Trong những năm gần đây, Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ pháp lý. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/QĐ-TTg về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách, Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg ngày 20 tháng 7 năm 2007 về chính sách hỗ trợ các dịch vụ cải thiện và năng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật thuộc Chương trình 135 giai đoạn II. Cùng với việc thành lập các quỹ hỗ trợ pháp lý là hoạt động của các trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí do Sở Tư pháp quản lý, chỉ đạo thực hiện. Đến nay thì hoạt động này đã được mở rộng ra tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp như Hội Luật gia, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân.
82 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4511 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thể đưa ra yêu cầu chống lại cả nguyên đơn, bị đơn. Đây là một hạn chế của pháp luật, do vậy cần mở rộng hơn quyền phản tố của bị đơn đối với yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2.2. Các quy định pháp luật về bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự
2.2.1. Các quy định về điều kiện khởi kiện vụ án dân sự và vấn đề bảo đảm quyền khởi kiện
2.2.1.1 Điều kiện về tư cách pháp lý
Để xác định tư cách pháp lý của một chủ thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể đó phải có lợi ích cần bảo vệ. Nói cách khác, nếu không có lợi ích thì không có tư cách khởi kiện. Pháp luật cũng đòi hỏi nguyên đơn khi khởi kiện vụ án dân sự phải là người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm (Điều 161 BLTTDS).
Quyền khởi kiện hiểu theo nghĩa rộng còn bao gồm cả việc khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự. Để việc thực hiện quyền của đương sự này không làm ảnh hưởng hoặc gây cản trở đến quyền của các đương sự khác, pháp luật đã quy định những điều kiện nhất định để quyền khởi kiện, quyền phản tố, quyền đưa ra yêu cầu độc lập:
* Đối với nguyên đơn, Khoản 2, Điều 56 BLTTDS quy định: “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức do bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm hại. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách cũng là nguyên đơn”.
Để trở thành nguyên đơn thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải đáp ứng những yêu cầu sau:
- Một là, để có tư cách nguyên đơn trong vụ án dân sự, về nguyên tắc các chủ thể này phải là một bên chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Chủ thể không có quyền lợi chỉ được coi là nguyên đơn trong trường hợp đặc biệt khi họ khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
Hai là, họ là người cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình đang bị tranh chấp hoặc bị xâm hại.
Ba là, để có thể tự mình thực hiện việc khởi kiện với tư cách là nguyên đơn họ phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Trường hợp cá nhân không có năng lực hành vi TTDS thì việc khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của họ do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
* Đối với bị đơn thì quyền phản tố của họ chỉ được chấp nhận khi thoả mãn các điều kiện luật định. Theo quy định tại Điều 176 BLTTDS thì yêu cầu này được thực hiện “Cùng với việc phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện” và yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn;
- Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;
- Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
* Đối với yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, theo quy định tại khoản 4, Điều 56 BLTTDS thì “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Toà án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Như vậy, việc tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác và được Tòa án chấp nhận đưa vào tham gia tố tụng dân sự.
* Việc khởi kiện có thể được thực hiện thông qua người đại diện: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền nghĩa vụ liên quan đều có thể thực hiện quyền khởi kiện, quyền phản tố hoặc quyền có yêu cầu độc lập thông qua người đại diện hợp pháp. Đối với những cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng dân sự như người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì khi lợi ích bị xâm phạm hoặc tranh chấp thì việc thực hiện quyền này phải do người đại diện của họ thay mặt thực hiện. Đối với đương sự có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì việc khởi kiện có thể do họ thực hiện trực tiếp hoặc thông qua người đại diện được ủy quyền.
2.2.1.2. Điều kiện về thẩm quyền
Tòa án chỉ thụ lý vụ án dân sự đối với các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các điều 25, 27, 29, 31 BLTTDS. Ngoài ra, khi thụ lý vụ án, Toà án cũng xem xét vụ án đó có thuộc thẩm quyền của mình theo cấp và theo lãnh thổ hay không.
