MỞ ĐẦU.1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA BỊ
CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ.11
1.1. Khái niệm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự . 11
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người . 11
1.1.2. Khái niệm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự . 16
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định và thực hiện quy định về quyền của bị cáo
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự . 26
1.2. Quy định của pháp luật về quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự . 28
1.2.1. Các quyền chung của các chủ thể trong tố tụng hình sự . 28
1.2.2. Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 31
1.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự . 39
1.3.1. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm . 40
1.3.2. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm . 40
1.3.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ
thẩm . 44
1.3.4. Vai trò của bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân . 44
Tiểu kết Chương 1.49
Chương 2. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ
THỌ, TỈNH PHÚ THỌ VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP.51
100 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 421 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạo điều kiện cho bị cáo được xét xử lần thứ hai với một
HĐXX khác ở cấp xét xử phúc thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét xử được
chính xác, khách quan hơn.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định của cơ quan,
người có thẩm quyền tố tụng. Những quyết định này không thuộc đối tượng
kháng cáo như quyết định áp dụng, thay đổi huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn... Bị
cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng nếu các hành vi đó là trái pháp luật.
Ngoài các quyền đã xác định cụ thể ở trên, bị cáo còn có những quyền
khác theo quy định của pháp luật. Những quyền này được quy định tại các
văn bản pháp luật khác như: Hiến pháp, Bộ luật hình sự...
39
Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định theo hướng mở rộng quyền
của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự có ảnh hưởng rất lớn tới công tác điều
tra, truy tố, xét xử; góp phần nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành
tố tụng cũng như người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử. Không nên coi việc mở rộng quyền cho bị can, bị cáo
là làm yếu cuộc đấu tranh chống tội phạm. Điều tra viên cần sử dụng mọi kỹ
năng để thu thập những chứng cứ buộc tội và gỡ tội, tình tiết tăng nặng hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm của bị can; Kiểm sát viên cần chủ động kiểm sát chặt
chẽ ngay từ khi khởi tố điều tra cho đến khi truy tố, xét xử; Tòa án cần thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình bảo đảm tính công bằng, đúng đắn,
chính xác trong quá trình xét xử. Mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng phải được bảo đảm thực hiện khách quan, công
bằng, đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, bảo đảm việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử bị can, bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền của bị can, bị cáo được pháp luật tố tụng hình sự quy định.
1.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc bảo đảm quyền bị cáo. Ở vị trí trọng tâm của quá trình tố tụng, phiên tòa
không chỉ là sự bảo đảm quyền lợi cho bị hại (đối tượng bị thiệt hại bởi tội
phạm) mà còn bảo vệ quyền lợi cho chính bị cáo - người bị buộc tội.
Thực chất, phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự là sự triển khai và cụ thể
hóa các nguyên tắc cơ bản đã được đề cập tại Chương II BLTTHS 2015. Xem
xét trình tự, thủ tục phiên tòa, ta có thể dễ dàng nhận ra bóng dáng của những
nguyên tắc cơ bản đó đồng thời cũng chính là những đảm bảo pháp lý cho bị
cáo, người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam trực tiếp thực hiện các
quyền tố tụng của mình. Trong các hoạt động của Tòa án thì việc ra bản án có
40
ý nghĩa quan trọng, kết thúc chuỗi hoạt động tố tụng, trả lời mọi câu hỏi các
vấn đề của vụ án. Bản án của Tòa án nhân danh Nhà nước nên khi có hiệu lực
buộc tất cả mọi người, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tôn trọng, thực thi.
Như vậy, trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng thì “Tòa án đóng
vai trò trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm” đúng như Bộ Chính trị đã
xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc làm của tòa án mà chủ yếu là của Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và của
Hội đồng xét xử tại phiên tòa xét xử trong quá trình xét xử và cả sau khi xét xử
vụ án.
1.3.1. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm
Để bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tòa án
phải thực hiện nhiệm vụ sau: Tống đạt các quyết định tố tụng cho bị cáo đúng
thời hạn luật định; Thẩm phán phải lập kế hoạch xét hỏi sau khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử, trong kế hoạch xét hỏi cần chú ý làm rõ những tình tiết
có lợi cho bị cáo như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; giải quyết các yêu cầu của bị cáo ở
giai đoạn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm.
