Luận văn Quyền chọn chứng khoán: Điều khiển, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam

Sau 10 năm phát triển, TTCK Việt Nam đã có những dấu hiệu hết sức lo ngại, giá các loại chứng khoán biến động phức tạp khiến nhiều NĐT thua lỗ nặng, cầu chứng khoán suy giảm, thị trường trở nên buồn tẻ. Giải pháp cho vấn đề ngày như thế nào? Có biện pháp gì để bảo vệ NĐT khi giá chứng khoán liên tục giảm hoặc giảm đột biến?

Như đã giới thiệu ở phần trên, NĐT trên TTCK có thể cố định giá bán, giá mua chứng khoán của mình qua việc sở hữu quyền chọn. Do đó, nếu biết vận dụng các kỹ thuật mua bán chứng khoán kết hợp với quyền chọn, các NĐT có thể bảo vệ được lợi nhuận trong kinh doanh chứng khoán một cách hữu hiệu. Hơn nữa, việc ứng dụng giao dịch quyền chọn đem lại cho NĐT trên TTCK Việt Nam một công cụ đầu tư mới. Quyền chọn chứng khoán phát hành trên cơ sở cổ phiếu đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các quyền chọn chứng khoán sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị cổ phiếu đầu tư hoặc để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu có thay đổi bao nhiêu thì các của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Khi TTCK biến động từng giây từng phút thì việc nắm trong tay quyền chọn chứng khoán là một biện pháp khôn ngoan để đối phó với rủi ro.

 

doc117 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2036 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền chọn chứng khoán: Điều khiển, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
00 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn giao dịch giữa các ngoại tệ khác và VNĐ).. Theo công văn này, NHNN đã đưa ra những quy định cụ thể về các loại ngoại tệ được giao dịch, cơ sở tính phí quyền chọn, thời hạn giao dịch, đối tượng giao dịch… những quy định này là cơ sở để triển khai thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ tại các NHTM khác dưới sự cho phép của NHNN. Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank với giá trị hợp đồng là 8 triệu USD-100.000 USD và chỉ được thực hiện với quyền chọn Châu Âu. BIDV được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 và kể từ đây không còn quy định giới hạn cho giá trị hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra, còn có các ngân hàng như Eximbank, GPbank cũng tham gia nghiệp vụ này. Ngày 29/8/2006, NHNN cũng đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC. Nội dung chính của công văn này gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về nguyên tắc và nội dung kế toán đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ, nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, để giải quyết vấn đề hạch toán kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các NHTM. Tuy nhiên dịch vụ quyền chọn tiền đồng có đặc thù là ngân hàng không thể tái bảo hiểm sản phẩm của mình ở một đơn vị thứ 3, vì vậy rủi ro đối với bên bán là rất lớn. Điều này khiến các Ngân hàng phải tự tính toán cân đối thu nhập, chi phí và tự bảo hiểm bằng đồng tiền nào cho phù hợp. Dịch vụ này cũng chỉ tập trung chủ yếu phục vụ các DN kinh doanh XNK và phần lớn là các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, quy mô hợp đồng tối thiểu đối với ngoại tệ khác là 100.000 USD hoặc tương đương là quá cao. Đây là một bất lợi khiến các cá nhân và DN vừa và nhỏ có nhu cầu bảo hiểm tỷ giá cho một lượng ngoại