Việc xác định và quy định cụ thể, rõ ràng những tranh chấp thuộc thẩm quyền dân sự của Toà án và xây dựng các tiêu chí trong luật thực định nhằm phân định rạch ròi giữa thẩm quyền sơ thẩm của Toà án các cấp và các Toà án cùng cấp là cơ sở quan trọng để bảo đảm quyền khởi kiện. Một mặt, quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự trong việc chủ động xác định Toà án có thẩm quyền để thực hiện việc khởi kiện của mình. Mặt khác, là cơ sở để xác định trách nhiệm của Toà án trong việc thụ lý vụ án, tránh việc từ chối thụ lý thiếu căn cứ hoặc đùn đẩy thụ lý vụ án vì lý do thẩm quyền.
Ngoài ra, trong một số trường hợp pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã ghi nhận quyền của đương sự trong việc thoả thuận hoặc lựa chọn Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Việc BLTTDS ghi nhận các bên tranh chấp được quyền thỏa thuận, lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp trong một số trường hợp nhất định đã tạo điều kiện cho các bên chủ động thực hiện tốt hơn việc khởi kiện của mình. Trong trường hợp nhiều Tòa án đều có điều kiện giải quyết một vụ việc dân sự thì pháp luật hiện hành đã tạo điều kiện cho nguyên đơn có quyền lựa chọn một trong các Tòa án mà họ cho là phù hợp nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 36 BLTTDS). Đây là quy định tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện tốt quyền đi kiện của mình, bảo đảm quyền khởi kiện của công dân.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở Chương 1 thì có một số trường hợp nhất định pháp luật cũng đặt ra những điều kiện tiên quyết về sự việc phải được một cơ quan, tổ chức nào đó hoà giải trước khi khởi kiện ra Toà án. Quy định này chỉ được coi là không cản trở quyền khởi kiện của chủ thể nếu có những lý do hợp lý để có thể chấp nhận.
Theo quy định hiện hành thì đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra phải được tiến hành trên cơ sở thương lượng nếu đương sự không đồng ý với quyết định bồi thường thì mới có quyền khởi kiện ra Tòa án. Đối với các tranh chấp lao động thì trước hết các tranh chấp này phải được giải quyết thông qua hòa giải tại Hội đồng hoà giải lao động hoặc hoà giải viên lao động, trừ một số trường hợp đặc biệt được quy định tại Điều 31 BLTTDS. Về cơ bản các quy định này có những cơ sở là bảo đảm uy tín của cơ quan tư pháp, vì lợi ích lâu dài của người lao động hay bảo đảm cho Toà án không quá tải về công việc như đã lập luận tại Chương 1. Đây có thể coi như lý do chính đáng để quyền khởi kiện của đương sự có thể bị giới hạn.
Riêng đối với các tranh chấp về quyền sử dụng đất thì Theo Khoản 1 Điều 135 Luật đất đai 2003 thì “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở”. Như vậy, theo quy định này thì Nhà nước khuyến khích giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở chứ không coi hoà giải cơ sở là thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện ra Toà án. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao thì mọi tranh chấp đất đai đều phải qua thủ tục hoà giải tại UBND xã, phường trước khi khởi kiện ra Toà án. Toà án chỉ thụ lý các tranh chấp về quyền sử dụng đất đã được hòa giải tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nhưng đương sự không thoả thuận được. Hướng dẫn này không hợp lý và trong nhiều trường hợp không bảo đảm quyền khởi kiện, hạn chế quyền tiếp cận công lý của công dân.
2.2.1.3. Quy định ngoại lệ về điều kiện về sự việc chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án
Điều 168 BLTTDS quy định nếu một vụ án đã được Tòa án của Việt Nam giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không được khởi kiện lại đối với vụ án đó nữa. Quy định này dựa trên cơ sở đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định, sự ổn định của các quan hệ xã hội, một việc đã được giải quyết thì không giải quyết lại nữa để tránh tình trạng chồng chéo cùng một vụ việc mà nhiều cơ quan giải quyết và tránh việc kiện tụng kéo dài. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự Điều 168 BLTTDS cũng quy định những ngoại lệ mà đương sự có quyền khởi kiện. Đó là các trường hợp sau đây:
- Bản án, quyết định của Tòa án bác đơn xin ly hôn.
- Yêu cầu xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại.
- Vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
Ngoài ra, trường hợp Tòa án còn ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c, e, g khoản 1 Điều 192 BLTTDS: người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó thì đương sự được quyền khởi kiện lại.
