Luận văn Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 3

1.1. Quan niệm về phá sản 3

1.1.1. Quan niệm về phá sản theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. 3

1.1.2. Quan niệm về phá sản theo pháp luật Việt Nam. 5

1.2. Sự tác động của phá sản và vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường. 10

1.2.1. Sự tác động của phá sản trong nền kinh tế thị trường. 10

1.2.2. Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường. 13

1.3. Các cơ quan tham gia quá trình giải quyết phá sản. 18

1.3.1. Vai trò trung tâm của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết phá sản. 18

1.3.2. Sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết phá sản. 21

CHƯƠNG II. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN 23

2.1. Giai đoạn nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản. 23

2.1.1. Giai đoạn nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. 23

2.1.2. Giai đoạn mở thủ tục phá sản. 29

2.1.3. Giai đoạn tổ chức Hội nghị chủ nợ. 35

2.2. Giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh. 38

2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ. 38

2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của con nợ. 41

2.3. Giai đoạn thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ. 43

2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ. 43

2.3.2. Quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của con nợ. 44

2.4. Giai đoạn tuyên bố phá sản. 44

CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI CÓ HIỆU QUẢ LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 46

3.1. Thực trạng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. 46

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi có hiệu quả Luật phá sản năm 2004. 50

KẾT LUẬN 58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6433 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uy định như vậy là hợp lý vì chủ nợ có bảo đảm một phần vẫn còn có quyền yêu cầu DN, HTX (con nợ) trả nốt phần không có bảo đảm. Luật phá sản đã không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp đơn, họ bị hạn chế quyền này bởi chính sự thỏa thuận về việc xử lý giá trị tài sản bảo đảm. Bản thân số nợ của chủ nợ này đã được bảo đảm bằng tài sản của DN, HTX hoặc của người thứ ba. Chính vì vậy, trong mọi trường hợp lợi ích của chủ nợ có bảo đảm cũng luôn được bảo vệ, nên việc quy định cho họ có quyền nộp đơn là không cần thiết Theo Ths. Vũ Hồng Vân, tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005(số 21), tr9. . Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là thủ tục bắt buộc đầu tiên của trình tự giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là căn cứ để Tòa án có ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX đó hay không. Theo quy đinh tại Điều 7 Luật PSDN (1993), khoản 3 Điều 10 Nghị định 189 thì các chủ nợ gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, kèm theo đơn phải có các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định này là một trở ngại lớn đối với chủ nợ nếu muốn nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản. Muốn chứng minh một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì phải có đầy đủ giấy tờ về tổng số nợ đến hạn của doanh nghiệp, giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, tình hình kinh doanh . . . trong khi đó chủ nợ nộp đơn chỉ có thể có giấy tờ liên quan đến các khoản nợ của mình, việc tiếp cận và có được các giấy tờ liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp mắc nợ là rất khó vì chế độ kê khai sổ sách kế toán, kiểm toán . . . còn chưa được công khai, nhiều doanh nghiệp đã làm ba loại sổ kế toán, một cho doanh nghiệp, một cho chủ doanh nghiệp và một cho kế toán nên việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh như trong Luật PSDN (1993) là khó có thể thực hiện được. Nhằm khắc phục những hạn chế trên Luật phá sản (2004) đã quy định đơn giản hơn điều kiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và chủ nợ không phải cung cấp cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu chứng minh DN, HTX mất khả năng thanh toán đến hạn khi gửi đơn yêu cầu. Đơn yêu cầu phải được gửi cho tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và phải bao gồm các nội dung theo quy định tại Điều 13 Luật phá sản (2004). Liên quan đến quyền của chủ nợ, Luật phá sản (2004) quy