tệ nhỏ hơn không thể tham gia nghiệp vụ này. Thị trường tiền tệ Việt Nam chưa gặp những biến động lớn cho nên các DN chưa quan tâm đến vấn đề phòng ngừa rủi ro. Họ quan niệm rằng tỷ giá thì có Nhà nước ổn định; lãi suất thì Ngân hàng Trung ương cũng không cho biến động mạnh và vì thế họ an tâm kinh doanh mà bỏ qua các chiếc lược phòng ngừa rủi ro tiền tệ. Mức phí quyền chọn mà các NHTM đưa ra cho DN thời gian qua còn cao, chưa hợp lý và không mang tính khuyến khích sử dụng. Vì thế, các DN tính toán không có lợi nên không muốn tham gia vào nghiệp vụ này, vì tham gia thì sẽ mất một khoản tiền trước mắt (khoản phí) mà không thấy rủi ro gì đáng kể. Vì vậy mặc dù được triển khai từ năm 2005, nhưng doanh số mua bán thực tế của các ngân hàng không đáng kể. Tuy nhiên đến tháng 03 năm 2009 để ổn định thị trường ngoại hối có diễn biến phức tạp Thống đốc NHNN đã ban hành văn bản số 1820/NHNN-QLNH yêu cầu NHTM dừng thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền đồng kể từ 23/3/2009. 2.2.3 Quyền chọn vàng. Các Ngân hàng đã đưa ra sản phẩm quyền chọn từ cuối năm 2004 như quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn tiền đồng, nhưng chưa có quyền chọn vàng. Do trong năm 2005, giá vàng liên tục biến động khiến các DN kinh doanh vàng bạc đá quý mới thực sự quan tâm. Vì thế, các NHTM, sau khi trình và được phép của NHNN, đã phải rất tích cực chuẩn bị cả về nhân lực, vật lực lẫn đào tạo chuyên môn…để có thể đưa ra thị trường sản phẩm quyền chọn Vàng phục vụ khách hàng. Ngoài 3 ngân hàng lớn thực hiện quyền bằng vàng là Vietcombank, Agribank và BIDV thì một số NHTM cổ phần đã triển khai mạnh dịch vụ quyền chọn, trong đó ACB là ngân hàng triển khai sớm nhất từ năm 2004, tiếp đến là Techcombank, VIB Bank, Sacombank, Eximbank... Về đối tượng giao dịch thì quyền chọn vàng được áp dụng đối với các cá nhân và các tổ chức có nhu cầu muốn bảo hiểm rủi ro sự biến động của vàng. Tuy nhiên thì khách hàng chỉ là người mua quyền chọn chứ không phải là người bán quyền chọn. Hiện nay, mỗi ngân hàng cung cấp quyền chọn vàng đều có quy định cụ thể và riêng biệt cho sản phẩm của mình chẳng hạn như quy định loại vàng giao dịch; đồng tiền giao dịch; thời gian giao dịch cũng như quy mô giao dịch tối thiểu của mỗi hợp đồng quyền chọn… Thực tế cho thấy lượng khách hàng giao dịch quyền chọn vàng tại các Ngân hàng hiện nay chủ yếu là các DN kinh doanh vàng, sử dụng quyền chọn vàng để phòng ngừa rủi ro cho hoạt động nhập vàng hoặc mua bán vàng của mình trên thị trường là chính nhưng có kết hợp với việc tìm kiếm cơ hội sinh lợi bằng sự am hiểu nhất định của mình về hình hình thị trường vàng thế giới và trong nước cũng như khả năng phân tích, dự đoán về biến động giá vàng tương lai. Lượng khách hàng giao dịch quyền chọn vàng tại ngân hàng ACB chủ yếu là các khách hàng có nhu cầu phòng ngừa rủi ro biến động giá vàng cho các khoản thanh toán bằng vàng trong tương lai, nhiều nhất là phục vụ cho khoản đặt cọc vàng hoặc thanh toán vàng trong mua bán nhà đất và trả nợ vay cho nên họ chủ yếu giao dịch các quyền chọn mua và một ít quyền chọn bán có quy mô tương đối nhỏ. Hiện nay quy mô giao dịch tối thiểu đối với một hợp đồng quyền chọn tại ACB là 50 lượng, thời hạn giao dịch tối thiểu là 7 ngày, tối đa là 180 ngày. Tuy nhiên lợi nhuận mang lại từ nghiệp vụ này tại ACB không cao vì khi ký hợp đồng với khách hàng, ACB đều phải thực hiện giao dịch đối ứng với các đối tác nước ngoài mà không duy trì trạng thái mở, do đó thu nhập nhận được chỉ là khoản chênh lệch giữa phí thu được của khách hàng và khoản phí mà ACB phải trả cho đối tác nước ngoài. Đối với Eximbank, mặc dù giao dịch quyền chọn triển khai từ đầu năm 2006 số lượng hợp đồng được ký kết cũng không đáng kể. Hiện nay quy mô giao dịch tối thiểu đối với một hợp đồng quyền chọn tại Eximbank là 100 lượng, thời hạn giao dịch tối thiểu là 3 ngày, tối đa là 365 ngày. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đạt được gì mà thị trường mong muốn. Về phía ngân hàng thì vẫn thiếu công tác tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị chưa sâu rộng; chưa cung cấp hướng dẫn chi tiết và dễ hiểu về cho khách hàng; quy mô hợp đồng chưa phù hợp…. Còn về phía khách hàng thì gặp khó khăn trong việc hạch toán kế toán vì chưa có hướng dẫn cụ thể đối với phí quyền chọn; chưa có kinh nghiệm sử dụng; còn tâm lý e ngại khi sử dụng vì chưa chưa hiểu… Như vậy, quyền chọn vàng vẫn còn khá mới mẻ, chưa đem lại kết quả kinh doanh như bản thân những lợi ích có được từ giao dịch này cho bản thân các ngân hàng cung cấp và ngay cả các NĐT tại thị trường Việt Nam. 2.2.4 Quyền chọn lãi suất. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất đối với các khoản cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng USD hoặc Euro. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất là các DN hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động tại VN được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các NH nước ngoài. Số gốc của hợp đồng quyền chọn lãi suất tối đa bằng 15% vốn tự có của Ngân hàng. Tổng số vốn gốc tối đa của tất cả các hợp đồng quyền chọn lãi suất trong thời gian thí điểm không vượt quá 50% mức vốn tự có của ngân hàng, thời hạn hợp đồng không quá 5 năm; thực hiện nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ- Dual currency Deposit; thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo. Đó là việc trao đổi các dòng tiền trong tương lai bằng các đồng tiền khác nhau. Trong các giao dịch hoán đổi chéo thường có việc hoán đổi thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền sang thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền khác. Số tiền gốc trong giao dịch có thể được hoán đổi vào kỳ đầu (nếu có) và kỳ cuối, hoặc nhiều kỳ trong thời gian hiệu lực của giao dịch. Sau BIDV là hàng loạt các Ngân hàng khác cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này. Kiến thức hiểu biết của DN Việt Nam về quyền chọn lãi suất và phòng chống rủi ro lãi suất còn quá thấp. Phần lớn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của các DN là nguồn vay nợ từ bên ngoài, đặc biệt từ ngân hàng. Đối với các DN có các hợp đồng tín dụng trung, dài hạn với giá trị lớn và lãi suất cố định hoặc thả nổi cũng như các DN tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thường xuyên ở vào các vị thế mở của ngoại tệ luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thị trường rất lớn như rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái. Tuy nhiên, hiện tại các DN Việt Nam rất ít nhận thức về vấn đề này. Những hiểu biết về kỹ thuật phòng chóng rủi ro lãi suất bằng các giao dịch phái sinh, đặc biệt là quyền chọn lãi suất càng khá xa lạ. Chính vì vậy mà các DN không sẵn lòng tham gia vào các nghiệp vụ này dẫn đến khó