MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƯU ĐÃI THƯƠNG BINH, NGƯỜI HƯỞNG CHÍNH SÁCH NHƯ THƯƠNG BINH 1
1. Sự cần thiết thực hiện ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 1
2. Khái niệm 3
2.1. Khái niệm thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 3
2.2. Khái niệm chế độ ưu đãi đối với thương binh, ngưởi hưởng chính sách như thương binh 9
3. Ý nghĩa của pháp luật ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 10
4. Nguyên tắc ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 12
4.1. Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh có quyền được hưởng ưu đãi của nhà nước và xã hội 13
4.2. Nhà nước thống nhất quản lý về ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 13
4.3. Ưu đãi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh phải phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước 14
4.4. Xã hội hoá các hoạt động ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 15
5. Quy định của pháp luật một số nước về chế độ ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 15
CHƯƠNG II 18
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI THƯƠNG BINH, 18
NGƯỜI HƯỞNG CHÍNH SÁCH NHƯ THƯƠNG BINH 18
1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật ưu đãi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 18
1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 18
1.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975 19
1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986 20
1.4. Giai đoạn từ sau năm 1986 đến trước khi có Pháp lệnh Ưu đãi người có công năm 2005 21
2. Quy định của pháp luật hiện hành về ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 22
2.1. Điều kiện công nhận thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 24
2.1.1. Điều kiện công nhận thương binh 24
2.1.2. Điều kiện công nhận người hưởng chính sách như thương binh 27
2.1.3. Điều kiện công nhận Thương binh loại B 28
2.2. Thủ tục xác nhận và lập hồ sơ 28
2.3. Chế độ ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 32
2.3.1. Về chế độ ưu đãi trợ cấp 32
2.3.2. Về chế độ chăm sóc sức khoẻ 36
2.3.3. Về chế độ ưu đãi trong giáo dục, đào tạo 38
2.3.4. Về chế độ ưu đãi việc làm 40
2.3.5. Về các chế độ ưu đãi khác 42
2.4. Quản lý, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp 44
CHƯƠNG III 49
THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM 49
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI THƯƠNG BINH, NGƯỜI HƯỞNG CHÍNH SÁCH NHƯ THƯƠNG BINH 49
1. Thực tiễn thực hiện pháp luật ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 49
1.1. Thành tựu đã đạt được 49
1.2. Một số hạn chế 55
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ưu đãi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 61
2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật ưu đãi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 61
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 62
2.2.1. Về điều kiện công nhận 63
2.2.2. Về thủ tục xác nhận và lập hồ sơ 64
2.2.3. Về chế độ ưu đãi 65
2.2.4. Về quản lý, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp 69
2.2.5. Tổ chức tốt phong trào chăm sóc thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trong toàn dân 72
2.2.6. Nghiên cứu xây dựng Luật Ưu đãi người có công 73
2.2.7. Một số ý kiến khác 74
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3608 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quy định của pháp luật về ưu đãi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c trợ cấp, phụ cấp ưu đãi là 564.000 đồng/ tháng. Có thể thấy mức chuẩn theo quy định đã tăng lên rõ rệt. Từ mức 292.000 đồng theo quy định tại Nghị định số 210/2004/NĐ-CP ngày 20/12/2004, sau là mức 355.000 đồng tại Nghị định số 147/NĐ-CP ngày 30/11/2005 và mức 470.000 đồng theo Nghị định số 32/NĐ-CP ngày 02/03/2007. Việc điều chỉnh mức chuẩn chế độ trợ cấp, phụ cấp cho thấy sự quan tâm của nhà nước đối với người có công (trong đó có thương binh, người hưởng chính sách như thương binh). Quy định mức chuẩn như trên nhằm xác định một mức cụ thể làm mốc để tính trợ cấp ưu đãi, đảm bảo công bằng và chính xác cho việc thực hiện trợ cấp ưu đãi đối với từng trường hợp. Tăng mức chuẩn quy định chế độ trợ cấp, phụ cấp như hiện nay đã đảm bảo tăng mức sống của thương binh, người hưởng chính sách như thương binh theo mục tiêu của công tác thương binh, liệt sĩ mà Nghị quyết Đại hội IX của Đảng xác định "đảm bảo tất cả các gia đình chính sách có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình của người dân địa phương". hơn thế nữa, mức chuẩn chế độ trợ cấp hiện nay đã tăng đáng kể, cao hơn mức tiền lương tối thiểu đối với cán bộ, công nhân viên chức. Trợ cấp ưu đãi đã tách riêng không phụ thuộc vào lộ trình tăng lương và bảo hiểm xã hội. Điều này cho thấy chế độ ưu đãi trợ cấp được nhà nước quan tâm đặc biệt, coi đây như một chính sách riêng nhằm đảm bảo hỗ trợ tốt nhất mức sống của người có công nói chung, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh nói riêng. những điều chỉnh này phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chế độ ưu đãi trợ cấp áp dụng cho bản thân thương binh, người hưởng chính sách như thương binh và thân nhân của họ, ngoài ra, trong một số trường hợp thì người phục vụ của họ cũng được hưởng mức trợ cấp ưu đãi này.
đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh có tỉ lệ suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên thì hưởng trợ cấp hàng tháng. Mức trợ cấp hàng tháng của thương binh, người hưởng chính sách như thương binh từ 380.400 đồng đến 1.810.800 đồng tuỳ vào tỉ lệ suy giảm khả năng lao động (Xem bảng số 2 ban hành kèm theo Nghị định số 07/NĐ-CP ngày 21/01/2008); thương binh loại B mức trợ cấp từ 303.600 đồng đến 1.448.400 đồng (Xem bảng số 3 ban hành kèm theo Nghị định số 07/NĐ-CP ngày 21/01/2008)
Đối với thương binh, thương binh loại B suy giảm khả năng lao động do thương tật từ 81% trở lên được hưởng phụ cấp hàng tháng mức 285.000 đồng. Người phục vụ cho họ cũng được hưởng trợ cấp hàng tháng mức 564.000 đồng. Trường hợp thương binh có vết thương nặng: cụt hai chi trở lên, mù hai mắt, tâm thần nặng không tự lực được trong sinh hoạt, liệt hai chi trở lên hoặc có tình trạng thương tật đặc biệt khác được hưởng phụ cấp đặc biệt mức 564.000 đồng. Người phục vụ họ hưởng phụ cấp mức 730.000 đồng. Thương binh có tỉ lệ suy giảm khả năng lao động 81% trở lên bị ảnh hưởng rất nhiều tới sinh hoạt thường ngày. Cùng với đó là khả năng lao động tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, gia đình họ hầu như bị hạn chế. Nhất là đối với những người có vết thương đặc biệt nặng, cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc quy định họ được hưởng thêm phụ cấp là hợp lí. Khoản phụ cấp này phần nào giúp họ khắc phục những khó khăn trong cuộc sống, đảm bảo cho họ có cuộc sống ổn định với mức sống trung bình. Đa phần những trường hợp trên do vết thương nặng, không có khả năng tự phục vụ sinh hoạt thường ngày. Do vậy, họ cần có người giúp đỡ. Vì thế, những người thực hiện công việc này được sự hỗ trợ một phần từ phía nhà nước và cộng đồng. Việc quy định cho họ hưởng chế độ phụ cấp hoàn toàn hợp lí. Khoản phụ cấp này giúp đỡ họ một phần trong cuộc sống, họ sẽ yên tâm hơn và cố gắng chăm sóc thương binh, người hưởng chính sách như thương binh chu đáo.
Chế độ trợ cấp ưu đãi cũng được thực hiện đối với thân nhân của thương binh, người hưởng chính sách như thương binh. Thân nhân của họ là cha mẹ đẻ, người có công nuôi dưỡng, vợ chồng, con cái. Những người này sẽ được hưởng trợ cấp ưu đãi khi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh qua đời. Pháp luật đã có quy định tại điều 18 và Điều 16 Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/05/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, cụ thể hơn ở bảng số 1 ban hành kèm theo Nghị định số 07/2008/NĐ-CP quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng.
Khi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh chết, người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí theo quy định của bảo hiểm xã hội. Thân nhân họ được hưởng trợ cấp một lần bằng ba tháng trợ cấp, phụ cấp mà thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được hưởng trước khi chết. Đây là khoản chi phí khi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh qua đời, nhằm chia sẻ nỗi đau mất người thân với gia đình thương binh, trợ giúp gia đình họ một phần kinh phí lo việc mai táng chu đáo.
Đảm bảo cuộc sống của những người là cha, mẹ, vợ, chồng thương binh khi đến tuổi 60 với nam và 55 trở lên với nữ, con thương binh dưới 18 tuổi trở xuống và 18 tuổi trở lên nếu còn đi học, con thương binh bệnh tật nặng từ nhỏ, khi hết thời hạn hưởng trợ cấp vẫn bị suy giảm khả năng lao động 61% trở lên, Nhà nước quy định họ hưởng mức trợ cấp tuất hàng tháng là 318.000 đồng. đây là khoản trợ cấp hỗ trợ một phần cuộc sống của thân nhân thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, giảm bớt khó khăn mà họ gặp phải.
Trường hợp cha mẹ đẻ, vợ hoặc chồng của thương binh cùng độ tuổi như trên sống cô đơn không nơi nương tựa, con thương binh mồ côi thì được hưởng trợ cấp tiền tuất nuôi dưỡng hàng tháng mức 667.000 đồng. Như đã đề cập ở trên, cuộc sống gia đình thương binh hầu hết rất khó khăn, khi họ qua đời để lại không chỉ nỗi đau tinh thần cho những người thân mà còn cả gánh nặng cuộc sống của gia đình họ. Cha mẹ, vợ con họ không người chăm sóc... Việc quy định trợ cấp tiền tuất nuôi dưỡng như trên mang ý nghĩa sâu sắc, Nhà nước thay mặt người đã khuất nuôi duỡng thân nhân của họ, thực hiện trách nhiệm nuôi dưỡng cha mẹ già, con nhỏ thay cho bản thân thương binh, người hưởng chính sách như thương binh.
Việc quy định chế độ ưu đãi trợ cấp một cách cụ thể và toàn diện như trên đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh đã phần nào giúp bản thân họ và gia đình khắc phục những khó khăn trong cuộc sống. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước đang phát triển, thiết nghĩ cần chú ý điều chỉnh chế độ ưu đãi trợ cấp cho phù hợp hơn nữa, đảm bảo mức sống của thương binh, người hưởng chính sách như thương binh ngày một nâng cao.
2.3.2. về chế độ chăm sóc sức khoẻ
Như phần đặc điểm đã nêu, thương binh, người hưởng chính sách như thuơng binh, thương binh loại B (gọi chung là thương binh) đa phần có sức khoẻ giảm sút do thương tật để lại. Chính vì thế, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ cho thương binh là điều rất cần thiết. Không chỉ đối với bản thân họ mà với con em của thương binh nặng cũng cần được chăm sóc sức khoẻ, để bù đắp những thiếu hụt do người lao động chủ chốt trong gia đình không còn khả năng lao động, bị thương tật nặng gặp khó khăn trong cuộc sống không tự giải quyết được. Nhằm đảm bảo chăm sóc sức khoẻ cho thương binh, nhà nước đã ban hành những quy định khá cụ thể về các chế độ ưu đãi này tại Điều 30 Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/05/2006, cụ thể hơn nữa tại Thông tư liên tịch số 17/2006/TTLT/BLĐTBXH-BTC-BYT ngày 21/11/2006. Theo các văn bản này, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được cấp thẻ bảo hiểm y tế, điều dưỡng sức khoẻ, trợ cấp kinh phí mua phương tiện trợ giúp cho sinh hoạt của họ...
Chế độ chăm sóc sức khỏe cho thương binh thể hiện trước hết ở chế độ bảo hiểm y tế, quy định cụ thể tại Phần I Thông tư liên tịch số 17/2006/TTLT/BLĐTBXH-BTC-BYT ngày 21/11/2006. Đối với thương binh, chế độ bảo hiểm y tế có vai trò rất quan trọng bởi do ảnh hưởng của thương tật nên họ thường xuyên phải điều trị tại các cơ sở y tế. để đảm bảo quyền lợi của thương binh khi đi khám chữa bệnh, pháp luật quy định: đối với thương binh thuộc diện không hưởng lương hoặc bảo hiểm xã hội thì họ được nhà nước mua bảo hiểm y tế để khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế, bệnh viện dân y và bệnh viện quân đội.
Chế độ bảo hiểm y tế cũng được giành cho người hưởng chế độ trợ cấp phục vụ thương binh có tỉ lệ suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; Con của thương binh suy giảm khả năng lao động 81% trở lên, từ 18 tuổi trở xuống hoặc trên 18 tuổi nếu còn đi học, hết thời gian hưởng mà bị thương tật suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. quy định này nhằm đảm bảo chăm sóc sức khỏe tốt nhất cả đối với người chăm sóc phục vụ thương binh nặng, con của thương binh nặng mà họ không có khả năng lao động, chăm sóc cho con cái của họ. Chế độ ưu đãi này thể hiện pháp luật ưu đãi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được chú ý toàn diện không chỉ bản thân họ mà cả thân nhân của họ.
