Tính đến năm 2008, tổng diện tích đất nông nghiệp gieo trồng trong vụ ba là 106,196
ngàn ha chiếm gần 50% tổng diện tích đất nông nghiệp gieo trồng hàng năm, gần 20% tổng diện
tích đất trồng cây hàng năm cả năm, là vụ ba có qui mô gieo trồng lớn nhất từ trước đến nay và
được phân bố ở tất cả 11 huyện, thị, thành trong tỉnh. Một số huyện có diện tích gieo trồng vụ ba
lớn như: Thoại Sơn (30.000 ha), Chợ Mới (30.096 ha), Phú Tân (19.166 ha), Tân Châu (11.151
ha), .
126 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2100 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sản xuất vụ ba với sự phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tập trung tăng mạnh ở vụ Hè Thu và vụ ba, trong đó diện
tích lúa vụ 3 tăng nhanh nhất. Qua đó cho thấy xu thế tăng diện tích lúa vụ ba trên đất có đê bao
kiểm soát lũ triệt để diễn ra khá mạnh, giai đoạn 2003 – 2008 tăng trên 31.423 ha.
Bảng 2.10: Diện tích lúa chia theo vụ qua các năm 2003 - 2008
Năm
Diện tích (ha)
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng (+),
giảm (-)
2008-03 2008-07
1. Lúa cả năm 503.856 523.037 529.698 503.464 520.322 564.425 +60.569 +44.103
2. Lúa Đông Xuân 220.489 220.256 223.316 231.097 230.615 231.654 +11.165 +1.039
3. Lúa Hè Thu 212.097 213.707 214.671 221.901 223.596 230.230 +18.133 +6.634
4. Lúa Mùa 8.272 8.734 8.326 7.314 7.252 8.120 - 152 +868
5. Lúa vụ ba 62.998 80.340 83.385 43.152 58.859 94.421 +31.423 +35.562
“Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang (2008)”
Bảng 2.11: Cơ cấu các vụ lúa của tỉnh An Giang qua các năm 2003 – 2008
(Đơn vị: %)
Năm
Diện tích
2003 2004 2005 2006 2007 2008
1. Lúa cả năm 100 100 100 100 100 100
2. Lúa Đông Xuân 43,76 42,11 42,16 45,90 44,32 41,04
3. Lúa Hè Thu 42,09 40,86 40,53 44,07 42,97 40,79
4. Lúa Mùa 1,64 1,67 1,57 1,45 1,39 1,44
5. Lúa vụ ba 12,51 15,36 15,74 8,58 11,32 16,73
“Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang (2008)”
Hình 2.7 Biểu đồ thể hiện cơ cấu các vụ lúa của tỉnh An Giang qua các
năm 2003 – 2008.
Bảng 2.12: Diện tích lúa vụ ba qua các năm của 05 huyện tiêu biểu
(Đơn vị: ha)
“Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNN tỉnh An Giang, 2008”
Bảng 2.13: Diện tích lúa vụ ba năm 2008 phân theo huyện, thị
(Đơn vị: ha)
Năm
Các huyện, thị
2007 2008
Tăng (+), giảm (-)
2008 - 2007
1. Tp Long Xuyên 100 135 +35
STT Huyện 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng, giảm
2008-2003
01 Tân Châu 4.631 5.165 6.465 3.932 6.355 9.637 +5.006
02 Phú Tân 9.068 11.474 11.573 4.190 11.963 18.658 +9.590
03 Châu Phú 2.766 5.645 6.120 1.913 6.366 9.739 +6.973
04 Chợ Mới 18.574 18.190 18.065 13.278 13.224 16.742 -1.832
05 Thoại Sơn 23.346 33.998 32.433 16.436 15.115 30.565 +7.219
TOÀN
TỈNH
62.998 80.340 83.385 43.152 58.859 94.421
+31.423
Tăng, giảm toàn
tỉnh
= năm so sánh -
2003
+17.342 +20.387 -19.846 -4.139 +31.423
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Vụ ba
Vụ mùa
Hè thu
Đông xuân
Năm
2. TX Châu Đốc 3.530 3.497 - 33
3. An Phú 143 902 +759
4. Tân Châu 6.355 9.637 +3.282
5. Phú Tân 11.963 18.658 +6.695
6. Châu Phú 6.366 9.739 +3.373
7. Tịnh Biên 1.417 2.021 +604
8. Tri Tôn - 130 +130
9. Châu Thành 646 2.395 +1749
10. Chợ Mới 13.224 16.742 +3.518
11. Thoại Sơn 15.115 30.656 +15.541
Toàn tỉnh 58.859 94.421 +35.562
“Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang (2008)”
Xét trên phạm vi từng huyện, thị, thành phố trong tỉnh thì ngoại trừ thị xã Châu Đốc gieo
trồng giảm 33 ha so với năm 2007, nhìn chung tất cả các đơn vị còn lại diện tích gieo trồng đều
tăng, trong đó đáng kể nhất là huyện Thoại Sơn tăng 15.541 ha, Phú Tân tăng 6.695 ha, Chợ Mới,
Châu Phú và Tân Châu mỗi huyện đều tăng trên 3 ngàn ha.