khăn cho các ngân hàng trong việc phát triển các nghiệp vụ phái sinh. Điều này cũng cho thấy rằng tại các ngân hàng Việt Nam công tác Marketing ngân hàng với các hoạt động tuyên truyền, tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ mới còn nhiều hạn chế. 2.2.5 Bài học kinh nghiệm trong việc phát triển các loại quyền chọn vào việc ứng dụng quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam Mặc dù chưa đạt được những kết quả như mong đợi nhưng từ thực trạng những khó khắn trong việc phát triển các loại quyền chọn trên có thể rút ra những kinh nghiệm quý báu khi Việt Nam muốn áp dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam. - Sự thiếu hiểu biết của khách hàng trong việc sử dụng các quyền chọn: Qua thực trạng của 04 loại quyền chọn trên có thể thấy trở ngại đầu tiên khi phát triển các loại quyền chọn là khách hàng thiếu kiến thức về các sản phẩm quyền chọn nên chưa chủ động tìm đến để tận dụng ưu điểm của quyền chọn trong phòng ngừa rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy nếu muốn ứng dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam thì trước tiên chúng ta phải thường xuyên phổ biến kiến thức về các sản phẩn quyền chọn đến công chúng đầu tư để họ có thể thấy được những lợi ích của quyền chọn từ đó sẽ chủ động sử dụng công cụ này để phòng ngừa rủi ro cũng như tìm kiếm lợi nhuận. - Nội dung của các hợp đồng quyền chọn chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng của khách hàng: một số trong hợp động quyền chọn chưa phù hợp với nhu cầu của khách hàng như mức quy định về quy mô giao dịch tối thiếu, thời gian giao dịch quyền chọn......Khi triển khai áp dụng quyền chọn chứng khoán chúng ta cần nghiên cứu và đưa ra các nội dung của hợp đồng quyền chọn sao cho thật phụ hợp với nhu cầu của công chúng đầu tư. - Mức phí của các tổ chức cung cấp dịch vụ quyền chọn còn cao: mức phí quyền chọn cao cũng là một trong những trở ngại khiến khách hàng chưa sử dụng các sản phẩm quyền chọn. Khi triển khai quyền chọn chứng khoán các tổ chức cung cấp dịch vụ quyền chọn chứng khoán cần phải tính toán kỹ để đưa ra mức phí hợp lý nhằm khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ này. - Các sản phẩm quyền chọn còn nghèo nàn, việc quảng bá các dịch vụ quyền chọn đến khách hàng còn nhiều yếu kém: thực tế cho thấy các sản phẩm quyền chọn còn rất nghèo nàn, hơn nữa các tổ chức cung cấp quyền chọn còn yếu trong khâu tiếp cận, quảng bá dịch vụ quyền chọn tới khách hàng. Đối với một sản phẩm mới như quyền chọn thì điều quan trọng là phải cho khách hàng thấy được họ được những lợi ích gì khi sử dụng sản phẩm. Vì vậy khi triển khai ứng dụng quyền chọn chứng khoán chúng ta phải đưa ra được các sản phẩm đa dạng, quảng bá lợi ích của các sản phẩm quyền chọn chứng khoán đến khách hàng. - Trình độ hiểu biết của đội ngũ cản bộ của các tổ chức cung cấp dịch vụ quyền chọn còn nhiều hạn chế: hầu hết các tổ chức cung cấp dịch vụ quyền chọn chưa giám triển khai mạnh áp dụng công cụ này một phần là do trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ về sản phẩm còn yếu. Từ bài học kinh nghiệm này thì ngay từ bây giờ chúng ta phải đào tạo đội ngũ cán bộ cho lĩnh vực chứng khoán phái sinh đặc biệt là quyền chọn chứng khoán nếu muốn triển khai công cụ này tại Việt Nam. 2.3. Thực trạng các điều kiện để phát triển giao dịch quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam 2.3.1 Điều kiện về sự phát triển của TTCK TTCK Việt Nam bắt đầu ra đời tháng 7/2000 chỉ với 2 cổ phiếu và một ít trái phiếu chính phủ được niêm yết giao dịch. Trong 5 năm đầu tiên hầu như thị trường nhận được rất ít sự quan tâm của NĐT. Ngày 8/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức đi vào hoạt động đã góp một phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam. Tính đến hết năm 2005 toàn thị trường mới chỉ có 32 công ty niêm yết, 14 CTCK, 04 công ty quản lý quỹ và hơn 31 nghìn tài khoản khách hàng; tổng giá trị trái phiếu niêm yết và giao dịch là 38.122 tỷ đồng, bằng 4,9% GDP của năm 2005. Tổng giá trị cổ phiếu niêm yết và giao dịch là 9.356 tỷ đồng, bằng 1,2% GDP năm 2005. Dù quy mô TTCK trong 05 năm đầu tiên còn rất nhỏ bé nhưng là thời gian quý báu để các cấp quản lý, các CTCK và NĐT tích lũy kinh nghiệm cho sự phát triển của các giai đoạn tiếp theo. Các công ty niêm yết cũng đã làm quen dần với cơ chế công bố thông tin và bước đầu đã thực hiện nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ tốt nhất. Trong điều kiện các DN Việt Nam thời điểm này không phải thực hiện nghĩa vụ kiểm toán, không phải công bố thông tin thì đây có thể coi là một nét nổi bật đối với các DN niêm yết trên TTCK. TTCK Việt Nam đã có sự phát triển ấn tượng trong 02 năm 2006, 2007. TTCK Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so đầu năm. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP) giá trị cổ phiếu do các NĐT nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường. Hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch. Trên thị trường phi tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch trên Hastc. Số công ty niêm yết cuối năm 2006 tăng gần 5 lần so với năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006. Sự phát triển mạnh mẽ của TTCK năm 2006 đã thu hút sự quan tâm của giới đầu tư, nhiều người dân đã chuyển từ các kênh đầu tư phổ biến trước đây như gửi tiết kiệm, mua ngoại tệ, nhà đất… sang đầu tư cổ phiếu. Việc Việt Nam trở thành thanh viên của WTO cũng đã tác động rất tích cực đến sự phát triển của TTCK, thu hút nhiều hơn sự quan tâm của NĐT nước ngoài vào TTCK Việt Nam. Trong năm 2006 các công ty niêm yết đã có những tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện công bố thông tin, quản trị DN và huy động vốn qua TTCK. Hệ thống các tổ chức trung gian ngày càng phát triển. Hệ thống thành viên lưu ký chứng khoán, ngân hàng chỉ định thanh toán và ngân hàng giám sát phục vụ tốt cho thanh toán giao dịch chứng khoán. Các TTGDCK đã vận hành hệ thống giao dịch thông suốt, cơ bản đáp ứng được yêu cầu giao dịch của thị trường. Luật Chứng khoán chính thức được thông qua ngày 23/6/2006 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã lành mạnh hóa và minh bạch hóa hơn cho môi trường đầu tư tại TTCK. Năm 2007, TTCK Việt Nam đạt được những thành công đáng kể: quy mô hoạt động của thị trường không ngừng mở rộng; nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu mới được niêm yết trên thị trường; các chủ thể quan trọng của thị trường như các tổ chức niêm yết; các CTCK; các NĐT đã thực sự thích nghi với môi trường hoạt động của một thể chế tài chính bậc cao – TTCK. TTGDCK TPHCM chính thức được chuyển đổi thành SGDCK TPHCM vào giữa năm 2007, đồng thời SGDCK đã thực hiện giao dịch khớp lệnh liên tục từ ngày 30/07/2007 và từng