2.2.1.4. Một số quy định ngoại lệ về điều kiện thời hiệu khởi kiện
Theo Điều 159 BLTTDS, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà các chủ thể có quyền khởi kiện được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Hết thời hạn đó thì các chủ thể mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Lý do pháp luật quy định về điều kiện thời hiệu khởi kiện đã được phân tích tại Chương 1 của Luận văn. Tùy thuộc vào tính chất của mỗi loại tranh chấp mà pháp luật nội dung quy định thời hiệu khởi kiện là khác nhau. Theo các quy định hiện hành thì thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp về thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế; thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại là ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế (Điều 645 BLDS 2005); thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp thương mại là 2 năm (Điều 319 LTM 2005). Ngoài ra, thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp lao động tuỳ theo trường hợp là một năm; ba năm hoặc sáu tháng.
Theo quy định của Điều 160 BLTTDS thì pháp luật hiện hành đã có cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện thông qua việc ghi nhận ngoại lệ về thời hiệu khởi kiện: bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện, không hạn chế thời hiệu khởi kiện.
Về khoảng thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện: Trên thực tế có nhiều nguyên nhân khách quan mà việc khởi kiện không được thực hiện trong thời hạn quy định. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này, bảo đảm quyền khởi kiện của họ pháp luật đã quy định không tính vào thời hiệu khởi kiện khoảng thời gian xảy ra các sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan; người khởi kiện chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà chưa có người đại diện; người đại diện bị chết mà chưa có người thay thế hoặc vì những lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện (Điều 161 BLDS).
Về các trường hợp bắt đầu lại thời hiệu: Điều 162 BLDS 2005 quy định về các trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, theo đó, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp: Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; Các bên đã tự hòa giải với nhau. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại, kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra một trong những sự kiện nói trên.
Về các trường hợp không hạn chế về thời hiệu khởi kiện: Theo quy định tại Điều 160 BLDS năm 2005 thì riêng đối với quyền yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
2.2.2. Các quy định nhằm bảo đảm cho đương sự thực hiện có hiệu quả quyền khởi kiện
2.2.2.1. Các quy định nhằm hỗ trợ đương sự khi khởi kiện
- Quy định về quyền nhờ người bảo vệ quyền lợi, quyền được trợ giúp pháp lý
Khi tham gia tố tụng các đương sự đều mong muốn bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau trên thực tế không phải bao giờ đương sự cũng tự thực hiện được đầy đủ các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự nên kết quả bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án không tránh khỏi bị hạn chế. Khi bàn về vấn đề này các nhà chuyên môn cho rằng: “Ở Việt Nam, các đương sự ít có khả năng tự bảo vệ, hiểu biết pháp luật còn hạn chế” [54, tr. 221]. Do đó, để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, trong nhiều trường hợp đương sự rất cần thiết sự giúp đỡ, hỗ trợ tham gia tố tụng của các cá nhân, tổ chức khác.
Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS thì “Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại BLTTDS. Theo đó, đương sự có quyền nhờ người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Quy định này bảo đảm cho việc hỗ trợ người dân dễ dàng tiếp cận với công lý. Bởi vì, không phải ai khi tham gia tố tụng đều hiểu biết về pháp luật để tự bảo vệ lấy quyền lợi của mình, nhất là trong điều kiện hệ thống pháp luật của chúng ta tương đối phức tạp và thiếu hoàn chỉnh, các văn bản pháp luật với số lượng khổng lồ, quy định chồng chéo. Do đó, nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện để giúp đỡ họ về mặt pháp lý là điều hết sức cần thiết. Sự ghi nhận quyền nhờ người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự còn có tác dụng làm cho các cán bộ Tòa án thận trọng, khách quan, tôn trọng pháp luật hơn.