Cùng với việc mở rộng quy mô, chất lượng lúa cũng được nâng lên. Nông dân đã tích
cực sử dụng các giống lúa có năng suất và chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu thị trường, nhất là
thị trường xuất khẩu đã góp phần làm gia tăng năng suất, sản lượng lúa hàng hóa, cũng như thu
nhập trên 1 ha đất canh tác. Riêng tỉ lệ diện tích sử dụng các loại giống đạt tiêu chuẩn xuất khẩu
năm 2008 chiếm 92% diện tích (cùng kì là 82%); trong đó có một số loại giống người dân sử dụng
phổ biến như: OM 1490, Jasnime, OMCS - 2000, IR 64,….
Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất ngày càng được phổ biến và ứng dụng sâu
rộng, đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Trong năm 2008, có hơn 20 ngàn ha lúa được gieo bằng phương pháp sạ hàng; đáng chú ý nhất là
nhận thức về lúa giống và “giống lúa” đã có sự chuyển biến tích cực nên nhu cầu sử dụng lúa giống
chất lượng cao (có khoảng 92% diện tích sử dụng lúa chất lượng cao, 50% sử dụng giống lúa xác
nhận,…). Tuy nhiên, đây chỉ là việc sử dụng các chủng loại giống lúa chất lượng cao, còn các loại
giống này đạt chất lượng cao thì chỉ đạt trên dưới khoảng 50 % (tính đến thời điểm hiện tại nếu so
sánh thị phần gạo chất lượng cao của ta trên thị trường thế giới thì ta bị Thái Lan và các nước trong
khu vực vượt qua mặt và bỏ xa). Chương trình 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm,… ngày càng được
nhân rộng trong nông dân.
Bảng 2.14: Diện tích: DT (ha) – Năng suất: NS (tạ/ha) - Sản lượng lúa: SL (tấn) của vụ ba
qua các năm 2003 - 2008
“Nguồn: Sở
Nông Nghiệp
& PTNN tỉnh
An Giang,
2008”
Tổ
ng sản lượng lúa vụ ba giai
đoạn 2003 – 2008 tăng
229.283 tấn (Bảng 2.14),
nhìn chung do mở rộng diện
tích và năng suất gieo
trồng tăng. Tuy nhiên,
diện tích, năng suất và
sản lượng qua từng năm có
sự biến động tăng giảm
khác nhau: từ năm 2003 đến
năm 2005 ta thấy diện tích, năng suất, sản lượng lúa vụ ba trong giai đoạn này đều tăng. Nguyên
nhân là do các huyện có hệ thống đê bao triệt để được hình thành từ trước năm 2000 như: Chợ Mới,
An Phú đã tiếp tục mở rộng thêm hệ thống đê bao nhằm mở rộng diện tích vụ ba; năm 2006, cả 3
phương diện diện tích, năng suất, sản lượng đều giảm mạnh là do nhiều địa phương nằm trong hệ
thống đê bao đến định kì phải xả lũ (3 năm sản xuất 8 vụ) hoặc chuyển diện tích canh tác lúa vụ ba
sang trồng cây màu; từ năm 2007 đến nay, diện tích, năng suất, sản lượng lúa vụ ba tăng mạnh trở
lại là do nhiều tuyến đê bao mới được xây dựng và mở rộng, nhiều địa phương trong tỉnh trước đây
chỉ sản xuất hai vụ lúa nay tiến hành thâm canh sản xuất 3 vụ. Và do sản xuất lúa vụ ba trên nền đất
chỉ mới được bao đê trong thời gian gần đây nên năng suất lúa vẫn ổn định chưa có chiều hướng
giảm so với vụ Đông Xuân và Hè Thu trước đây.