Việc bảo đảm thực hiện quyền này có ý nghĩa quan trọng trong việc để
bị cáo có thời gian chuẩn bị tham gia phiên tòa, thực hiện có hiệu quả các
quyền của mình tại phiên tòa xét xử.
1.3.2. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm
Các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm cho việc thực hiện quyền của bị cáo
bao gồm: Chánh án, Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa, HTND, Thư ký tòa án, Viện
trưởng viện kiểm sát, KSV, Luật sư bào chữa cho bị cáo và các chủ thể có liên
quan. Để bảo đảm quyền của bị cáo, giai đoạn này các chủ thể nói trên phải thực
hiện nghĩa vụ theo pháp luật tương ứng với mỗi giai đoạn tố tụng như:
41
- Bảo đảm quyền được tham gia phiên tòa của bị cáo
Quy định về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa tại Điều 290 BLTTHS
2015 chính là việc bị cáo được thực hiện quyền tham gia phiên tòa. Đó chính
là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội,
cũng chính là bảo đảm pháp lý để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình.
Các quy định về sự có mặt của những người tham gia phiên tòa và quy định
về việc hoãn phiên tòa nhằm mục đích xét xử vụ án một cách công bằng,
khách quan, đưa ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hội
đồng xét xử phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền tham gia phiên tòa.
Trường hợp bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
thì phải hoãn phiên tòa để triệu tập lại. Tòa án chỉ được xử vắng mặt bị cáo
trong những trường hợp nhất định.
- Bảo đảm quyền của bị cáo khi bắt đầu phiên tòa.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa là hoạt động nhằm kiểm tra các điều kiện cần
thiết cho việc xét xử, tạo tiền đề cho việc tiến hành các phần tiếp theo của
phiên tòa. Thông qua hoạt động này, HĐXX sẽ xác định các điều kiện cần
thiết để quyết định có thể tiếp tục xét xử hay phải hoãn phiên tòa quy định tại
Mục IV BLTTHS 2015.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa cũng có những quy định đảm bảo các quyền
con người cho bị cáo. Đó là quy định việc chủ tọa phiên tòa phải giải thích
quyền và nghĩa vụ cho bị cáo tại phiên tòa, hỏi bị cáo về việc thực hiện các
quyền tại phiên tòa như đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng hoặc người
tham gia tố tụng. Hội đồng xét xử phải tiếp nhận các yêu cầu của bị cáo để
xem xét khi bị cáo thực hiện các quyền của mình tại phiên tòa: quyền đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịchquyền
yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, quyền đưa thêm tài liệu, vật chứng ra
xem xét (Điều 302, 305 BLTTHS 2015).
- Bảo đảm quyền của bị cáo ở giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa.
42
Hội đồng xét xử phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền đưa ra chứng
cứ, quyền không buộc phải chống lại chính bản thân mình hoặc nhận mình có
tội; bảo đảm quyền của bị cáo tại ở giai đoạn tranh luận được tự bào chữa
hoặc được người khác bào chữa cho mình, đối đáp với những ý kiến của
người tham gia tranh luận khác để bảo vệ quyền lợi của mình;
Xét hỏi là bước quan trọng của quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Đây
là cuộc điều tra chính thức công khai được thực hiện qua việc xét hỏi bị cáo
và những người tham gia tố tụng, xem xét mọi vấn đề để xác định có tội hay
không, nếu có là tội gì cũng như nguyên nhân, động cơ, mục đích, hậu quả
của tội phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo
Việc quy định Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng tại Điều 306
BLTTHS 2015 là một quy định để cho bị cáo tự xác minh lại xem bản cáo
trạng mình đã được nhận có nội dung đúng như nội dung bản cáo trạng mà
Tòa án nhận được trong hồ sơ vụ án và bản cáo trạng mà KSV công bố tại
phiên tòa hay không. Đây thực chất là việc kiểm tra lại quyền được nhận các
văn bản tố tụng của bị cáo có được đảm bảo hay không. Vì vậy, sau khi kiểm
sát viên công bố cáo trạng, chủ tọa phiên tòa phải hỏi lại bị cáo về nội dung
cáo trạng, các quyết định của viện kiểm sát trong cáo trạng đã trình bày xem
có gì khác với nội dung cáo trạng mà bị cáo đã nhận hay không để phát hiện
xử lý việc vi phạm của viện kiểm sát. Mặt khác, việc quy định nếu Kiểm sát
viên có ý kiến bổ sung thì phải trình bày luôn là để tạo điều kiện cho bị cáo
hiểu rõ quan điểm buộc tội của VKS để có thể chuẩn bị bào chữa cho mình.
