng thu thập từ lịch sử vay nợ tại ngân hàng mình hoặc từ nguồn CIC để biết thêm) - Danh tiếng tốt trong dư luận (Thông tin này được thu thập thông qua các kênh ngoài xã hội,); Những kết quả đã đạt được của khách hàng trong thời gian vừa qua. - Kết quả từ làm việc trực tiếp với khách hàng (Sau khi làm việc với khách hàng, dựa trên nội dung làm việc, những mắc nối trước và sau câu chuyệncó thể thu thập rất nhiều thông tin) Mục đích vay vốn: Khi khách hàng đề nghị vay vốn, cán bộ phải kiểm tra mục đích vay vốn có phù hợp với ngành nghề kinh doanh của khách hàng, có trái quy định của pháp luật hay không? Năng lực tạo lợi nhuận của khách hàng: Một khách hàng được gọi là có năng lực tạo lợi nhuận phải có các yếu tố sau: Trình độ của người điều hành; Kinh nghiệm trong điều hành, kinh nghiệm trong vận hành sản xuất kinh doanh các sản phẩm mà khách hàng đang kinh doanh; Năng lực tạo lợi nhuận của khách hàng (phân tích các chỉ tiêu tài chính như tỷ suất tạo lợi nhuận, vòng quay vốn). Môi trường kinh doanh: Môi trường kinh doanh của khách hàng phải có điều kiện tốt. Yếu tố này mang tính vĩ mô, tuy nhiên đây chính là yếu tố rất quan trọng trong quá trình thẩm định phần Định tính của khách hàng. Thực trạng thẩm định dựa trên các yếu tố định lƣợng Người vay phải có nguồn trả nợ: Đây là yếu tố quan trọng nhất của các yếu tố định lượng, kết quả thẩm định yếu tố này quyết định của sự thành công hay không thành công của món vay. Việc thẩm định nguồn trả nợ tức là thẩm định các dòng tiền của khách hàng có thể đảm bảo cho việc thu hồi nợ thành công từ món 54 vay. Khi thẩm định yếu tố nguồn trả nợ của khách hàng, cán bộ khách hàng phải thẩm định các bước cơ bản như sau: - Thẩm định về phương án sản xuất kinh doanh: Dựa trên phương án của khách hàng xây dựng, cán bộ thu thập các chỉ tiêu về sản xuất, kinh doanh thực tiễn của khách hàng để thẩm định phương án có thực tiễn hay không. Dựa trên quy mô sản xuất để biết năng lực tạo ra sản lượng => từ định mức (bình quân ngành hoặc bình quân thực tế của khách hàng) để tính tổng chi phí => Từ giá bán (giá bán có thể thu thập từ nhiều nguồn như từ thị trường, bình quân thực tế của khách hàng) và năng lực tiêu thụ sản phẩm (cán bộ đánh giá từ yếu tố môi trường kinh doanh đã thẩm định ở trên và thực tế của doanh nghiệp) để tính được hiệu quả của phương án. + Số tiền cho vay tối đa: Để tính được số tiền cho vay tối đa, cán bộ phải thẩm định về phương án, tính toán được doanh thu, chi phí và vòng quay dự kiến. Các yếu tố này có thể dựa trên các số liệu trong quá khứ của doanh nghiệp, những thông tin thu thập được từ các đơn vị cùng ngành, cùng quy mô hay dựa vào hệ thống thông tin của VCB. Từ doanh thu, chi phí và vòng quay, cán bộ thu thập được tổng nhu cầu vốn dự kiến sau đó loại trừ các nguồn vốn tự có, vốn chiếm dụng, vốn phi tài chinh (lãi vay, khấu hao) và các nguồn vốn vay, nợ khác để tính nhu cầu vốn phải vay NH. + Thời gian cho vay: Cán bộ phân tích vòng quay vốn lưu động của khách hàng, chính sách thanh toán của khách hàng để tính toán thời gian vay phù hợp. Yếu tố này nếu được thẩm định càng chặt chẽ thì khả năng thu hồi nợ tốt và việc sử dụng vốn sai mục đích càng được hạn chế. - Năng lực tài chính của khách hàng: Dựa trên Báo cáo tài chính và các thông tin của khách hàng, cán bộ khách hàng phân tích những chỉ tiêu để nhận định năng lực tài chính của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp thể hiện rất rõ quy mô, năng lực sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Để thẩm định tốt yếu tố này, cán bộ khách hàng cần phải có những kiến thức tốt về phân tích tài chính doanh nghiệp. 