Bảng 2.15: Tốc độ tăng trưởng diện tích, năng suất, sản lượng lúa vụ ba qua các năm
(Đơn vị: %)
Năm
Hạng mục
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng, giảm
2008 - 2003
Lúa vụ ba DT 62.998 80.340 83.385 43.152 58.859 94.421 +31.423
NS 47,24 49,03 48,71 48,80 58,72 55,80 +8,56
SL 297.573 393.930 406.182 210.571 345.595 526.856 +229.283
Năm Diện tích Năng suất Sản lượng
2003 100 100 100
2004 127,5 103,8 132,4
2005 132,4 103,1 136,5
2006 68,5 103,3 70,8
2007 93,4 124,3 116,1
“Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNN tỉnh An Giang, 2008”
Hình 2.8 Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng diện tích, năng suất, sản lượng lúa vụ ba qua các
năm 2003 – 2008.
b) Cây hoa màu.
2008 149,9 118,1 177,1
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2004 - 2008
2004 - 2008 8,4 3,4 12,1
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Năm
%
Hình 2.9 Lược đồ thể hiện tỉ lệ diện tích trồng màu so với tổng diện tích vụ ba năm 2008
Cùng với cây lúa, cây màu trong vụ ba được gieo trồng phần lớn ở các huyện cù lao như
Chợ Mới, Tân Châu, An Phú, Phú Tân là những vùng có đất đai màu mỡ, hệ thống đê bao khép kín
ít chịu ảnh hưởng của lũ nên rất thuận lợi cho việc phát triển cây màu. Trong những năm gần đây,
giá trị của cây màu tăng nhanh góp phần vào việc đẩy nhanh tiến độ phát triển kinh tế của tỉnh trong
đó nổi bật là huyện Chợ Mới. Tính trong năm 2008 giá trị sản xuất 1 ha màu của huyện đạt 274
triệu, tăng 226 triệu đồng/ha so với cây lúa, điều này cho thấy cây màu ngày càng hấp dẫn đối với
người nông dân.
Trong những năm qua, An Giang chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nhằm phá vỡ thế độc canh cây lúa, tập trung phát triển cây màu để gia tăng giá trị sản xuất
nông nghiệp. Bằng những giải pháp thiết thực, từ năm 2003 đến năm 2008, diện tích cây màu của
tỉnh tăng từ 7.013 ha trong năm 2003, tăng lên đến 11.775 ha trong năm 2008 (tốc độ tăng trưởng
bình quân gần 11%, chiếm 12% tổng diện tích đất nông nghiệp gieo trồng ở vụ ba, tăng 504 ha so
với cùng kì) và đây cũng là diện tích màu cao nhất từ trước đến nay. Trong đó bao gồm: cây hoa
màu lương thực và cây hoa màu thực phẩm.
Bảng 2.16: Diện tích cây hoa màu gieo trồng qua các năm 2003 – 2008
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng (+),
giảm (-)
2008 - 2003
Diện tích (ha) 7.013 8.023 9.212 9.840 11.271 11.775 +4.762
“Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNN tỉnh An Giang, 2008”
Hình 2.10 Biểu đồ thể hiện diện tích gieo trồng cây màu qua các năm 2003 – 2008
7.013
8.023
9.212
9.840
11.271
11.775
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Năm
Ha
* Cây hoa màu lương thực.