Ngoài ra, đối với những đương sự là người nghèo, thuộc đối tượng chính sách thì việc ghi nhận quyền được tư vấn, trợ giúp miễn phí trong việc thực hiện quyền khởi kiện cũng là một bảo đảm quan trọng để thực hiện quyền này. Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho một số đối tượng không có khả năng tài chính để tiếp cận các dịch vụ pháp lý có thu phí, giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý thường là người nghèo và các đối tượng yếu thế khác. Ở Việt Nam, hệ thống các cơ quan trợ giúp pháp lý được thành lập từ năm 1997 theo Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 06 tháng 9 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ. Luật Trợ giúp pháp lý đã được Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006. Theo đó, người được trợ giúp pháp lý, bao gồm người nghèo; người có công với cách mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Trong những năm gần đây, Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ pháp lý. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/QĐ-TTg về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách, Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg ngày 20 tháng 7 năm 2007 về chính sách hỗ trợ các dịch vụ cải thiện và năng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật thuộc Chương trình 135 giai đoạn II. Cùng với việc thành lập các quỹ hỗ trợ pháp lý là hoạt động của các trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí do Sở Tư pháp quản lý, chỉ đạo thực hiện. Đến nay thì hoạt động này đã được mở rộng ra tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp như Hội Luật gia, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân.
Các Trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thực thi quyền khởi cho các đương sự người nghèo và đối tượng chính sách thông qua việc tư vấn miễn phí về điều kiện, thủ tục khởi kiện, chứng cứ, tài liệu cần chuẩn bị để xuất trình khi khởi kiện. Công tác tư vấn này, một mặt hỗ trợ cho người dân có thể thuận lợi, nhanh chóng thực hiện việc khởi kiện bảo vệ quyền lợi của mình, mặt khác tránh được nhiều trường hợp đương sự không thực hiện được quyền khởi kiện do không biết quy định về điều kiện thời hiệu khởi kiện hoặc không biết cơ quan nào có thẩm quyền nên nộp đơn không đúng dẫn tới khi Toà án nhận đơn khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện đã hết.
- Quy định về đơn kiện và chứng cứ, tài liệu nộp kèm theo đơn kiện
Đơn kiện là văn bản của người khởi kiện chủ động đưa việc tranh chấp ra Tòa án giải quyết. Đơn khởi kiện phải đủ những nội dung cần thiết để Toà án có thể quyết định việc thụ lý hay không thụ lý vụ án.
Theo quy định tại Điều 162 BLTTDS thì đơn kiện gồm những nội dung cụ thể sau: Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; tên Tòa án nhận đơn khởi kiện; tên địa chỉ của người khởi kiện; tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích cần được bảo vệ, nếu có; tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nếu có; họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có. Đơn khởi kiện phải trình bày cụ thể nội dung tranh chấp, quyền và lợi ích bị xâm phạm; yêu cầu Tòa án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về những vấn đề gì; các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án; tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn.
Theo Điều 165 BLTTDS, người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người có quyền khởi kiện và yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, như đã phân tích tại Chương 1 thì để bảo đảm quyền khởi kiện, các chứng cứ, tài liệu bắt buộc phải nộp kèm theo đơn kiện chỉ dừng lại ở những chứng cứ, tài liệu đủ để xác định điều kiện thụ lý vụ án. Do vậy, quy định tại Điều 162, Điều 165 về vấn đề này là chưa bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự.
Tuy nhiên, để khắc phục bất cập này Mục 5 Phần I Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC đã có hướng dẫn theo hướng trong trường hợp vì lý do khách quan họ không thể nộp đầy đủ ngay các tài liệu, chứng cứ thì họ chỉ phải nộp các tài liệu chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu, chứng cứ khác họ phải tự mình nộp trong quá trình giải quyết vụ án. Các tài liệu, chứng cứ phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tùy từng loại tranh chấp cụ thể được xác định như sau:
+ Đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, là giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, bản sao giấy khai sinh của các con; chứng cứ, giấy tờ chứng minh tài sản thuộc sở hữu chung của các con; chứng cứ, giấy tờ chứng minh tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng hoặc tài sản thuộc sở hữu của từng người; các chứng cứ, tài liệu chứng minh mâu thuẫn giữa vợ chồng và các tài liệu khác nếu xét thấy cần thiết
+ Đối với các tranh chấp về hợp đồng, là bản sao hợp đồng đã giao kết có tranh chấp hoặc các chứng cứ, tài liệu chứng minh việc giao kết hợp đồng giữa các bên; các chứng cứ, tài liệu thể hiện quá trình thực hiện hợp đồng như hóa đơn thanh toán tiền, nhận tài sản, biên bản thanh lý và các chứng cứ khác có liên quan.