định một loại chủ nợ khá đặc biệt là người lao động với những khoản nợ lương, bảo hiểm xã hội. Về thực chất đối với doanh nghiệp mắc nợ, người lao động là một chủ nợ không có bảo đảm, hàng hóa duy nhất đem ra trao đổi là sức lao động và tiền lương là nguồn sống chính của bản thân và gia đình họ. Do đó, khi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động là một trong những người bị thiệt hại nhiều nhất và thực sự lâm vào cảnh "tứ cố vô thân" Theo Ths. Vũ Hồng Vân, tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005(số 21), tr9. , không có lương, nguy cơ thất nghiệp đe dọa. Chính vì thế, Điều 14 Luật phá sản (2004) đã quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động thông qua người đại diện được cử hoặc đại diện công đoàn. Theo Điều 14 Luật phá sản 2004 quy định: " Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Đại diện cho người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký; đối với doanh nghiệp, hợp tác xã quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải được quá nửa số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành". Luật PSDN (1993) quy định người lao động chỉ có thể thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu khi doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động trong ba tháng liên tiếp, điều kiện này không còn đặt ra trong Luật phá sản (2004). Đây là một điểm tiến bộ của Luật phá sản (2004) trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động. * Nghĩa vụ của con nợ. - Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được coi là một nghĩa vụ của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Con nợ là người đầu tiên hiểu rõ nhất về tình trạng tài chính của  bản thân. Vì vậy, để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của các chủ nợ, con nợ phải có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy mình lâm vào tình trạng phá sản Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, tr107. . Điều 15 Luật phá sản quy định "khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó".  Tuy nhiên, không phải lúc nào "phá sản" cũng là phá sản trung thực. Nhiều trường hợp các doanh nghiệp lạm dụng việc làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thanh toán nợ. Ngược lại, không ít các công ty lâm vào tình trạng phá sản, song họ cũng cố tình không làm đơn yêu cầu giải quyết phá sản cũng sẽ là nguy cơ đe dọa đến sự an toàn về nguồn tài chính của các nhà đầu tư, cho vay . . . Các doanh nghiệp thường không làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản vì họ sợ trước hết là mất uy tín, mất bạn hàng, sau đó là mất thời gian, chi phí tốn kém . . . Thêm nữa, vỡ nợ ẩn chứa rất nhiều dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự; Bộ luật hình sự năm 1999 cũng quy định các tội danh có thể vận dụng để trừng trị người vỡ nợ, người quản trị, điều hành công ty vỡ nợ. Bởi vậy các doanh nghiệp này cũng thường né tránh việc nộp đơn giải quyết phá sản. Ở Việt Nam cũng như một số nước phương Đông, sự thất bại trong kinh doanh, nhất là vỡ nợ, phá sản bị coi là một vết nhơ lớn và mọi người đều muốn tránh, ngay trong bản thân hệ thống pháp luật cũng đặt ra nhiều sự bất lợi mà những doanh nghiệp bị phá sản phải gánh chịu. Do đó, trong thực tiễn các con nợ tự nguyện nộp đơn yêu cầu xin phá sản là điều hiếm khi xảy ra. Điều này, dẫn đến việc các chủ nợ thường đe dọa gửi đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản để ép buộc các con nợ phải thanh toán nợ, song họ thực sự không muốn sử dụng cơ chế phá sản để bảo vệ quyền lợi cho mình. Khi con nợ cam kết thanh toán cho họ thì họ lại rút đơn yêu cầu. Thực tế các doanh nghiệp ở nước ta cũng luôn cố tình tìm cách trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán cũng như nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Họ chỉ nộp đơn khi tình hình tài chính đã thực sự trở nên bi đát, không còn có cơ hội nào để thoát khỏi tình trạng bị phá sản. Đối mặt với hiện tượng này, Luật phá sản (2004) đã ấn định thời hạn mà chủ doanh nghiệp phải nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, nếu không thực hiện họ sẽ phải gánh chịu những chế tài pháp lí nhất định. Theo quy định của Luật phá sản (2004), trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày nhận thấy DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản nếu doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của