Cây hoa màu lương thực gồm 3 cây chính là: bắp, khoai mì, khoai lang và các cây chất
bột khác với tổng diện tích gieo trồng có xu thế tăng từ 1.410 ha năm 2003 tăng lên 2.432 ha năm
2008. Trong đó:
Bảng 2.17: Diện tích cây hoa màu lương thực qua các năm 2003 – 2008
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng (+),
giảm (-)
2008 - 2003
Diện tích (ha) 1.410 1.644 2.121 1.852 2.439 2.432 +1.022
“Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNN tỉnh An Giang, 2008”
- Cây bắp: luôn chiếm tỉ trọng lớn trong diện tích gieo trồng của nhóm cây hoa màu
lương thực và bước đầu đã hình thành vùng sản xuất khá tập trung ở 3 huyện đó là: An Phú, Tân
Châu và Chợ Mới. Năng suất bắp ở An Giang có thể xem là năng suất cao điển hình của cả nước,
bình quân năng suất bắp lai toàn tỉnh đạt 9,4 tấn/ha, cá biệt có hộ đạt từ 10 – 12 tấn/ha. Vì vậy, xu
thế mở rộng diện tích bắp trên chân ruộng 2 lúa – 1 màu hoặc 1 lúa – 2 màu trong vùng kiểm soát lũ
cả năm sẽ mở ra triển vọng to lớn để diện tích bắp của tỉnh tăng nhanh trong những năm tới khi mà
nhu cầu về nguồn nguyên liệu cung cấp cho ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi nước ta
đang phải nhập khẩu và có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây cả về giá và số lượng.
Bảng 2.18: Diện tích (ha) – Năng suất (tạ/ha) - Sản lượng (tấn) của cây Bắp qua các năm
2003 – 2008
Năm
Hạng mục
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng (+),
giảm (-)
2008 - 2003
Bắp trắng DT 789 688 866 921 1.319 1.276 +487
NS 39,2 41,3 43,2 42,3 43,0 43,7 +4,5
SL 309,2 284,1 374,4 389,8 566,8 558,1 +248,9
Bắp lai DT 453 847 1.084 719 902 865 +412
NS 74,8 90,6 89,7 89,4 87,6 88,6 +13,8
SL 339 767,4 972 642,9 790,2 766,3 +427,3
“Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNN tỉnh An Giang, 2008”
Hình 2.11 Biểu đồ kết hợp thể hiện năng suất và sản lượng bắp trắng qua các năm
Hình 2.12 Biểu đồ kết hợp thể hiện năng suất và sản lượng bắp lai qua các năm.
309.2
374.4
566.8
389.8
558.1
284.1
39.2
41.3
43.2
42.3
43.0
43.7
0
100
200
300
400
500
600
2003 2004 2005 2006 2007 2008
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
Sản lượng
Năng suất
SL (tấn) NS (tạ/ha)
339
767.4
972
642.9
790.2
766.3
74.8
90.6 89.7 89.4
87.6 88.6
0
200
400
600
800
1000
1200
2003 2004 2005 2006 2007 2008
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Sản lượng
Năng suất
SL (tấn) NS (tạ/ha)
- Cây khoai mì: Trước đây cây khoai mì được trồng tập trung trên đất triền thuộc khu
vực đồi núi không bị ngập lũ của hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên với qui mô khoảng 1 ngàn ha
(thời kì trước năm 1995). Sau đó được qui hoạch thành vùng nguyên liệu tập trung có qui mô trên 4
ngàn ha, chủ yếu diện tích được mở rộng xuống khu vực đất ruộng có đê bao khép kín thuộc xã
Lương An Trà (Tri Tôn) để làm nguyên liệu cung cấp cho nhà máy tinh bột mì có công suất 1.000
tấn/ngày. Có thể xem đây là một trong những cây đột phá trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh. Tuy nhiên, do khoai mì phần lớn trồng trên đất bị nhiễm
phèn, không được cải tạo (do là vùng trũng mà lại nằm trong đê bao chỉ có thể bơm nước ra vào
mùa mưa lũ, chứ không thể rửa phèn được) nên năng suất thấp: bình quân chỉ đạt 13 – 16 tấn/ha,
trong khi chi phí đầu tư lớn, nên giá thành sản xuất cao, hiệu quả chỉ bằng 0,6 – 0,7 lần so với sản
xuất lúa 2 vụ. Mặt khác, do nhà máy chế biến tinh bột mì Lương An Trà sản xuất không hiệu quả đã
giải thể vào cuối năm 2003, đây là nguyên nhân chủ yếu làm diện tích cây khoai mì công nghiệp
năm 2004 chỉ còn khoảng 199 ha. Đến năm 2008 diện tích trồng cây khoai mì vụ ba chỉ còn khoảng
28 ha được trồng chủ yếu ở hai huyện vùng núi Tri Tôn và Tịnh Biên.