Để đảm bảo chăm sóc sức khoẻ cho thương binh được tốt và thường xuyên, Nhà nước thành lập các trung tâm điều dưỡng, trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng cho thương binh.
Với thương binh suy giảm khả năng lao động do thương tật từ 81% trở lên: nếu do hoàn cảnh ra đình không thể trở về gia đình được thì họ được tổ chức nuôi dưỡng tại cơ sở điều dưỡng thuộc tỉnh, thành phố trực thựôc trung ương nơi họ cư trú. Những thương binh sống tại gia đình có thể được hưởng chế độ điều dưỡng mỗi năm một lần, nếu tỉ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật từ 81% trở lên; hoặc chế độ điều dưỡng 5 năm một lần nếu tỉ lệ suy giảm sức lao động do thương tật dưới 81%. Chế độ điều dưỡng chủ yếu được thực hiện tại các cơ sở điều dưỡng hoặc tại gia đình tuỳ theo tình trạng thương tật, bệnh tật và sức khoẻ của thương binh. Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội quyết định số lượng điều dưỡng tại gia đình cho phù hợp.
Với những trường hợp điều dưỡng tại cơ sở điều dưỡng thì mỗi lần điều dưỡng không quá 10 ngày. Mức chi điều dưỡng cho mỗi người là 1.000.000 đồng (bao gồm tất cả các khoản tiền ăn, thuốc men, và các khoản khác về tinh thần: báo chí, văn nghệ, tham quan, phục hồi chức năng). Trong thời gian điều dưỡng nếu bị ốm đau đột xuất thì được giới thiệu đi điều trị tại bệnh viện gần nhất theo chế độ bảo hiểm y tế hiện hành.
là những người luôn mang trên mình vết thương, ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của một hoặc một số bộ phận trên cơ thể như cụt chân, cụt tay, bị liệt cột sống, mắt mù, tai điếc... Điều này ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống thường ngày cũng như khả năng hoà nhập vào cộng đồng của họ. Vì thế, họ rất cần có những phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình giúp họ phục hồi các chức năng bị suy giảm. Thực hiện điều đó, tại Thông tư liên tịch số 17/TTLT/BLĐTBXH-BTC-BYT ngày 21/11/2006 tại Phần III mục II điểm 1 quy định thương binh, người hưởng chính sách như thương binh là đối tượng được cấp tiền mua phương tiện trợ giúp và dụng cụ chỉnh hình, được phục hồi chức năng. Tuỳ theo tình trạng sức khoẻ và thương tật mà thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được cấp tiền mua phương tiện trợ giúp và dụng cụ chỉnh hình theo quy định của các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng thuộc ngành lao động thương binh và xã hội hoặc của bệnh viện cấp tỉnh trở lên.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được trợ cấp tiền mua các phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình phù hợp, như các quy định trong trường hợp thương binh cụt chân, tay được cấp tiền mua tay, chân giả, giầy chỉnh hình; người bị liệt được cấp tiền mua xe lăn, xe lắc, nạng; người hỏng mắt được cấp tiền lắp mắt giả, gậy dò đường...
Khi đi điều trị phục hồi chức năng và làm dụng cụ chỉnh hình, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được thanh toán tiền đi lại cho các phương tiện thông thường từ nơi cư trú đến cơ sở chỉnh hình và phục hồi chức năng, đến cơ sở cung cấp dụng cụ chỉnh hình gần nhất đủ điều kiện về chuyên môn kĩ thuật. Bên cạnh đó họ cũng được hỗ trợ tiền ăn, tiền lưu trú trong thời gian điều trị, tập luyện tại cơ sở chỉnh hình và phục hồi chức năng mức 30.000 đồng/ ngày tiền ăn; tiền lưu trú 30.000 đồng/ ngày, tối đa không quá 5 ngày cả đi và về.
Những quy định trên đã góp phần đảm bảo cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh có những điều kiện cần thiết phục hồi chức năng đã bị suy giảm do thương tật, đảm bảo cho điều kiện sinh hoạt thường ngày của họ. Song cần chú ý hơn tới việc quy định tổ chức thực hiện chế độ này trong thực tế, nhất là đối với thương binh ở những vùng sâu xa, miền núi, rẻo cao, điều kiện đi tới các trung tâm chỉnh hình, phục hồi chức năng không thuận lợi. Nên có những quy định hướng dẫn cụ thể đối với các trường hợp này để thực hiện tốt hơn trong thực tế.