55 Tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo của món vay phải được cán bộ khách hàng thẩm định chính xác. Trước hết cán bộ khách hàng phải xác nhận loại hình của tài sản thể chấp, kiểm tra tính pháp lý của tài sản (tài sản không phi pháp, chủ sở hữu, có tranh chấp hay không), đánh giá khả năng thanh khoản của tài sản đó. Sau khi xác minh nguồn gốc và đảm bảo tính pháp lý cho tài sản, cán bộ khách hàng đánh giá giá trị của tài sản. Cơ sở để đánh giá giá trị tài sản có thể dựa trên nhiều yếu tố như theo giá thị trường hiện tại (dựa trên giá do nhà nước cung cấp, từ thị trường, thuê cơ quan tư vấn đánh giá tài sản, căn cứ vào giá trị tài sản còn lại trên sổ sách kế toán của khách hàng). VCB đã có chính sách về tài sản đảm bảo, cán bộ khách hàng phải thực hiện đúng và đầy đủ của quy trình này. Thực trạng tuân thủ quy trình kiểm tra khi giải ngân tiền vay Tùy theo từng loại hình DN, đặc thù riêng của mỗi món vay mà cán bộ khách hàng xây dựng kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn vay phù hợp. Những nội dung cần kiểm tra: Sau khi tiến hành giải ngân món vay, cán bộ khách hàng phải kiểm tra xem: khách hàng có sử dụng món vay đó đúng như mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng không? Khách hàng có vi phạm các cam kết đã thỏa thuận hay cung cấp thông tin sai lệch cho phía NH hay không? Cách thức kiểm tra. Kiểm tra hàng hóa lưu kho: Căn cứ vào khối lượng thực tế hiện có trong kho khách hàng (thông qua báo cáo tồn kho, kiểm tra thực tế..), cán bộ khách hàng tính toán và cân đối với giá trị tiền vay đã giải ngân hay không. Đối với các loại hàng hóa khó kiểm đếm hoặc không kiểm đếm được (sắn, dệt may, sợi, thủy sản, dăm gỗ...) cán bộ dựa trên thẻ kho, báo cáo xuất nhập tồn kho hoặc có thế tính bằng định mức để kiểm tra. Thành tựu: VCB đã áp dụng một hệ thống quản trị rủi ro tín dụng tập trung, được phân lập rõ ràng theo quy trình, chức năng giữa quản lý rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời 56 phát huy được tối đa kỹ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng. VCB chú trọng quản trị rủi ro theo nhóm khách hàng, ngành hàng, kết hợp với nâng cao chất lượng công tác thẩm định để ngăn chặn rủi ro tín dụng ngay từ bước thẩm định, giải ngân, đồng thời tăng cường và thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Bên cạnh đó, VCB cũng tăng cường công tác giám sát từ xa tất cả các chi nhánh, công ty trực thuộc, đưa ra các cảnh báo sớm nhằm ngăn chặn rủi ro đồng thời tiến hành hậu kiểm đối với một số chương trình tín dụng nhằm phát hiện các giao dịch không tuân thủ điều kiện, quy trình. Trong các năm 2009 - 2015, VCB tiếp tục nâng cao chất lượng báo cáo ngành; triển khai Đề án chuyển đổi mô hình hoạt động tín dụng tập trung để từng bước thực hiện phê duyệt tín dụng và xếp hạng tín dụng tập trung tại Hội sở chính. Tăng cường công tác đào tạo/hội thảo về thẩm định tín dụng và công tác khách hàng cho cán bộ. Khả năng quản trị về tín dụng cho vay TTTM khá hiệu quả, thể hiện ở điểm những năm qua chưa có đơn vị nào bị nợ quá hạn đối với các khoản vay thanh toán bộ chứng từ theo chuyển tiền, L/C, nhờ thu, hoặc vay làm hàng xuất khẩu Nguyên nhân là do các bộ phận đã được chuyên môn hóa sâu hơn tùy theo chức năng tạo tính khách quan, độc lập trong thẩm định cho vay giúp nhận dạng rõ hơn các rủi ro tiềm ẩn. Đồng thời bằng việc xếp hạng khách hàng qua hệ thống xếp hạng nội bộ, đã giúp toàn hệ thống VCB nhận diện sớm, lường trước được những dấu hiệu của khoản vay TTTM để có những biện pháp đối phó kịp thời. Hạn chế: Một là, trong quản trị rủi ro tín dụng quá chú trọng về đảm bảo tỷ lệ nợ xấu nên tăng trưởng tín dụng của VCB chưa thực sự bền vững. Tín dụng tăng trưởng không ổn định giữa các năm, tăng trưởng không đồng đều giữa các tháng trong năm, Thông thường tại VCB, tăng trưởng âm và thấp trong các tháng đầu năm và tăng mạnh vào các tháng cuối năm. Trong một số năm, tín dụng ngoại tệ tăng mạnh; riêng năm 2014 tăng tới 26,10%, trong khi tín dụng VND 57 tăng trưởng thấp hơn, riêng năm 2014 chỉ đạt 15,03%, khiến tỷ trọng tín dụng ngoại tệ tăng từ mức 24% của năm 2013 lên mức 25,7% của năm 2014. Xu hướng trái chiều trong tăng trưởng huy động vốn và sử dụng vốn VND và ngoại tệ đang là một thách thức trong cân đối và gia tăng hiệu quả sử dụng vốn. Nhiều khoản tín dụng của VCB cho vay khách hàng với lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động bình quân khiến hiệu quả kinh doanh suy giảm. Hai là, chất lượng tín dụng đối với một số nhóm khách hàng và tại một số chi nhánh VCB còn thấp, thu nợ đã xử lý dự phòng vẫn còn thấp so với kế hoạch Đến hết năm 2014, nợ xấu, nợ nhóm 2 vẫn còn cao (nợ xấu: 2,29%, nợ nhóm 2: 5,93%, nếu tính cả dư nợ đã sử dụng DPRR và nợ đã bán cho VAMC thì nợ xấu lên tới 3,6%) gây sức ép lớn đối với việc trích lập dự phòng và kiểm soát theo mục tiêu đã định. Năm 2015 nợ xấu giảm khá tốt so cùng kỳ và cuối năm 2014 tiếp tục giảm dần theo xu thế kể từ tháng 8/2015. Tỷ lệ nợ xấu (1,76%), dư nợ nhóm 2 và tỷ lệ nợ nhóm 2 giảm mạnh so cùng kỳ và cuối năm 2014. Dư nợ nhóm 1, 2 có khả năng chuyển nợ xấu khoảng 4.937 tỷ đồng (tại thời điểm 31/12/2015). 2.2.2. Đánh giá khoảng cách giữa năng lực quản trị rủi ro tín dụng hiện nay tại VCB và các tiêu chuẩn theo yêu cầu của Basel II Một là, mô hình quản trị rủi ro của VCB chưa hoàn thiện, chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa thực sự phát huy hiệu quả. Mô hình tổ chức quản trị rủi ro tín dụng, mô hình quản trị rủi ro tác nghiệp cho hoạt động ngân hàng nói chung chưa hoàn thiện. Hiện nay phòng Kiểm tra Giám sát tuân thủ vừa làm công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ vừa làm đầu mối tổng hợp, báo cáo và triển khai quản trị rủi ro tác nghiệp của các chi nhánh. Điều này là trái với thông lệ quốc tế, cho nên hai bộ phận này cần phải tách bạch nhau vì trên thực tế có nhiều rủi ro cán bộ chỉ muốn báo cáo để rút kinh nghiệm mà không muốn bị kiểm tra theo dõi. Tại các CN của VCB, do chưa có bộ phận chuyên trách quản trị rủi ro, cho nên đã hạn chế khả năng, kinh nghiệm về nhận diện, phân tích và kiểm soát rủi ro. Công tác đo lường rủi ro trong hoạt động kinh doanh chỉ bằng cách 58 định tính ngầm thông qua việc tăng cường chốt kiểm soát cho từng loại giao dịch nhất định. Phương pháp định lượng vẫn chưa được các CN áp dụng trong công tác quản trị rủi ro bởi thiếu cơ sở dữ liệu quá khứ: như tần số xuất hiện rủi ro cũng như mức độ tổn thất thực tế. Hai là, hệ thống văn bản và quy định nội bộ của VCB chậm được chỉnh sửa và bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Văn bản quy định nội bộ không đầy đủ hoặc đủ nhưng không đồng bộ, không rõ ràng không còn phù hợp với thực tiễn kinh doanh. Cũng chính vì hạn chế này nên dẫn đến hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ có nhiều khó khăn, khó đảm bảo chất lượng vì cán bộ tác nghiệp phải vận dụng, phải linh hoạt. Ba là, các quy trình nghiệp vụ về quản trị rủi ro nói riêng và tác nghiệp trong các hoạt động kinh doanh nói chung được ban hành khá chi tiết, đầy đủ nhưng khó thực hiện, mang tính hình thức. Trong tất cả các quy trình nghiệp vụ, được VCB ban hành khá chỉ tiết, khoa học, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng thiếu tính thực tế, không sát thực tiễn. Do đó các quy trình đó phần lớn mang tính hình thức, không được thực hiện đầy đủ hoặc khó thực hiện nghiêm túc, nên chưa phát huy hiệu quả. Bốn là, hệ thống thông tin, công nghệ sử dụng trong hoạt động kinh doanh nói chung, trong quản trị rủi ro nói riêng còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặc dù VCB là một trong những NHTM luôn chú trọng về phát triển công nghệ và dẫn đầu về công nghệ NH ở Việt Nam nhưng so với khu vực và quốc tế thì còn thua kém về nhiều mặt. Đặc biệt là công nghệ thông tin để hỗ trợ đắc lực cho công tác quản trị thanh khoản, quản trị lãi suất, quản trị rủi ro tín dụng chưa đủ, chưa đồng bộ. Năm là, chất lượng kiểm soát nội bộ còn hạn chế. Thời gian qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong toàn bộ hệ thống VCB không ngừng được tăng cường, nhưng chất lượng vẫn chưa đảm bảo theo yêu cầu chung, nhất là yêu cầu hội nhập. Tại các CN của VCB hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ được đảm nhiệm bởi phòng kiểm tra giám sát tuân thủ, nhưng nó chưa được thực hiện thường xuyên nên chưa kịp thời phát hiện các sai sót để sửa chữa, khắc phục hoặc rút kinh 59 nghiệm. Một số cán bộ chuyên môn nghiệp vụ trình độ ngoại ngữ còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm thực tiễn, thiếu tính cẩn trọng và tinh thần trách nhiệm chưa cao. Cán bộ thiếu cập nhật, thiếu nhạy bén với những biến đổi của môi trường kinh doanh, làm việc còn theo cảm tính, chủ quan và hay dựa vào kinh nghiệm của những người đi trước một cách máy móc nên dễ xảy ra sai sót và rủi ro cao. Trong điều kiện cạnh tranh, thực hiện các chỉ tiêu khoán đến chi nhánh, phòng giao dịch và đến từng cán bộ, nhân viên như hiện nay, để đảm bảo chỉ tiêu giao khoán, giữ vững thị phần trong một số trường hợp, cán bộ VCB đã bỏ qua một số nguyên tắc, thủ tục chứng từ theo quy định của Nhà nước, linh động giải quyết cho đơn vị, cho khách hàng, nhất là trong hoạt động cho vay. Chính những trường hợp này hệ số rủi ro xảy ra là rất cao. Sáu là, chất lượng nguồn nhân lực cũng còn một số bất cập so với yêu cầu thực tiễn cũng như yêu cầu hội nhập. Nhân lực còn chưa đáp ứng kịp đòi hỏi quản lý theo hướng hiện đại. Các cán bộ quản trị điều hành, cán bộ quản lý từ Hội sở chính đến các chi nhánh hầu hết chưa được đào tạo bài bản. Bảy là, năng lực tài chính cần được nâng lên theo yêu cầu hội nhập. Hiện nay các chỉ tiêu tài chính của VCB đứng hàng đầu so với các NHTM Vệt Nam nhưng so với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập, nhất là chỉ tiêu an toàn