- Cây khoai lang: Diện tích trồng cây khoai lang của tỉnh tuy không lớn nhưng lại có
xu thế tăng từ 35 ha năm 2003 lên 57 ha năm 2008 chủ yếu tập trung tại huyện Chợ Mới. Cây khoai
lang có thể xem là cây luân canh có hiệu quả trên đất phù sa được bồi vùng cù lao như: Chợ Mới,
Phú Tân, Tân Châu hoặc vùng đất cồn Châu Phú cho năng suất cao (23 – 31 tấn/ha), sản phẩm phụ
có thể sử dụng tốt cho chăn nuôi. Vì vậy, cùng với cây bắp hướng phát triển tiếp theo của tỉnh là cần
tiếp nhận, trồng thử nghiệm và nhận rộng các loại khoai lang giống mới, có khả năng chế biến và
xuất khẩu để mở rộng diện tích ở mức độ thích hợp, cũng như quy hoạch lại vùng nguyên liệu để
đáp ứng cho các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi trong và ngoài tỉnh.
Bảng 2.19: Diện tích (ha) – Năng suất (tạ/ha) - Sản lượng (tấn) Khoai lang qua các năm
2003 – 2008.
Năm
Hạng mục
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng (+),
giảm (-)
2008 - 2003
1. Diện tích 35 16 22 23 5 57 +22
2. Năng suất 200,7 230,7 230,8 230,4 240,9 240,8 +40,1
3.Sản lượng 702,5 369 507,8 530 120,5 1.373 +670,5
“Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNN tỉnh An Giang, 2008”
Hình 2.13 Biểu đồ kết hợp thể hiện diện tích và sản lượng khoai lang qua các năm 2003
– 2008.
* Cây hoa màu thực phẩm.
Cây hoa màu thực phẩm được sản xuất ở vụ ba chủ yếu thuộc các nhóm cây rau, dưa, đậu
thực phẩm, bắp non, hành hẹ, đậu các loại,…và cây trồng trong mùa nước nổi như: sen, ấu, rau
nhút, rau muống. Đây là nhóm cây đa dạng hóa và có hiệu quả cao đang được khuyến khích phát
triển thành vùng sản xuất tập trung, nhất là trên nền đất phù sa ven sông Tiền, sông Hậu, gần các
nhà máy chế biến rau quả đông lạnh xuất khẩu và cũng là nhóm cây tạo thêm nhiều việc làm nhất
trong cơ cấu cây trồng, nên diện tích sản xuất không ngừng được tăng nhanh trong những năm gần
đây. Năm 2008, trong tổng số 11.775 ha hoa màu được gieo trồng thì có đến hơn 8,8 ngàn ha rau,
dưa thực phẩm (chiếm hơn 75,4% diện tích), tăng hơn 496 ha so với năm 2007. Các huyện có diện
tích rau, dưa lớn và ổn định là: Chợ Mới, Tân Châu, Châu Phú và Châu Thành.
Bảng 2.20: Diện tích (ha) – Năng suất (tạ/ha) - Sản lượng (tấn) rau, dưa các loại qua các
năm 2003 – 2008.
Năm
Hạng mục
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng (+),
giảm (-)
2008-2003
1. Diện tích 5.145 5.490 6.383 7.143 8.266 8.746 +3.601
2. Năng suất 26,6 24,08 24,58 24,77 23,74 24,02 - 2,58
702.5
369
507.8 530
120.5
1373
200.7
230.7 230.8 230.4
240.9
240.8
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
2003 2004 2005 2006 2007 2008
0
50
100
150
200
250
300
Sản lượng
Năng suất
SL (tấn) NS (tạ/ha)
3.Sản lượng 136.857 132.199 156.909 176.961 196.228 210.071 +73.214
“Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNN tỉnh An Giang, 2008”
Bảng 2.21: Tốc độ tăng trưởng diện tích, năng suất, sản lượng rau, dưa các loại qua các năm.
(Đơn vị: %)
Hình 2.14 Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng diện tích, năng suất, sản lượng rau dưa
các loại
Các loại cây như: bắp non, rau muống, cà chua, dưa leo, bắp cải, bầu bí, hành, hẹ,…Do
có giá cả ổn định, nhu cầu thị trường lớn, đặc biệt trong những năm gần đây khi mạng lưới giao
thông nông thôn ngày càng được hoàn thiện cộng với việc nâng cấp các cửa khẩu Xuân Tô (Tịnh
Biên), Vĩnh Xương, Khánh Bình (An Phú) thành cửa khẩu quốc tế đã tạo điều kiện vô cùng thuận
lợi cho việc giao thương xuất khẩu nông sản hàng hóa từ An Giang qua nước bạn Campuchia. Mở
ra hướng đi, cơ hội mới đầy tiềm năng về một thị trường lớn mà nông sản An Giang có thể phát
Năm Diện tích Năng suất Sản lượng
2003 100 100 100
2004 106,1 90,5 96,6
2005 124 92,4 114,7
2006 138,8 93,1 129,3
2007 160,7 89,2 143,4
2008 170 90,3 153,5
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2004 - 2008
2004 - 2008 11,2 -2,0 8,9
100
170
160.7
138.8
124
106.1
90.389.293.192.490.5
153.5
143.4
129.3
114.7
96.6
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
%
Năm
triển thương hiệu và chiếm lĩnh thị phần, là đòn bẩy quan trọng để năng cao diện tích cây màu trong
cơ cấu nông nghiệp vụ ba hơn nữa. Bởi lẽ, đây là vụ mà nhiều cánh đồng ở ĐBSCL và nước bạn
Campuchia đều chìm trong biển nước khi lũ từ sông MêKông tràn về. Mặt khác, việc đưa cây màu
thực phẩm xuống nền đất lúa không phải bất kì cánh đồng nào tại ĐBSCL cũng có điều kiện tự
nhiên thuận lợi, mà chỉ có thể giới hạn tại những cánh đồng phù sa, nước ngọt quanh năm, không bị
nhiễm phèn ven sông Tiền và sông Hậu như tại An Giang.
Bảng 2.22: Diện tích (ha) - Năng suất (tạ/ha) - Sản lượng (tấn) của một số loại rau, dưa
qua các năm
Năm
Hạng mục
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng (+),
giảm (-)
2008 - 2003
Rau
muống
DT 223 143 211 178 273 306 +83
NS 20,57 25,29 29,43 27,84 28,88 27,12 +6,55
SL 4.588 3.616 6.207 4.955 7.883 8.299 +3.711
Bắp non
DT 228 640 624 967 1.015 954 +726
NS 8,0 9,0 9,9 9,2 9,83 10,0 +2,0
SL 1.824 5.758 6.178 8.896 9.977 9.540 +7.716
Dưa leo
DT 756 560 1.102 1.003 871 1.109 +353
NS 27,07 36,67 33,82 35,63 38,0 32,51 +5,44
SL 20.468 20.535 37.265 35.735 33.096 36.050 +15.582
Bắp cải
DT 236 183 133 194 232 201 - 35
NS 27,62 28,15 37,44 31,97 32,97 29,51 +1,89
SL 6.518 5.152 4.980 6.202 7.649 5.932 - 586
Cải các
loại
DT 917 795 1.414 1.354 2.234 1.762 +845
NS 27,32 34,06 24,62 25,39 22,39 21,93 - 5,39
SL 25.049 27.082 34.806 34.380 50.021 38.638 +13.589
Bầu bí
mướp
DT 507 203 277 472 464 656 +149
NS 28,06 16,12 28,53 31,49 31,92 29,55 +1,49
SL 14.225 3.272 7.901 14.864 14.811 19.386 +5.161
Hành hẹ
DT 599 332 439 794 994 1.318 +719
NS 23,59 18,49 17,15 18,77 19,0 19,47 - 4,12
SL 14.132 6.140 7.531 14.906 18.888 25.663 +11.531
“Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNN tỉnh An Giang, 2008”
Bảng 2.23: Tốc độ tăng truởng diện tích, năng suất, sản lượng của Bắp non qua các
năm (Đơn vị: %)
Hình 2.15 Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng diện tích và sản lượng bắp non qua các
năm.