2.3.3. về chế độ ưu đãi trong giáo dục, đào tạo
Giáo dục đào tạo là chiến lược hàng đầu của mỗi quốc gia. Ưu đãi trong giáo dục đào tạo đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh chính vì thế có ý nghĩa quan trọng, nhằm mục đích bồi dưỡng trình độ văn hoá, nghiệp vụ cho họ có khả năng hoà nhập tốt hơn với cộng đồng xã hội.
Thực tế cho thấy do chiến tranh, đa số thương binh có trình độ nghiệp vụ chưa cao. Qua một số cuộc điều tra lao động và xã hội tại một số vùng cho thấy: đại đa số thương binh, bệnh binh chỉ có trình độ từ cấp II trở xuống (chiếm 80% đến 90%). Đặc biệt là có từ 2% đến 4% số đó còn chưa đọc thông viết thạo. ở nông thôn, số thương bệnh binh chưa biết đọc, biết viết và trình độ văn hoá cấp I còn khá cao (chiếm 60% đến 62%). Điều này tạo ra những bất lợi cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trong quá trình hoà nhập cuộc sống sau chiến tranh, cũng là trở ngại lớn cho sự phát triển chung của xã hội. Thực tế trên đặt ra việc thực hiện chế độ ưu đãi trong giáo dục với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh là điều cần thiết. Tại Đại Hội lần thứ VIII, Đảng ta đã nêu rõ: "Bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em những người có công với cách mạng nối tiếp sự nghiệp của cha anh".
Thực hiện mục tiêu đó, pháp luật đã quy định chế độ ưu đãi trong giáo dục, đào tạo đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh tại điều 31 Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/05/2006 và Thông tư liên tịch số 16/2006/TTLT/BLĐTBXH-BGDĐT-BTC ngày 20/11/2006.
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh khi học tập tại các cơ sở giáo dục đào tạo được ưu tiên trong tuyển sinh, xét tốt nghiệp, miễn các khoản đóng góp xây dựng trường lớp, miễn giảm một phần hoặc toàn bộ học phí theo quy định. Bên cạnh đó còn được hưởng trợ cấp hàng năm tiền mua sách vở, đồ dùng học tập...
Đối với con của thương binh khi đi học ở các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông được hưởng một số ưu tiên trong tuyển sinh, xét tốt nghiệp, được miễn các khoản đóng góp xây dựng trường lớp, miễn học phí tại các cơ sở giáo dục công lập, hỗ trợ học phí đối với cơ sở giáo dục dân lập, tư thục. Ngoài ra còn được trợ cấp mỗi năm một lần tiền mua sách vở, đồ dùng học tập theo mức như với cơ sở giáo dục mầm non là 200.000 đồng, cơ sở giáo dục phổ thông là 250.000 đồng
Đối với học sinh là thương binh, hoặc con của thương binh khi học tập tại các cơ sở đào tạo (đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dự bị đại học, dân tộc nội trú), học liên tục lên trình độ cao hơn được hưởng những ưu đãi như trên, đồng thời trợ cấp mỗi năm một lần khoản tiền 300.000 đồng để mua đồ dùng học tập.
Ngoài ra, đối tượng này còn được hưởng trợ cấp hàng tháng mức 180.000 đồng/ tháng đối với con thương binh suy giảm khả năng lao động từ 21% đến 60%. Mức 355.000 đồng/ tháng đối với thương binh, con thương binh suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. Học sinh, sinh viên đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo quy định trên đây khi tốt nghiệp được trợ cấp một lần bằng hai tháng trợ cấp hàng tháng đang được hưởng. Chế độ trợ cấp hàng tháng này không áp dụng đối với học sinh, sinh viên thuộc diện ưu đãi mà hưởng lương hoặc sinh hoạt phí khi đi học.
Bên cạnh đó nhà nước còn khuyến khích các cơ quan, đoàn thể, cá nhân hỗ trợ thương binh và con em của họ trong giáo dục, đào tạo như: nhận đỡ đầu chăm sóc, hỗ trợ một phần kinh phí học tập, cấp học bổng...