bước triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng với tình hình thị trường đang phát triển. Số lượng CTCK cũng có sự tăng lên rất lớn trong năm 2007, từ 22 CTCK vào cuối năm 2006 thì tính đến thời điểm 31/12/2007, có tổng cộng 80 CTCK được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động, trong đó có 69 công ty đã chính thức đi vào hoạt động. Trong bối cảnh số lượng các CTCK ngày một gia tăng, thị phần ngày càng bị chia nhỏ và sự cạnh tranh càng trở nên khốc liệt, các CTCK tăng cường mở rộng cả về phạm vi và quy mô hoạt động. Dịch vụ của các CTCK cũng ngày càng hoàn thiện và phát triển. Nhiều CTCK đã ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại để mang lại nhiều dịch vụ tiện ích cho khách hàng: đặt lệnh qua điện thoại, trading online, tra cứu kết quả qua SMS… Sự cải tiến trong việc cung cấp dịch vụ đã thu hút sự tham gia nhiệt tình của các NĐT. Chính vì thế, có thể nói, vai trò của các CTCK trong việc tạo cầu và kích cầu cho TTCK trong thời gian này là rất lớn. Số lượng công ty niêm yết cũng tăng lên 253 công ty vào cuối năm 2007. Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường, cùng với sự ra đời của hàng loạt các CTCK mang đến những dịch vụ tiện ích đã thu hút được một số lượng lớn các NĐT cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Đến cuối năm 2007 toàn thị trường đã có tổng cộng 327.000 tài khoản giao dịch chứng khoán mở tại các CTCK (tăng 240.816 tài khoản, tương đương 279% so với cuối năm 2006). Bên cạnh sự tham gia ngày càng đông đảo của các NĐT cá nhân, TTCK Việt Nam giai đoạn này cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt của các tổ chức tài chính lớn trong khu vực và trên thế giới như: JP Morgan, Merrill Lynch, Citigroup… Tính đến cuối năm 2007, số lượng NĐT nước ngoài mở tài khoản tại các CTCK lên đến con số 7.900 tài khoản (cá nhân 7.400 và tổ chức là 500). Sự gia tăng về số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán là một dấu hiệu khả quan về sự quan tâm và tham gia vào TTCK của công chúng đầu tư. Hơn nữa so với các năm trước, trong năm 2007 NĐT cũng đã trưởng thành hơn, và ngày càng tỏ ra chuyên nghiệp hơn. Trình độ hiểu biết và nhu cầu về đầu tư chứng khoán của các NĐT cá nhân cũng như tổ chức ngày một tăng. Năm 2008 TTCK Việt Nam chứng kiến sụt giảm mạnh của toàn thi trường. Nguyên nhân chủ yếu là do sự tăng trưởng nóng của các cổ phiếu trong hai năm 2006, 2007 và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Chỉ số VN-index đã tuột dốc thê thảm từ mức 927,02 điểm vào cuối năm 2007 xuống chỉ còn  315,62 điểm vào cuối năm 2008. Chỉ số HASTC-Index giảm tổng cộng 218,44 điểm (tương đương 67,51%) xuống 105,11 điểm. Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt cổ phần Nhà nước trong các DN đã CPH, chưa kể hàng loạt ngân hàng, CTCK, DN... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Thống kê cho thấy chỉ riêng trong năm 2008, cả hai sàn chứng khoán TP.HCM và Hà Nội đã đón nhận thêm 87 cổ phiếu mới lên sàn (31 trên sàn TP.HCM) với những gương mặt rất lớn như Hoàng Anh Gia Lai, PetroVietnam Finance, Vinaconex… dẫn đến tình trạng TTCK có nguy cơ thừa "hàng". Trong năm 2008 hàng loạt giải pháp tình thế đã được UBCKNN đưa ra như thu hẹp biên độ giao dịch, SCIC mua cổ phiếu nhằm bình ổn thị trường… Tuy nhiên những giải pháp này chưa cho thấy được sự hiệu quả cần thiết. Đây cũng là bài học