Bảng 2.24: Tốc độ tăng truởng diện tích, năng suất, sản lượng của Hành hẹ qua các năm
( Đơn vị: %)
Năm Diện tích Năng suất Sản lượng
2003 100 100 100
2004 280,7 112,5 315,6
2005 273,7 123,8 338,7
2006 424,1 115,0 487,7
2007 445,1 122,9 547,0
2008 418,4 125,0 523,0
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2004 - 2008
2004 - 2008 33,0 4,6 39,0
100
418.4
445.1
424.1
273.7280.7
523
547
487.7
338.7
315.6
0
100
200
300
400
500
600
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Diện tích
Sản lượng
Năm
%
Hình 2.16 Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng diện tích và sản lượng cây hành hẹ qua
các năm
- Cây đậu các loại và các cây công nghiệp ngắn ngày như: đậu nành, đậu xanh, đậu
phọng, mè,…trong đó cây đậu các loại là cây truyền thống có diện tích gieo trồng luôn chiếm tỉ
trọng cao trong nhóm cây công nghiệp hàng năm (80 – 90%) và được trồng tập trung tại các huyện
cù lao (chiếm 82 – 97%) năng suất khá cao, bình quân từ 1,7 – 1.9 tấn /ha. Trong đó, cây đậu nành
cho năng suất bình quân khá cao từ 2,3 – 2,7 tấn/ha, cao gấp 1,5 lần năng suất đậu nành ở Đồng
2003 100 100 100
2004 55,4 78,4 43,4
2005 73,3 72,7 53,3
2006 132,6 79,6 105,5
2007 165,9 80,5 133,7
2008 220,0 82,5 181,6
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2004 - 2008
2004 - 2008 17,1 -3,8 12,7
100
165.9
132.6
73.3
55.4
220
133.7
105.5
53.3
43.4
181.6
0
50
100
150
200
250
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Diện tích
Sản lượng
Năm
%
Tháp, và gấp 2 lần so với năng suất đậu nành tại vùng Đông Nam Bộ. Cây họ đậu nói chung và cây
đậu nành nói riêng là một trong những cây mà Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn đang
khuyến cáo cần phải phát triển, đặc biệt là sản xuất xen canh với cây lúa trong môi trường canh tác
3 vụ/năm như tại An Giang nhằm cải tạo và nâng cao chất hữu cơ trong đất, bảo vệ môi trường đất
không bị suy thoái, tiến đến một nền nông nghiệp bền vững.
Tuy nhiên, do hiện nay trên địa bàn tỉnh trừ huyện Chợ Mới (là huyện có hệ thống đê bao
khép kín đầu tiên và là huyện có tốc độ chuyển đổi cơ cấu cây trồng mạnh nhất tỉnh), các huyện, thị
còn lại có hệ thồng đê bao triệt để chỉ mới hoàn thành trong vài năm trở lại đây, nên việc chuyển đổi
cơ cấu cây trồng còn chậm, chưa quy hoạch được vùng nguyên liệu sản xuất tập trung cho ngành
công nghiệp chế biến. Vì thế, mặc dù là cây trồng cho năng suất cao, sản xuất có hiệu quả kinh tế
lớn, nhưng bà con nông dân không dám mạnh dạn đầu tư mở rộng diện tích sản xuất do ngại thị
trường đầu ra thiếu ổn định, cho nên diện tích sản xuất các cây họ đậu ở vụ ba nói riêng và cả năm
nói chung qua các năm trong tỉnh thường tăng, giảm thất thường, thiếu ổn định. [4], [15], [16], [17]
Bảng 2.25: Diện tích (ha) – Năng suất (tạ/ha) - Sản lượng (tấn) cây đậu các loại qua các
năm.
“Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNN tỉnh An Giang, 2008”
Năm
Hạng mục
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tăng (+), giảm (-)
2008-2003
Đậu nành
DT 183 161 109 84 23 30 - 153
NS 25,1 27,9 22,9 23,6 27 27,7 +2,6
SL 460 449 250 198 62 83 - 377
Đậu xanh
DT 77 161 178 221 122 134 +57
NS 16,4 16,8 16,9 16,3 19,5 17,8 1,4
SL 127 271 301 361 238 238 +111
Hình 2.17 Biểu đồ kết hợp thể hiện diện tích và sản lượng đậu nành qua các năm
127
271
301
361
238 238
221
134122
77
161
178
0
50
100
150
200
250
300
350
400
2003 2004 2005 2006 2007 2008
0
50
100
150
200
250
Sản lượng
Diện tích
SL (tấn) DT (ha)
460
449
83
198
62
250
30
23
84
109
161183
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
2003 2004 2005 2006 2007 2008
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
Sản lượng
Diện tích
SL (tấn) DT (ha)
Hình 2.18 Biểu đồ kết hợp thể hiện diện tích và sản lượng đậu xanh qua các năm
2.4.2.2 Những thành tựu đạt được
a) Tăng lợi nhuận kinh tế, phát huy lợi thế tiềm năng đất đai.