Như vậy, chế độ ưu đãi trong giáo dục, đào tạo đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh và con em họ khá toàn diện, góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục chung của đất nước đồng thời hoàn chỉnh chế độ ưu đãi với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần lưu ý điều chỉnh mức ưu đãi công bằng giữa các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập, dân lập và tư thục.
2.3.4. Về chế độ ưu đãi việc làm
Để sống và tồn tại, con người cần có việc làm tạo ra thu nhập. Đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh đây là vấn đề rất đáng lưu tâm. Tại Khoản 3 Điều 20 Pháp lệnh ưu đãi người có công ngày 29/06/2005 quy định: "thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được ưu tiên tạo việc làm, căn cứ vào thương tật và trình độ nghề nghiệp được tạo điều kiện làm việc trong cơ quan nhà nước, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về lao động". Giải quyết việc làm đối với thương binh là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, giúp cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ giảm bớt những khó khăn trước mắt. Đây còn là cầu nối giúp họ hoà nhập vào cộng đồng, xoá đi những mặc cảm tiêu cực của họ những khi cho là người mang thương tật, không giúp ích cho gia đình và xã hội.
Thực tế cho thấy thương binh, người hưởng chính sách như thương binh vẫn còn khả năng lao động nhưng rất khó khăn trong vấn đề tìm kiếm việc làm. Do ảnh hưởng thương tật, để tìm một công việc thích hợp với khả năng của họ không dễ. Cũng do điều kiện cuộc sống nên họ ít có điều kiện mở rộng hoặc phát triển quy mô sản xuất. Họ chủ yếu làm những công việc giản đơn, nguồn thu nhập thấp. Các lĩnh vực chủ yếu trong việc làm của họ là sản xuất nông nghiệp ở nông thôn, buôn bán, làm dịch vụ nhỏ. Một số người trong độ tuổi lao động vẫn còn khả năng lao động nhưng chưa tìm được việc làm, hay việc làm không ổn định. Thực trạng này đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách ưu tiên, ưu đãi giải quyết việc làm cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh.
đáp ứng yêu cầu đó, pháp luật đã có những quy định ưu đãi trong vấn đề việc làm cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh. Theo đó, họ được ưu tiên, ưu đãi trong các chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế, tạo việc làm từ các chương trình 327, chương trình vay vốn từ quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, chương trình xoá đói giảm nghèo. Trong các chương trình này, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh là một đối tượng được ưu tiên thực hiện, được cung cấp thông tin cần thiết hướng dẫn sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động nhận một tỉ lệ nhất định thương binh, người hưởng chính sách như thương binh vào làm việc. Trong các cơ quan Nhà nước, khi thương binh, người hưởng chính sách như thương binh dự thi xét tuyển công chức được ưu tiên trong thi tuyển.
Đối với các cơ sở sản xuất, dạy nghề của thương binh, người hưởng chính sách như thương binh Nhà nước cũng thực hiện nhiều chính sách ưu tiên: cho thuê đất làm nhà xưởng, hỗ trợ một phần kinh phí xây dựng cơ sở, cho vay vốn ưu đãi... Các thành viên khi muốn nâng cao tay nghề, học nghề ở các trường đào tạo thuộc sự quản lý của Nhà nước được xem xét miễn học phí và cấp học bổng. Bên cạnh đó, Nhà nước tạo điều kiện ưu tiên cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trong vấn đề cho thuê đất nông nghiệp, đất mặt nước làm tư liệu sản xuất trong nông nghiệp. Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân mở các cơ sở dạy nghề cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh theo học, tự tạo việc làm, tìm kiếm việc làm cho họ.
Nhờ có những quy định này mà nhiều người trong số họ đã tìm cho bản thân và gia đình công việc phù hợp, tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, làm giầu cho xã hội. Song pháp luật cũng cần quy định một cách rõ ràng, cụ thể về chế độ ưu đãi việc làm cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh và con em họ trong hệ thống văn bản cụ thể, đảm bảo tính pháp lí và khả năng thực hiện trong thực tế tốt hơn.
2.3.5. Về các chế độ ưu đãi khác
Bên cạnh những quy định cụ thể về các chế độ ưu đãi trên, nhà nước còn có một số chính sách ưu đãi khác trong các lĩnh vực như nhà ở, miễn giảm một số loại thuế, ưu tiên trong tín dụng ngân hàng, trong lĩnh vực văn hoá tinh thần...