kinh nghiệm cho các cơ quan quản lý. Xét về các biện pháp phát triển thị trường mang tính chất dài hạn, trong năm 2008 thị trường đã đạt được một số bước tiến nhất định, trong đó điển hình là việc thực hiện tách bạch tiền gửi của NĐT và chuyển sang cho ngân hàng quản lý (việc tách bạch tiền của NĐT và CTCK sẽ đảm bảo hơn các quyền lợi cho NĐT, nâng cao tính minh bạch của thị trường). Năm 2008 cũng chứng kiến sự thua lỗ của các CTCK, trước hết là do các hoạt động môi giới, tư vấn….bị co hẹp không đủ để cho các CTCK trang trải các chi phí hoạt động, tuy nhiên khoản lỗ từ hoạt động tự doanh của các CTCK cũng là rất lớn. Chính sự khó khăn này đã giúp các CTCK trưởng thành hơn rất nhiều, các CTCK đẩy mạnh khâu dịch vụ, tối ưu hóa tiện ích, làm đẹp lòng khách hàng bằng biểu phí ưu đãi, tái repo, cho vay cầm cố.... ; đầu tư vào công nghệ thông tin và con người để cải thiện chất lượng dịch vụ, tốc độ xử lý lệnh tại nhiều công ty lên tới 220 lệnh/s, hiện tượng “thắt nút cổ chai” về cơ bản được giải quyết. Nhiều CTCK đã đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật cho giao dịch trực tuyến và giao dịch không sàn. Sự sụt giảm mạnh của TTCK trong năm 2008, sự thua lỗ của hầu hết các NĐT đã khiến người ta nhận thấy sự cần thiết của các công cụ phòng ngừa rủi ro và chứng khoán phái sinh đặc biệt là quyền chọn chứng khoán đã được nhiều người đề cập đến để giúp các NĐT có những công cụ phòng ngừa rủi ro. Năm 2009 đã đánh dấu một năm đầy thử thách và thành công với nhiều biến động mạnh trên thị trường. Chỉ số chứng khoán VN-Index từ 315.62 điểm cuối năm 2008 giảm xuống mức thấp nhất 235.5 điểm trong năm 2009 rồi lại tăng mạnh lên 624.1 điểm, và lại giảm xuống 434.87 điểm thời điểm cuối năm. Quy mô của TTCK đã được mở rộng, chỉ trong vòng một năm, số lượng cổ phiếu niêm yết đã tăng lên đáng kể. Tính đến cuối năm 2009, số lượng cổ phiếu niêm yết trên cả hai sàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã lên con số 457. Trong đó, 200 mã chứng khoá được niêm yết tại sàn HSX gồm cả 50 mã niêm yết mới và chuyển sàn; số mã chứng khoán trên sàn HNX là 257 mã đã gồm 94 mã niêm yết mới và chuyển sàn. Như vậy, tính chung cả năm 2009 đã có 144 mã niêm yết mới. Bảng 2.2: Quy mô cổ phiếu niêm yết từ 2007-2009 (Nguồn: chứng khoán Tân Việt) Thị trường cổ phiếu niêm yết đã có sự thay đổi về chất khi UBCKNN yêu cầu các công ty niêm yết không đủ điều kiện niêm yết buộc phải chuyển sàn. Theo đó, những công ty đang niêm yết tại HSX mà có vốn điều lệ dưới 80 tỷ đồng sẽ phải làm thủ tục chuyển sang niêm yết tại HNX như ALT, BPC, DXP, DPC, RHC, SAF, SJ1, CSG… Tính minh bạch trong thông tin được cải thiện khi UBCK yêu cầu các công ty niêm yết phải có báo cáo soát xét định kỳ nửa năm một lần. Thêm vào đó, UBCKNN cũng yêu cầu các CTCK từ 10/04 phải đóng cửa các đại lý nhận lệnh đảm bảo thi hành đúng luật chứng khoán. Giai đoạn này UBCKNN mạnh tay siết chặt các quy định giao dịch, thay đổi quy chế niêm yết. Trong năm 2009 TTCK Việt Nam có những sự kiện nổi bật có ảnh hướng lớn đến sự phát triển của thị trường: - Chính thức vận hành thị trường Upcom: Ngày 24/06, SGDCK Hà Nội chính thức đưa vào vận hành thị trường Upcom dành cho CTĐC chưa niêm yết. Đây chính là lời giải cho bài toán thanh khoản trên thị trường OTC với sự minh bạch thông tin, minh bạch về giá và đảm bảo xác thực giao dịch. Thị trường UpCOM còn giúp các