DN, HTX không thực hiện việc nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm của chủ doanh nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp trong trường hợp này được áp dụng theo quy định tại các văn bản pháp luật về địa vị pháp lý của doanh nghiệp và những văn bản pháp luật liên quan như: điểm b khoản 3 Điều 25 Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 quy định: "Giám đốc bị miễn nhiệm, chấm dứt hoạt động trước thời hạn trong trường hợp để Công ty lâm vào tình trạng phá sản nhưng không nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản" và khoản 6 Điều 43 Luật doanh nghiệp Nhà nước quy định: "Công ty Nhà nước lâm vào tình trạng phá sản mà Tổng giám đốc không nộp đơn yêu cầu phá sản thì bị miễn nhiệm hoặc chấm dứt hợp đồng và chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật; nếu tổng giám đốc không nộp đơn mà Hội đồng quản trị không yêu cầu Tổng giám đốc nộp đơn yêu cầu phá sản thì Chủ tịch Hội đồng quản trị, các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc bị miễn nhiệm hoặc chấm dứt hợp đồng". Quy định mới này sẽ giúp cho các DN, HTX kịp thời làm đơn đến Tòa án để tránh được phá sản hoặc làm giảm bớt được hậu quả của phá sản Theo Ths. Vũ Hồng Vân, tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005(số 21), tr12. . - Nghĩa vụ xuất trình cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu theo yêu cầu của Tòa án Đồng thời với việc quy định quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Luật phá sản cũng quy định rõ nghĩa vụ của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu do pháp luật quy định và theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Quy định như vậy nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng như việc tạo thuận lợi hơn cho Tòa án có đầy đủ các tài liệu cần thiết để ra quyết định thụ lý hay trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Đồng thời những tài liệu này cũng là một trong những căn cứ quan trọng trong việc giải quyết thủ tục phá sản sau này của con nợ. b. Giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu thấy cần sửa đổi đơn, bổ sung tài liệu thì Tòa án yêu cầu người nộp đơn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu của tòa án.  Trường hợp người nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Tòa án phải thông báo cho DN, HTX đó. Tuy nhiên, trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, DN, HTX phải xuất trình cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 4 Điều 15 Luật phá sản. Ngoài ra, nếu con nợ lâm vào tình trạng phá sản là người bảo lãnh cho người khác thì phải thông báo việc mình bị yêu cầu mở thủ tục phá sản cho những người có liên quan trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án. Kết thúc giai đoạn này, theo Điều 24 Luật phá sản (2004) Tòa án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong những trường hợp sau đây: 1. Người nộp đơn không nộp tiền tạm ứng phí phá sản trong thời hạn do Toà án ấn định; 2. Người nộp đơn không có quyền nộp đơn; 3. Có Toà án khác đã mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; 4. Có căn cứ rõ ràng cho thấy việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản do không khách quan gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc có sự gian dối trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản; 5. doanh nghiệp, hợp tác xã chứng minh được mình không lâm vào tình trạng phá sản. Nếu không thuộc các trường hợp trả lại đơn yêu cầu theo Điều 24 Luật phá sản (2004) thì Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, kể từ ngày người nộp đơn xuất trình biên lai nộp tiền tam ứng phí phá sản. Trường hợp người nộp đơn không phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì ngày thụ lý đơn là ngày Tòa án nhận được đơn. 2.1.2. Giai đoạn mở thủ tục phá sản. Sau khi thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, tòa án phải xem xét và ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nếu thấy không đủ căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào tình trạng phá sản thì Tòa án sẽ ra quyết định không mở thủ tục phá sản (Khoản 4 Điều 28). Nếu thấy đủ căn cứ, tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản. Quyết định mở thủ tục phá sản đã đặt ra thủ tục tư pháp đặc biệt làm phát sinh hàng loạt các quyền và nghĩa vụ của các chủ nợ, con nợ và các chủ thể có liên quan. a. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ.  * Quyền và nghĩa vụ gửi giấy đòi nợ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 51 Luật phá sản (2004): "Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ cho Toà án, trong đó nêu cụ thể các khoản nợ, số nợ đến hạn và chưa đến hạn, số nợ có bảo đảm và không có bảo đảm mà doanh nghiệp, hợp tác xã phải trả. Kèm theo giấy đòi nợ là các tài liệu chứng minh về các khoản nợ đó. Hết thời hạn này các chủ nợ không gửi giấy đòi nợ đến Toà án thì được coi là từ bỏ quyền đòi nợ". Ngày cuối cùng đăng báo được hiểu là ngày cuối cùng đăng báo quyết định mở thủ tục phá sản của một trong số các báo kể trên. Trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan không được tính vào thời hạn này. Hết thời hạn này, các chủ nợ không gửi giấy đòi nợ đến Tòa án thì bị coi là từ bỏ quyền đòi nợ. Giấy đòi nợ mà chủ nợ gửi cho Tòa án là căn cứ để Tổ quản lý, thanh lý tài sản lập danh sách chủ nợ và số nợ của các chủ nợ. Quy định này cho thấy tính chất đặc biệt của đòi nợ trong thủ tục phá sản, các chủ nợ không được đòi nợ riêng rẽ mà họ phải đồng loạt gửi giấy đòi nợ (kể cả nợ chưa đến hạn) đến tòa án trong thời hạn luật định (đòi nợ trong thủ tục phá sản mang tính chất đòi nợ tập thể). Hết thời hạn pháp luật quy định, những chủ nợ không gửi giấy đòi nợ của mình đến tòa án thì coi như họ đã khước từ quyền đòi nợ của mình.  Trong thời hạn mười năm ngày, kể từ ngày hết hạn gửi giấy đòi nợ, Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải lập xong danh sách chủ nợ và số nợ. Trong danh sách này phải ghi rõ số nợ của mỗi chủ nợ, trong đó phải định rõ các khoản nợ có bảo đảm, nợ không có bảo đảm, nợ đến hạn, nợ chưa đến hạn. Danh sách chủ nợ phải được niêm yết công khai tại trụ sở Toà án tiến hành thủ tục phá sản và trụ sở chính của DN, HTX trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày niêm yết. Trong thời hạn này, các chủ nợ có quyền khiếu nại với Tòa án về danh sách chủ nợ. trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn mười ngày quy định tại khoản 2 Điều 52 Luật phá sản (2004). * Quyền cử đại diện trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, thẩm phán ra quyết định thành lập tổ quản lí, thanh lí tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Theo Điều 9 Luật phá sản (2004), chủ nợ có quyền cử đại diện của mình tham gia vào Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Một đại diện của chủ nợ tham gia Hôi nghị chủ nợ là tổ chức, cá nhân có số nợ lớn nhất trong số các chủ nợ (Khoản 3 - Điều 15 Nghị định 67/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2006). * Quyền yêu cầu Tòa án ra các quyết định cần thiết nhằm bảo toàn tài sản của con nợ. Nhằm tối đa hóa việc thu hồi tài sản của con nợ, Luật phá sản (2004) đã trao cho chủ nợ quyền được yêu cầu Tòa án ra các quyết định cần thiết nhằm bảo toàn tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Một điểm mới của Luật phá sản (2004) là việc quy định cơ chế bảo toàn tài sản, theo nguyên tắc không làm xấu đi hiện trạng của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Chủ nợ, với tư cách người có quyền lợi gắn với tài sản của DN, HTX có quyền yêu cầu Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết bảo toàn tài sản của DN, HTX, bao gồm: + Chủ nợ không có bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch (tặng, cho động sản và bất động sản; thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn; thực hiện việc thế chấp, cầm cố đối với các khoản nợ . . .) do doanh nghiệp , hợp tác xã thực hiện trong khoảng thời gian 3 tháng trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu (Điều 44). + Chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án đình chỉ thực hiện hợp đồng đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng đó sẽ có lợi hơn cho doanh nghiệp mắc nợ (Điều 45). Yêu cầu phải được lập thành văn bản, trong đó nói rõ căn cứ của việc yêu cầu đình chỉ thực hiện hợp đồng (Điều 46). b. Quyền và nghĩa vụ của con nợ. * Tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh. Theo Luật phá sản (2004) hoạt động kinh doanh sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản vẫn do người quản lý, điều hành đương nhiệm đảm nhiệm nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, tr108. . Việc tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh bình thường cuả DN, HTX nhằm mục đích tạo cơ hội tái tổ chức hoạt động kinh doanh để cứu vớt DN, HTX vượt ra khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Mục tiêu hàng đầu của pháp luật phá sản hiện đại ngày nay của các nước cũng như của Việt Nam đều hướng đến giải pháp phục hồi hoạt động kinh doanh nhằm cứu vớt DN, HTX trước nguy cơ bị phá sản. Bởi vậy, việc tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh bình thường của DN, HTX sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản là điều cần thiết.  