* Đối với cây lúa:
Vì diện tích hai vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu đã đạt mức tối đa, nên diện tích lúa vụ ba
tăng, góp phần làm tăng vòng quay của đất, từ 2,01 lần năm 2001 tăng lên 2,5 lần năm 2008 và đã
đưa tổng sản lượng lương thực tỉnh An Giang lên trên 3,6 triệu tấn năm 2008, dẫn đầu cả nước.
Nhờ vào việc sản xuất lúa vụ ba người nông dân được tăng thêm phần tích luỹ.
Bảng 2.26: Lợi nhuận của lúa vụ ba/01 ha trong giai đoạn 2003-2008
Hạng mục Đơn vị tính 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng chi
phí (TVC)
triệu đồng
5,13
5,29
6,98
8,67
10,12
20,03
Doanh thu
(GR)
triệu đồng
8,98 10,79 12,18 16,10 21,13 28,58
Lợi nhuận
(RAVC)
triệu đồng
3,85 5,50 5,20 7,43 11,01 8,50
“Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2008”
Khi tính toán lợi nhuận trên tổng chi phí bỏ ra để sản xuất 01 ha lúa từ năm 2003-2008,
chúng ta thấy hiệu quả đồng vốn của vụ ba luôn cao hơn vụ Hè Thu.
Bảng 2.27: Hiệu quả đồng vốn từ 2005 - 2008
Vụ 2005 2006 2007 2008
Hè Thu 0,67 0,57 0,63 0,36
Vụ ba 0,74 0,86 1,09 0,42
“Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2008”
Ngoài hiệu quả kinh tế, sản xuất lúa vụ ba đã giúp giải quyết được việc làm thường
xuyên cho trên 200 ngàn lao động nông nhàn trong mùa nước nổi, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn
định việc làm cho nông dân. Góp phần cung cấp giống chất lượng tốt cho sản xuất vụ Đông Xuân
tiếp theo. Đối với các hộ chuyên về nông nghiệp thì hệ thống canh tác 3 vụ lúa thích hợp hơn vì dễ
làm và làm theo tập quán. Sản xuất lúa tăng, tạo điều kiện cho thương mại phát triển, sức mua người
dân tăng, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh phân bón, thuốc trừ sâu có chiều hướng tăng mạnh.
Người dân có việc làm, có thu nhập, có một ý nghĩa rất lớn đối với việc quản lý con
người và việc ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
So với thời kỳ đầu, trong những năm gần đây diện tích lúa vụ ba tăng liên tục (trừ những
diện tích phải xả lũ) chủ yếu do giá lúa trên thị trường luôn ở mức cao hơn so với các vụ khác, đồng
thời hệ thống đê bao ngày càng được hoàn chỉnh. Sản xuất lúa vụ ba đạt hiệu quả, chính do ở địa
phương thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, quyết định xuống giống hoặc không xuống giống
hợp lòng dân. Riêng ngành nông nghiệp đã có nhiều nỗ lực trong việc hướng dẫn nông dân ứng
dụng các tiến bộ của khoa học – kỹ thuật vào sản xuất như: chương trình 3 Giảm 3 Tăng; 1 phải 5
giảm, kỹ năng chọn tạo giống giúp nông dân lựa chọn giống tốt, kháng rầy, ít nhiễm sâu bệnh... Chủ
trương hỗ trợ vốn vay không lãi để mua máy sấy, máy cắt lúa của UBND tỉnh đã giúp người dân thu
hoạch kịp thời và bảo quản tốt chất lượng lúa gạo nhất là trong mùa mưa bão....
Cây hoa màu: Với hệ thống đê bao triệt để cùng với tác động tích cực về mặt giá cả, đã
hình thành nhiều vùng trồng màu chuyên canh, bên cạnh đó các doanh nghiệp vẫn duy trì hợp đồng
bao tiêu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVDLDLH035.pdf