Các quy định về xem xét vật chứng (Điều 312 BLTTHS 2015), nghe và
xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình (Điều 313 BLTTHS 2015) và xem
xét tại chỗ (Điều 314 BLTTHS) tạo điều kiện để vụ án được đánh giá một
cách khách quan và công khai.
Tranh luận tại phiên tòa là một bước của tranh tụng tại phiên tòa mà
trong bước này HĐXX nghe ý kiến đối đáp của đại diện VKS và những người
43
tham gia tố tụng thể hiện quan điểm trong việc giải quyết vụ án và bảo vệ
quyền lợi cho mình một cách toàn diện nhất. Đây được xem là cơ hội cuối
cùng để những người tham gia tố tụng phân tích, lập luận để HĐXX chấp
nhận ý kiến của mình. Việc tranh luận này được tiến hành như sau:
+ Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn
bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn. Nếu
thấy không có căn cứ để kết tội thì Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy
tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội.
+ Bị cáo trình bày lời bào chữa (nếu bị cáo có người bào chữa thì người
bào chữa sẽ bào chữa cho bị cáo trước, sau đó bị cáo có quyền bổ sung ý kiến).
+ Người bị hại và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày
ý kiến về luận tội của kiểm sát viên. Nếu những người tham gia tố tụng có ý kiến
khác nhau thì họ có quyền tham gia phản bác lại ý kiến mà mình không đồng ý.
Trong phần tranh luận, chủ tọa phiên tòa chỉ được cắt những ý kiến
không liên quan đến vụ án chứ không được hạn chế thời gian tranh luận. Mặt
khác, chủ tọa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên
quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
- Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo khi nghị án và tuyên án.
Quy định về việc nghị án tại Điều 326 BLTTHS 2015 đảm bảo thực
hiện nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” và nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể”. Trong giai đoạn nghị án,
nếu hai nguyên tắc này được bảo đảm thì sẽ cho ra một bản án đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Với nguyên tắc nghị án bí mật, các quyền của bị cáo
được các thành viên HĐXX bảo đảm thực hiện thông qua việc thực hiện các
nguyên tắc tố tụng như suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp
luật, bằng chính sự vô tư, khách quan của người nghị án.
Các quyền của bị cáo trong từng bước của trình tự phiên tòa cần phải
được đảm bảo. Mỗi một giai đoạn khi tiến hành xét xử sẽ tác động trực tiếp tới
44
quyền nhân thân của bị cáo. Do vậy, từng hoạt động điều hành diễn biến phiên
tòa phải được Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa tôn trọng và thực hiện đầy đủ.
1.3.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa
sơ thẩm
Sau khi kết thúc phiên tòa, để thực hiện quyền kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án, Tòa án phải giao bản án, quyết định cho bị cáo trong thời
hạn luật định (10 ngày); giao bản án, quyết định cho bị cáo bị xử vắng mặt;
niêm yết bản án theo quy định. Việc làm này giúp bị cáo nắm được nội dung
những phán quyết của tòa án để cân nhắc xem có cần kháng cáo bản án, quyết
định sơ thẩm của tòa án theo thủ tục phúc thẩm không.
1.3.4. Vai trò của bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công
cuộc cải cách tư pháp vì quyền con người.