vốn, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cần phải thường xuyên được nâng lên Tám là, hệ thống kế toán chưa hoàn thiện. Hệ thống kế toán của VCB nằm trong tình trạng chung của các NHTM Việt Nam. Song để đáp ứng yêu cầu hội nhập, nhất là về quản trị rủi ro theo Basel II thì cần phải được hoàn thiện theo thông lệ quốc tế. Chín là, công tác dự báo và phân tích thị trường của VCB còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản trị rủi ro. Công tác này phụ thuộc nhiều vào cơ chế chính sách và điều hành của NHNN, trong khi các NH nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an toàn còn thường xuyên nghiên cứu, tuy nhiên về chủ quan của VCB đó là dự báo chưa thực dự báo chưa sát với các diễn 60 biến của thị trường nên chưa chủ động điều chỉnh chiến lược khách hàng, định hướng hoạt động tín dụng, chủ động dự phòng vốn thanh khoản ở mức hợp lý và điều chỉnh kịp thời để không bị động trước những tác động thị trường. 2.2.3 Phân tích nguyên nhân của các hạn chế về năng lực quản trị rủi ro tín dụng hiện nay tại VCB Hạn chế về năng lực quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng hiện nay tại VCB so với các thông lệ quốc tế có thể được giải thích bằng các nguyên nhân cả về khách quan và chủ quan như sau: Nguyên nhân khách quan: - Hệ thống chính sách, văn bản, hướng dẫn từ các cơ quan chủ quản còn chưa đầy đủ, rõ ràng, chi tiết và chưa mang tính cập nhật để phù hợp với thực tiễn kinh doanh thường xuyên thay đổi như ngành ngân hàng - Môi trường pháp lý nói chung còn nhiều bất cập dẫn đến các biện pháp quản trị rủi ro, kiểm soát trước trong sau vay cũng như công tác xử lý rủi ro còn gặp nhiều vướng mắc, mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc - Thị trường thế giới và thị trường nội địa có nhiều diễn biến phức tạp. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, tác động của thị trường quốc tế đến các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn nhất là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô vẫn còn khá bị động và nặng tính hành chính. Chính sách của các bộ ngành cũng còn nhiều hạn chế dẫn đến việc tăng trưởng thiếu cân bằng và bền vững ở nhiều ngành nghề. - Công tác thống kê, phân tích cũng như quy định về công khai minh bạch thông tin của các cơ quan quản lý nhìn chung còn thiếu và yếu dẫn đến thiếu thông tin đầu vào đáng tin cậy cho công tác phân tích, dự báo thị trường của các ngân hàng thương mại nói chung và VCB nói riêng - Công tác thanh tra giám sát chưa thật sự hiệu quả và sâu rộng đối với cả ngân hàng và các doanh nghiệp. Việc báo cáo tài chính của doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng các số liệu thiếu chính xác so với thực tế khiến cho công tác đo 61 lường dự báo rủi ro của ngân hàng giảm hiệu quả, làm mất niềm tin của cán bộ đối với các mô hình dự báo. - Việc tổ chức các hội thảo để truyền thông vào đào tạo cho cán bộ ngành ngân hàng về các thông lệ quốc tế chưa được quan tâm đúng mức, chưa hiệu quả, còn nặng tính hình thức. - Basel II nói riêng và các thông lệ quốc tế nói chung còn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam, vì vậy nguồn nhân lực có đủ kiến thức và kinh nghiệm để triển khai các dự án chuyển đổi, nâng cao năng lực quản trị rủi ro cho NHTM là khá khan hiếm. Nguyên nhân chủ quan: - Với số lượng khách hàng quá lớn và nguồn lực có hạn, việc triển khai mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung tại VCB gặp khá nhiều khó khăn. Hơn nữa, VCB hiện chưa có hệ thống công nghệ hỗ trợ tốt cho công tác phê duyệt tín dụng nhằm tự động hóa, giảm bớt các tác nghiệp thủ công. Vì vậy hiện nay VCB vẫn đang chấp nhận 1 mô hình bán tập trung với thẩm quyền thẩm định thấp nhất thuộc về giám đốc chi nhánh đối với các khoản vay ngắn hạn hoặc có hạn mức nhỏ. Điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro cũng như chưa đáp ứng thông lệ. - Hệ thống công nghệ thông tin và dữ liệu từ những năm 2008, 2009 có rất nhiều hạn chế: thu thập thiếu các trường thông tin cần thiết, quản lý thay đổi của hệ thống không nghiêm ngặt, quản lý quyền truy cập, quyền xóa/sửa tay còn lỏng lẻo dẫn đến chất lượng dữ liệu hiện nay rất thiếu và yếu. Việc xây dựng các mô hình đo lường dự báo rủi ro tín dụng đòi hỏi rất cao vê mặt dữ liệu (số lượng, độ dài, độ sạch) vì đang gặp nhiều khó khăn. - Công tác văn bản hóa các bước phát triển, xây dựng hệ thống chưa được chú trọng trong những năm trước đây dẫn đến hệ quả của hiện tại nhiều chương trình đang là “hộp đen” khi các nhân viên hiểu rõ hệ thống đã nghỉ việc. Vì vậy, việc chính sửa, nâng cấp hệ thống gặp nhiều khó khăn. 62 - Với yêu cầu quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, các hệ thống công nghệ, các chương trình nghiệp vụ của VCB (kế toán, host, corebanking,) hầu hết đều cần hiện đại hóa thâm chí là xây mới hoàn toàn. Vì vậy quá trình chuyển đổi phải mất nhiều thời gian, nhân lực và tiền bạc đầu tư - VCB chưa đưa vào áp dụng các công cụ quản trị rủi ro hiện đại theo hướng tự động hóa nhằm phát hiện rủi ro sớm 1 cách hiệu quả, giảm thiểu các lỗi tác nghiệp, sai sót của con người ví dụ như: công cụ cảnh báo nợ sớm, công cụ quản lý rủi ro danh mục, - Nhân viên của VCB đặc biệt là nhân viên tại chi nhánh còn nhiều hạn chế về nhận thức liên quan đến việc quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế nói riêng, việc tuân thủ quy định còn mang tính hình thức, chú trọng về phát triển kinh doanh - Cơ chế đãi ngộ tại VCB còn chưa linh hoạt, khó khăn trong việc tuyển dụng những nhân sự có kinh nghiệm triển khai thành công dự án như Basel II tại các quốc gia khác trên thế giới - Là một ngân hàng có hơn 75% vốn nhà nước, cơ chế, phong cách làm việc tại VCB vẫn còn nặng tính “nhà nước”, ngại thay đổi, chưa thực sự năng động và cạnh tranh nên các dự án chuyển đổi, nâng cao năng lực gặp nhiều khó khăn, triển khai chậm và đôi lúc còn khá “hình thức”. 2.3. Thực trạng triển khai dự án Basel II – cấu phần Rủi ro tín dụng tại VCB 2.3.1 Các nội dung chính trong lộ trình triển khai dự án Basel II – cấu phần Rủi ro tín dụng tại VCB Việc các ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng tiêu chuẩn Basel II là một xu thế tất yếu và bắt buộc khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Thực tế đã chứng minh, chuẩn mực Basel II là giải pháp tối ưu để các ngân hàng thương mại trụ vững trước những biến động khó lường của thị trường tài chính. Với 63 Basel II, mọi rủi ro đều phải được lượng hóa bằng con số cụ thể và con số này sẽ chỉ ra rằng ngân hàng cần bao nhiêu vốn để có thể bù đắp rủi ro. Với mục tiêu chiến lược là Ngân hàng số 1 tại Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) đã luôn tiên phong áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất vào hoạt động quản trị kinh doanh, đặc