Pháp luật phá sản của một số nước không cho phép người quản lí, điều hành đương nhiệm của doanh nghiệp tiếp tục quản lí và điều hành hoạt động kinh doanh sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, công việc này thường được chuyển giao cho chủ thể mới có kĩ năng, có trình độ chuyên môn đảm nhiệm. Luật phá sản của Việt Nam không hoàn toàn tiếp cận theo hướng này mà vẫn cho phép người quản lí và điều hành đương nhiệm của DN, HTX được tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh dưới sự giám sát của thẩm phán và tổ quản lí, thanh lí tài sản. Tuy nhiên, Tòa án có thể ra quyết định cử người khác thực hiện quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của DN, HTX trong trường hợp xét thấy người quản lý của DN, HTX không có khả năng điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn tài sản của DN, HTX. Việc thay thế người quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của DN, HTX chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của Hội nghị chủ nợ (Điều 30 Luật phá sản ). Quy định này là phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tránh sự xáo trộn không cần thiết khi chưa có những chuyên gia hội đủ năng lực và trình độ chuyên môn để có thể chuyên tâm vào việc tổ chức, quản lí và điều hành hoạt động kinh doanh nhằm phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Việc thay thế người quản lí, điều hành hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản chỉ đặt ra khi xét thấy cần thiết theo đề nghị của hội nghị chủ nợ Giáo trình Luật Thương Mại , trường Đại học Luật Hà Nội, tr 338. . Ngoài những hạn chế về quyền tài sản và quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh như vừa nêu trên con nợ còn phải tuân thủ một số nghĩa vụ nhất định, trong số đó, đáng lưu ý nhất là nghĩa vụ chấp hành các quyết định của Tòa án và Hội nghị chủ nợ; nghĩa vụ hợp tác với các chủ thể khác trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản và đặc biệt là nghĩa vụ phải bảo toàn và phát triển khối tài sản của doanh nghiệp. Nhằm bảo toàn tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và các chủ thể có liên quan, Luật phá sản nghiêm cấm DN, HTX thực hiện một số hoạt động hoặc trước khi thực hiện phải được sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán (bị hạn chế khi thực hiện). Các hoạt động của DN, HTX bị cấm thực hiện kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, bao gồm: + Cất giấu, tẩu tán tài sản; + Thanh toán nợ không có bảo đảm; + Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; + Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hoạt động sau đây của DN, HTX phải được sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán trước khi thực hiện: + Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng, cho, cho thuê tài sản; + Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; + Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; + Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; + Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 31 Luật phá sản). * Nghĩa vụ kiểm kê tài sản. Ngoài việc tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh bình thường, con nợ còn có nghĩa vụ kiểm kê tài sản. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải tiến hành kiểm kê tài sản theo bảng kê chi tiết đã nộp cho Tòa án và xác định giá trị các tài sản đó; Thủ tục và thành phần hội đồng kiểm kê phải theo đúng quy định của pháp luật. Nếu DN, HTX thấy cần có thời gian dài hơn để thực hiện nhiệm vụ kể trên thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá ba mươi ngày. Bảng kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị do DN, HTX phải được gửi ngay cho Tòa án tiến hành thủ tục phá sản. Trong trường hợp xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của DN, HTX là không chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của DN, HTX. Giá trị tài sản được xác định theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê. Thành phần hội đồng kiểm kê, định giá phải theo quy định chung. Chi phí kiểm kê định giá được tính vào chi phí phá sản theo quy định chung. Quy định này giúp cho thẩm phán cũng như tổ quản lí, thanh lí tài sản có thể nhanh chóng nắm bắt được một cách chính xác thực trạng tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản và có những giải pháp hợp lí, cần thiết trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Ngoài ra, ngay sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản con nợ phải thông báo công khai cho tất cả nhân viên và người lao động của mình biết. Kể từ khi được thông báo, tất cả nhân viên và người lao động phải có nghĩa vụ bảo vệ tài sản của DN, HTX, không được thực hiện bất cứ hành vi nào nhằm che giấu, tẩu tán hoặc chuyển nhượng tài sản của con nợ. * Quyền khiếu nại. Quyền khiếu nại về danh sách chủ nợ không chỉ dành cho chủ nợ mà còn dành cả cho con nợ. Ngoài ra, trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày niêm yết danh sách người mắc nợ DN, HTX thì con nợ có quyền khiếu nại với Tòa án về danh sách người mắc nợ (Điều 52, Điều 53 Luật phá sản). Luật phá sản quy định trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của tổ quản lí, thanh lí tài sản, thẩm phán phụ trách thủ tục phá sản có quyền quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có quyền khiếu nại với Chánh án Tòa án (Điều 56). 2.1.3. Giai đoạn tổ chức Hội nghị chủ nợ. a. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ. * Quyền tham gia hội nghị chủ nợ và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ. Mục đích cơ bản và quan trọng nhất của thủ tục phá sản là bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Bởi vậy, bất kì pháp luật quốc gia nào cũng giành cho chủ nợ quyền tham gia chủ nợ. Những người có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ bao gồm: + Các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ. Chủ nợ có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia Hội nghị chủ nợ và người được ủy quyền có quyền nghĩa vụ như chủ nợ. + Đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền. Trong trường hợp này đại diện cho người lao động, đại diện cho công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ. + Người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp này họ trở thành chủ nợ không có bảo đảm (Điều 62). Như vậy, thành phần cơ bản tham gia Hội nghị chủ nợ chính là các chủ nợ. Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán triệu tập và chủ trì, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ. Các chủ nợ đại diện cho ít nhất một phần ba tổng số nợ không có bảo đảm có quyền yêu cầu Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ để quyết định các vấn đề liên quan đến chủ nợ, DN, HTX mắc nợ. Hội nghị chủ nợ được tiến hành gồm các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ, đại diện cho người lao động hoặc đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền (Điều 62). Hội nghị chủ nợ được coi là hợp lệ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây (Điều 65 Luật phá sản): + Có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba trở lên tổng số nợ không có bảo đảm tham gia; + Có sự tham gia của những người có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ: "Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản quy định tại các điều 15, 16, 17 và 18 của Luật này có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ; trường hợp không tham gia được thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác tham gia Hội nghị chủ nợ. Người được uỷ quyền có quyền, nghĩa vụ như người uỷ quyền nếu họ tham gia Hội nghị chủ nợ; đối với doanh nghiệp tư nhân mà chủ doanh nghiệp tư nhân đã chết thì người thừa kế hợp pháp của chủ doanh nghiệp đó tham gia Hội nghị chủ nợ." (Khoản 1 Điều 63). Theo quy định của Luật phá sản (2004) thì Hội nghị chủ nợ có quyền quyết định các vấn đề sau: + Thảo luận và thông qua đề xuất các phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh làm cơ sở để Tòa án ra quyết định mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông qua khi được sự chấp thuận của quá nửa (1/2) số chủ nợ không có bảo đảm có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản.doc
Tài liệu liên quan