Bảo đảm quyền của bị cáo hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
TAND là sự thể hiện trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng và các
chủ thể khác đối với quyền của của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự tại TAND, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, xã hội trong việc
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung,
quyền của bị cáo nói riêng; Bảo đảm quyền của bị cáo (một cách toàn diện,
đầy đủ) cũng là cách thức nhằm đạt tới mục đích của tố tụng hình sự nói
chung, việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở TAND nói riêng: xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội; thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của TAND: bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ công lý.
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND nhằm hướng tới một nền tư pháp hiện đại, tôn trọng và
bảo vệ các quyền con người.
45
Tính chất bất bình đẳng trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự luôn đặt
ra nhu cầu cần phải bảo vệ những người bị “yếu thế”. Thật vậy, trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự, quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa bị cáo và các
chủ thể khác đại diện cho quyền lực nhà nước như Thẩm phán, KSV - những
người nhân danh quyền lực nhà nước làm nhiệm vụ trực tiếp tiến hành truy tố,
xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật là quan hệ không ngang bằng. Vị trí
bất lợi, yếu thế luôn thuộc về bị cáo. Tức là các quyền của họ thường dễ bị xâm
phạm nếu không có các biện pháp bảo đảm từ phía Nhà nước.
Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, ở các giai đoạn tố tụng
hình sự trong đó có giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đều có thể dẫn đến
những nguy cơ xâm hại các quyền của bị cáo nhưng trong Nhà nước pháp
quyền, tiêu chí về bảo vệ các quyền luôn được đề cao. Hoạt động tố tụng hình
sự bảo đảm quyền “được coi là trục xoay của toàn bộ các hoạt động tố tụng
hình sự, là tâm điểm chú ý của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, của
cải cách tư pháp”. Do vậy, bảo đảm quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự
nói chung và trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự của TAND nói riêng được
đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết.
Xét về bản chất, phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự là
phương pháp quyền uy - phục tùng, khi tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự
bị cáo luôn thuộc về thế yếu, họ phải đối mặt với quyền lực nhà nước với đội
ngũ công chức giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu về pháp luật. Do vậy,
trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, bảo đảm quyền của bị cáo Tòa án phải
tạo ra môi trường thuận lợi cho bị cáo, làm cho họ yên tâm về tâm lý và biết sử
dụng pháp luật để bảo vệ quyền của mình. Khi ra quyết định đưa vụ án hình sự
ra xét xử Tòa án phải gửi quyết định đó cho bị cáo hoặc người người đại diện
của họ để bị cáo thực hiện quyền bào chữa, chuẩn bị tham gia tranh tụng.
Một người với tư cách bị cáo, họ mới chỉ bị tình nghi thực hiện hành vi
phạm tội, họ vẫn có các quyền con người. Tuy nhiên, các quyền của bị cáo lại
46
bị đặt trong quan hệ đặc biệt, quan hệ TTHS mà chủ thể là bị cáo với các cơ
quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Trong quan hệ
TTHS, ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, bị cáo mang trong mình
những quyền con người cụ thể. Tuy không đồng nhất với quyền con người
nhưng quyền của bị cáo là biểu hiện cụ thể cho quyền con người (trong điều
kiện người đó có tư cách bị cáo) hay nói cách khác, quyền con người là cái cốt
lõi, căn bản, cái tiêu chuẩn xác định quyền của bị cáo. Chính vì vậy, việc bảo
đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử nhằm góp phần đáp đứng yêu cầu
căn bản của hoạt động tố tụng hình sự nói chung và hoạt động xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự nói riêng ở tất cả các cấp toà án.