cổ đông nội bộ của các CTĐC không đủ điều kiện niêm yết trên HOSE, HNX giải quyết nhu cầu về vốn. Sau gần 6 tháng hoạt động, thị trường Upcom tỏ ra chưa thực sự có sức hấp dẫn đối với các NĐT cũng như các CTĐC. Cụ thể là, tính đến 31/12/2009 mới chỉ có 34 trong tổng số gần 1000 CTĐC tham gia thị trường với tổng giá trị thị trường chỉ chiếm 4.147 tỉ, chưa có nhiều công ty có vốn lớn và kết quả kinh doanh tốt tham gia thị trường, khối lượng giao dịch kỷ lục trên thị trường Upcom mới chỉ được ghi nhận 1,3 triệu cổ phiếu với tổng giá trị là 20,41 tỷ đồng (03/09/2009). Đối với các NĐT, do phương thức khớp lệnh còn cứng nhắc, cộng với các cổ phiếu trên Upcom chưa “hút” được các NĐT nên sau 6 tháng giao dịch chỉ số Upcom Index giảm từ mức khởi điểm 100 điểm về mức 53,82 điểm, giá cổ phiếu trên sàn này cũng giảm khá thấp so với mức giá chào sàn, hầu như chưa có DN nào huy động được vốn trên thị trường Upcom. Như vậy tính về lợi ích của cả 2 bên: NĐT và DN thì Upcom chưa phải là hình thức giao dịch hiệu quả. - HOSE thực hiện giao dịch trực tuyến: Ngày 12/1/2009, HOSE chính thức triển khai giao dịch trực tuyến. Theo đó, lệnh giao dịch của NĐT được CTCK truyền thẳng vào hệ thống của Sở mà không cần qua đại diện sàn. Sự nâng cấp giao dịch này được coi là bước tiến lớn đối với TTCK Việt Nam, khi tốc độ truyền lệnh từ CTCK vào Sở đạt 220 lệnh/giây so với 8 - 10 giây/lệnh trước đó và không quá 1 giây để NĐT biết được lệnh đã khớp. Ngay sau khi có tin “thông sàn”, các NĐT đã hồ hởi hưởng ứng bằng việc mua vào khối lượng lớn cổ phiếu trên sàn HOSE (mặc dù trong thời điểm này, TTCK vẫn ảm đạm ở mức 300 điểm). Sau 1 năm đi vào triển khai giao dịch trực tuyến thì thanh khoản trên sàn TP Hồ Chí Minh đã tỏ ra vượt trội hơn hẳn so với sàn Hà Nội, trung bình các phiên, giá trị và khối lượng trên sàn HOSE luôn gấp từ 3-4 lần so với giá trị trên sàn HNX. - Nhiều công ty lớn chào sàn: Năm 2009 được đánh giá là năm của sự phục hồi sau cuộc suy thoái kinh tế nên nhiều đại gia chọn năm nay là thời điểm thuận lợi để chào sàn. Mở đầu là Vietcombank - ngân hàng CPH đầu tiên của Việt Nam đã đưa lên giao dịch 112,3 triệu cổ phiếu và lập tức trở thành DN có vốn hóa lớn nhất thị trường, trên 56.000 tỷ đồng. Ngay sau đó 3 tuần, giới đầu tư chứng kiến sự xuất hiện của 2 đại gia Bảo Việt (BVH) và Vietinbank (CTG). Tiếp đó, trong tháng 10 và tháng 11 hai đại gia Eximbank (EIB) mức vốn hóa 21.000 tỷ đồng, và Công ty cổ phần tập đoàn Ma San với mức vốn hóa 16.700 tỷ đã lần lượt lên sàn kết thúc năm chào sàn đình đám của các đại gia. Như vậy, chỉ trong vòng 1 năm 5 đại gia nằm trong top 10 DN có mức vốn hóa lớn nhất thị trường đã lên sàn thành công, đánh dấu mốc cho sự mở rộng mạnh mẽ về quy mô vốn của TTCK Việt Nam trong năm 2010. - Các CTCK đẩy mạnh dịch vụ đòn bẩy tài chính: Với số lượng hơn 100 CTCK trong một thị trường khá nhỏ thì việc cạnh tranh về thị phần giao dịch ngày càng trở nên khốc liệt, và năm 2009 đòn bẩy tài chính lại trở thành công cụ cho cuộc chiến dành giật thị phần. Phổ biến nhất vẫn là các hợp đồng hợp tác đầu tư mà các CTCK phối hợp với Ngân Hàng để cung cấp cho các NĐT như: dịch vụ ứng tiền trước tự động ngay sau khi có kết quả khớp lệnh, dịch vụ ký quỹ với mức ký quỹ lên tới 300%, dịch vụ repo chứng khoán chưa niêm yết, dịch vụ bảo ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH112.doc
Tài liệu liên quan