biệt trong công tác quản trị rủi ro. Theo đó, Basel II, một chuẩn mực quản trị rủi ro hiện đại, đã sớm được VCB nghiên cứu và từng bước triển khai ngay từ năm 2012, trước khi có những yêu cầu chính thức đối với hệ thống ngân hàng về triển khai Basel II. Xác định đây là 1 chương trình trọng điểm trong kế hoạch chuyển đổi của VCB, đồng thời là 1 trong 10 ngân hàng đầu tiên được Ngân hàng Nhà nước tin tưởng lựa chọn triển khai Basel II tại Việt Nam, VCB đã chủ động thực hiện phân tích chênh lệch và xây dựng Lộ trình tổng thể triển khai Basel II. Triển khai lộ trình cho đến nay, hoạt động quản trị rủi ro của VCB đã đạt nhiều kết quả, như:  Tăng cường mô hình quản trị rủi ro theo 3 tuyến phòng thủ (3 line of defenses: Kinh doanh – Quản lý rủi ro – Kiểm toán nội bộ),  Nâng cao vai trò, hoạt động của một số bộ phận tham gia vào quản trị rủi ro, như: Ủy ban Quản lý rủi ro, Bộ phận Giám sát tuân thủ, Bộ phận Kiểm toán nội bộ;  Rà soát, cập nhật các văn bản, chính sách, quy trình nội bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của Basel II;  Nâng cấp các Hệ thống công nghệ thông tin, chất lượng dữ liệu để hỗ trợ, phục vụ xây dựng các mô hình xếp hạng định lượng Việc triển khai quản trị rủi ro theo Basel II chia làm 2 giai đoạn chính như sau: a. Phương pháp tiêu chuẩn (Standardized Approach): Theo lộ trình, VCB sẽ cơ bản đáp ứng triển khai Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn vào năm 2018. Ngày 31/12/2016 NHNN đã ban hành thông tư 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài dựa trên nội dung phương pháp tiêu chuẩn (Standardized approach) của Basel II. Với phương pháp tiêu chuẩn, các ngân hàng cần phân loại 64 tài sản theo trọng số rủi ro (risk weight) nhằm tính toán lượng tài sản chịu rủi ro (Risk Weighted Asset – RW ). Theo thông tư 41 Theo thông tư 41, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) tính theo đơn vị phần trăm (%) được xác định bằng công thức: Trong đó: - C: Vốn tự có; - RWA: Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng; - KOR: Vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động; - KMR: Vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường. Tỷ lệ C R được quy định không thấp hơn 8% theo tiêu chuẩn của Basel II. VCB đã luôn theo sát quá trình lấy ý kiến dự thảo thông tư 41 để đưa các đề nghị làm rõ, chỉnh sửa, các góp ý nhằm đảm bảo quy định của Basel II được Việt hóa phù hợp nhất. Đồng thời, trong thời gian này bộ phận Kế toán đã làm đầu mối phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ khác như Chính sách tín dụng, Quản lý nợ, Công nợ,viết URD dựa trên quy định của thông tư 41 và thực trạng dữ liệu, quy trình nghiệp vụ tại VCB. Dựa trên URD nghiệp vụ này, bộ phận Đề án công nghệ đã chuyển hóa thành yêu cầu cho bộ phận Công nghệ thông tin (CNTT) xây dựng chương trình nhằm tự động hóa việc tính C R hàng tháng. Vào ngày đầu tiên của tháng, toàn bộ các file dữ liệu cần thiết từ các hệ thống khác nhau sẽ được trích xuất và gửi về chương trình tính C R. Hệ số CAR sẽ được tính toán và báo cáo hàng tháng để kịp thời có phương án xử lý nếu hệ số này có nguy cơ xuống dưới mức quy định. Theo kế hoạch chương trình C R sẽ được hoàn thiện và đưa vào hoạt động chính thức từ tháng 06/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_tri_rui_ro_tin_dung_theo_hiep_uoc_basel_ii_tai.pdf
Tài liệu liên quan