+ Đối với tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là các chứng cứ, tài liệu chứng minh có hành vi vi phạm pháp luật, có thiệt hại xảy ra, thiệt hại là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm pháp luật; lỗi của người gây ra thiệt hại; bảng kê những thiệt hại xảy ra và các hóa đơn, chứng từ chỉ việc sửa chữa, khắc phục thiệt hại và các giấy tờ tài liệu khác.
+ Đối với các tranh chấp về thừa kế là giấy chứng từ của người để lại di sản; bảng kê di sản và các giấy tờ chứng minh sở hữu của người để lại tài sản; di chúc (nếu có); giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn, hộ khẩu, giấy giao nhận nuôi con nuôi để xác định hàng thừa kế, diện thừa kế…
+ Đối với các tranh chấp về lao động là những tài liệu như hợp đồng lao động, các giấy tờ chứng minh tranh chấp xảy ra và việc hòa giải tại cơ sở…
Như vậy, các quy định hướng dẫn cụ thể về đơn kiện và chứng cứ tài liệu nộp kèm theo đơn kiện sẽ thuận lợi cho đương sự trong việc chuẩn bị việc kiện cũng như các chứng cứ, tài liệu cần thiết, giúp cho Tòa án có thể nhanh chóng xem xét thụ lý vụ án, tránh được việc trả lại đơn kiện một cách không đáng có.
- Quy định về miễn, giảm tiền tạm ứng án phí, án phí
Theo phân tích tại Chương 1 thì miễn giảm tiền tạm ứng án phí, án phí thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân đều có thể tiếp cận công lý, hạn chế các trường hợp vì lý do tài chính mà Tòa án không thụ lý vụ án, làm cho quyền lợi hợp pháp của người dân không được đảm bảo, quyền khởi kiện không thể thực hiện trên thực tế. Điều 134 BLTTDS và Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 đã có những quy định về vấn đề này.
Điều 10 Pháp lệnh nói trên quy định những trường hợp không phải nộp tạm ứng án phí, án phí bao gồm: Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước...Điều 11 Pháp lệnh cũng quy định những trường hợp đương sự được miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí, án phí: Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; Cá nhân, hộ gia đình thuộc diện nghèo theo quy định của Chính phủ; Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.
Người có khó khăn về kinh tế được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc xác nhận, thì được Tòa án cho miễn nộp một phần tiền tạm ứng án phí, án phí (Khoản 1 – Điều 14 Pháp lệnh).
2.2.2.2. Các quy định về bảo đảm quyền khởi kiện sau khi nguyên đơn đã thực hiện việc khởi kiện
- Quy định về quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện và quyền phản tố của bị đơn, quyền đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
+ Quy định về quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu thuộc quyền tự định đoạt của đương sự. Tại Điều 5 BLTTDS quy định đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu trong quá trình giải quyết VADS. Theo đó, nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình. Đây là quy định nhằm giúp nguyên đơn khắc phục trường hợp đưa ra yêu cầu không đầy đủ, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên đơn tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Để bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự pháp luật không quy định hạn chế việc thay đổi, bổ sung của đương sự. Tuy nhiên, để tránh trường hợp nguyên đơn lạm dụng việc thực hiện quyền này gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết VADS và gây khó khăn cho các đương sự khác trong việc tham gia tố tụng, pháp luật tố tụng dân sự cũng quy định những điều kiện nhất định cho việc thay đổi, bổ sung này. Theo đó, Điều 218 BLTTDS quy định việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm không được vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện.
Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC đã hướng dẫn quy định tại Điều 218 BLTTDS theo hướng “Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Hướng dẫn này dường như không bảo đảm và hạn chế một cách quá đáng quyền bổ sung yêu cầu của đương sự. Do vậy, theo chúng tôi cần phải mở rộng hơn quyền này theo hướng việc bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà được chấp nhận nếu không vượt quá quan hệ pháp luật tranh chấp hay không làm phát sinh một quan hệ pháp luật mới cần phải giải quyết.
- Quy định về quyền phản tố của bị đơn, quyền đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Theo quy định tại Điều 175, 176 BLTTDS thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, cùng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam.doc