Đối với nhiều gia đình thương binh có hoàn cảnh khó khăn thì nhà ở là một vấn đề khó khăn. Nhà ở của họ thường chật chội, dột nát, cần sữa chữa, thậm chí có trường hợp quá khó khăn vẫn phải ở nhờ, ở tạm. Để chấm dứt tình trạng đó, Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy định chế độ hỗ trợ cải thiện nhà ở cho gia đình thương binh, người hưởng chính sách như thương binh. tiêu biểu trong số đó là Quyết định số 117/2007/QĐ - TTg ngày 25/07/2007 sửa đổi bổ sung một số điều của quyết định số 118/TTg ngày 27/02/1996 và Điều 3 Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 về việc hỗ trợ người hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cải thiện nhà ở.
Về nguyên tắc, việc hỗ trợ, cải thiện nhà ở dựa vào công lao đóng góp và hoàn cảnh cụ thể từng người, khả năng kinh tế, xã hội của địa phương. Kết hợp với phương châm "nhà nước và nhân dân cùng làm", kinh phí của nhà nước là chủ yếu nhưng cần kết hợp sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Các hình thức hỗ trợ vấn đề nhà ở cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh chủ yếu được áp dụng là tặng nhà tình nghĩa, hỗ trợ kinh phí để xây dựng, sửa chữa nhà ở, hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần tiền sử dụng đất khi mua nhà của nhà nước hoặc giao đất làm nhà ở. Đối với các trường hợp nhà ở dột nát, chật chội không đáp ứng yêu cầu cuộc sống thì được hỗ trợ kinh phí để sửa chữa. Trường hợp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không thể tạo lập nhà ở, không có đất xây nhà, tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể mà nhà nước xem xét tặng nhà tình nghĩa, giao đất làm nhà, hỗ trợ mua nhà thuộc sở hữu nhà nước. Cụ thể thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B nếu mua nhà thuộc sở hữu nhà nước đối với nhà nhiều tầng, nhiều hộ ở thì được hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ tiền sử dụng đất theo các mức:
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B có tỉ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật từ 81% trở lên được hỗ trợ toàn bộ tiền sử dụng đất; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B có tỉ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật từ 61% đến 81% được hỗ trợ 90% tiền sử dụng đất, tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 41% đến 60% được hỗ trợ 80% tiền sử dụng đất, tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 21% đến 41% được hỗ trợ 70% tiền sử dụng đất.
Trường hợp thương binh thuộc diện hỗ trợ cải thiện nhà ở chết thì thân nhân của họ được chính quyền địa phương xem xét hồ sơ để hỗ trợ về nhà ở.
Để đảm bảo cho cuộc sống của thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, Nhà nước còn giành cho họ một số ưu đãi trong các lĩnh vực khác như miễn giảm một số loại thuế (thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà ở...), ưu tiên khi vay vốn tín dụng tại các ngân hàng với mức lãi suất thấp.
Nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, Nhà nước cùng các cấp chính quyền cũng tạo điều kiện cho họ tham gia các hoạt động văn hoá tinh thần như mời tham dự các chương trình văn hoá, văn nghệ truyền thống của địa phương, tổ chức các cuộc thăm quan, du lịch, thăm lại chiến trường xưa, tổ chức thăm hỏi, tặng quà, động viên tinh thần họ vào các dịp lễ tết.
Hệ thống chế độ ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh đã được xây dựng khá hoàn thiện, bước đầu đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của họ cùng gia đình. Điều đó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước cùng toàn thể nhân dân ta với những người con hi sinh một phần xương máu của mình cho độc lập tự do của tổ quốc.
2.4. Quản lý, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp
Quản lý, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp là những quy định rất cần thiết, nhằm đảm bảo cho việc thực hiện chế độ ưu đãi trong thực tế được thống nhất và đúng như quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, có những quy định để kiểm tra việc thực hiện chúng một cách thường xuyên, nhanh chóng, tìm ra những điểm bất hợp lý, phát hiện sai phạm trong quá trình thực hiện, từ đó có hướng giải quyết và xử lý kịp thời những sai phạm đó.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh. Cụ thể hơn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trao quyền quản lý cho Cục thương binh - Liệt sỹ và Người có công chịu trách nhiệm quản lý vấn đề này. Ngoài ra, các bộ, ngành có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước về chế độ ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh.
Để công tác quản lý có hiệu quả tới từng địa phương, Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý Nhà nước về ưu đãi đối với thương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (28).doc