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND góp phần giải quyết đúng đắn quá trình chứng minh vụ án
hình sự
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cơ quan
tiến hành tố tụng, các bên tham gia tranh tụng phải thực hiện đúng đắn nghĩa
vụ tố tụng của mình để vụ án hình sự được điều tra, xem xét giải quyết công
khai tại phiên tòa, bảo đảm tính khách quan, toàn diện. Nếu bị cáo phạm tội,
HĐXX quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội hoặc cho họ
được miễn hình phạt. Kết quả việc giải quyết vụ án được thể hiện bằng bản án
văn bản tố tụng quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình hoạt động tố tụng của
các cơ quan tiến hành tố tụng, quyết định trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp của bị cáo, người bị hại và người tham gia tố tụng khác nhau. Do vậy,
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND phải được tiến hành
một cách nghiêm ngặt theo các nguyên tắc của Bộ luật TTHS. Tại phiên tòa,
HĐXX phải thẩm tra, xét xử khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ của
vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, cũng như được đưa ra trong
quá trình xét xử, kết hợp với những kết quả các bên tranh tụng công khai và
47
bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng từ đó Thẩm phán đưa ra phán quyết về vụ án.
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND góp phần bảo đảm tính minh bạch, dân chủ, công khai
trong hoạt động tố tụng.
Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND yêu cầu xác định tội phạm một cách khách quan, toàn
diện, xử lý công minh không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Trong bản án hình sự, HĐXX quyết định khung hình phạt phải tương xứng
với tính chất và hành vi của người phạm tội. Phán quyết của Tòa án bảo đảm
tính răn đe, giáo dục, thuyết phục đối với người phạm tội và có tính chất
phòng ngừa chung đối với các đối tượng khác. Như vậy, bảo đảm quyền của
bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp
huyện góp phần bảo đảm tính minh bạch, dân chủ, công khai trong hoạt động
tố tụng, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, góp phần duy trì và
đảm bảo trật tự pháp luật, trật tự an toàn xã hội. Toà án xét xử công khai góp
phần đảm bảo rằng hoạt động xét xử của TAND là thể hiện sự dân chủ và phản
ánh giá trị của cộng đồng để tạo niềm tin cho người dân rằng trình tự cũng như
kết quả của việc tố tụng là công bằng.
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND góp phần thực hiện đúng đắn nội dung các quy định và
thực hiện các nguyên tắc trong TTHS.
Trong hoạt động xét xử vụ án hình sự nói chung, vụ án sơ thẩm hình
của TAND nói riêng yêu cầu đặt ra là phải tuân thủ các nguyên tắc trong
TTHS. Đó là nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân;
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật;
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
nguyên tắc suy đoán vô tội; nguyên tắc Thẩm phán và HTND xét xử độc lập
48
và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến
hành hoặc người tham gia tố tụng; nguyên tắc tranh tụng; nguyên tắc bảo đảm
sự kiểm tra, giám sát trong hệ thống từng cơ quan tố tụng và kiểm soát lẫn
nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng Những nguyên tắc trong TTHS là
những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, làm nền tảng cho hoạt động xét xử. Trên
cơ sơ thực hiện tốt các nguyên tắc trong tố tụngTòa án với tư cách là cơ quan
tài phán mới có đủ điều kiện để xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo
đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND nhằm khẳng định địa vị pháp lý của bị cáo, minh bạch hóa
các quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử.
Trong nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm quyền con người trong
đó có quyền của bị cáo luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Mục tiêu của
các chủ trương, chính sách, pháp luật về cải cách tư pháp gần đây đều hướng
đến kiện toàn, xây dựng và nâng cao chất lượng giai đoạn xét xử của Tòa án.
Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
của TAND cấp huyện nhằm khẳng định địa vị pháp lý của bị cáo, minh bạch
hóa các quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động xét xử vì tại phiên tòa
bị cáo có các điều kiện pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
liên quan đến vụ án, không bị hạn chế về thời gian trình bày ý kiến của mình
về vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự. Bị cáo có quyền bình đẳng với
các chủ thể khác.Đặc biệt, người bào chữa cho bị cáo có quyền bình đẳng với
KSV, người thay mặt Nhà nước buộc tội bị cáo trong việc đưa ra chứng cứ và
đưa ra yêu cầu tranh luận tại phiên tòa. HĐXX mới có điều kiện cân nhắc,
xem xét để ra đúng đắn, khách quan và đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Bản án và quyết định của TAND
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự bảo đảm nguyên tắc khách
quan khi đánh giá sự việc, không thiên lệch. Trường hợp một bản án, quyết
49
định TAND sai thẩm quyền thường dẫn đến nhiều hậu quả xấu cho bị cáo, vi
phạm các quyền tự do dân chủ của công dân.
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND nhằm hạn chế sự vi phạm trong quá trình áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo.
Trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, bị cáo được coi là người có vị
trí trung tâm và cũng có đủ các quyền của con người với tư cách là cá nhân,
công dân. Tuy nhiên, để thực hiện chức năng đấu tranh, phòng chống tội
phạm có hiệu quả và căn cứ trên các dấu hiệu cấu thành tội phạm, pháp luật
quy định cần thiết phải áp dụng những biện pháp cưỡng chế tố tụng đối với bị
cáo. Điều này đồng nghĩa với việc bị cáo có thể bị hạn chế một số quyền.
Không chỉ là việc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự,
mà trước đó, trong giai đoạn khởi tố, điều tra, với tư cách là người bị tạm giữ,
bị can, các quyền của bị cáo có thể đã có “nguy cơ” bị xâm phạm nhiều nhất.
Do vậy, cần phải có những biện pháp bảo vệ vừa phòng ngừa những vi phạm
pháp luật từ các cơ quan tố tụng và những người tiến hành tố tụng vừa bảo
đảm cho bị cáo thực hiện quyền của họ.
Tiểu kết Chƣơng 1
Trong thế giới phát triển đa chiều như hiện nay thì vấn đề quyền con
người luôn là trung tâm chi phối các hoạt động của mọi quốc gia. Nó mang
tính phổ biến chung của nhân loại. Các quốc gia đã hiện thực hóa và phản ánh
vào các quy phạm pháp của quốc gia mình để tạo cơ chế bảo đảm để quyền
con người được thực thi trên thực tế. Ở Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, đã được ghi
nhận trong toàn bộ hệ thống pháp luật, đặc biệt đối với các quy định pháp
trong TTHS mà mấu chốt thực hiện các quyền này đối với bị cáo ở giai đoạn
50
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự hiện nay. Để có cơ sở nghiên cứu quy định
của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về quyền của bị cáo và việc thực hiện
quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong chương
này của luận văn, tác giả đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền
của bị cáo trên cơ sở làm rõ các khái niệm khác có liên quan như: quyền, quyền
con người, quyền công dân. Từ việc nghiên cứu những khái niệm này trên
phương diện ngôn ngữ học tác giả đi đến định nghĩa về quyền của bị cáo trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; nêu và phân tích ý nghĩa của việc quy
định và thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định theo hướng mở rộng quyền
của bị cáo trong giai đoạn xét xử, có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xét xử.
Để bảo đảm quyền của bị cáo, hai giai đoạn là trước khi mở phiên tòa
và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng cần thực hiện các nội dung
theo từng giai đoạn xét xử: giai đoạn trước khi mở phiên tòa (để bảo đảm
quyền của bị cáo, các chủ thể có trách nhiệm phải thực hiện các hoạt động
sau: gửi các quyết định tố tụng cho bị cáo; lập kế hoạch xét hỏi sau khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử; tiến hành các công việc chuẩn bị mở phiên
tòa; giải quyết các yêu cầu của bị cáo ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa sơ
thẩm các vụ án hình sự của TAND.
Hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong việc để bị cáo thực hiện các
quyền của mình. Bởi lẽ, khi nhận được các quyết định tố tụng này bị cáo bắt
đầu bước sang một giai đoạn khác trong vòng quay tố tụng). Ở giai đoạn tại
phiên tòa (Các chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bao gồm Chánh án,
Thẩm phán, Chủ tọa phiên, HTND, Thư ký tòa án, Viện kiểm sát, KSV, Luật
sư bào chữa cho bị cáo và các chủ thể có liên quan. Để bảo đảm quyền của bị
cáo, giai đoạn này các chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật tương
ứng với mỗi giai đoạn tố tụng).
51
Chƣơng 2:
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ
XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng quyền của bị cáo trong giai đoạn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quyen_cua_bi_cao_trong_giai_doan_xet_xu_so_tham_vu.pdf