MỤC LỤC 
Trang
Trang phụ bìa . .1
Lời cảm ơn . .2
Mục lục . .3
MỞ ĐẦU . .4
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGưỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH -ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI. .11
1.1. Khái quát về huyện Đồng Hỷ. .11
1.2. Người Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên .15 
1.3. Khái lược về sli, lượn . . .24
Chương 2. SLI, LưỢN CỦA NGưỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH -ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN. .32
2.1. Những nội dung cơ bản của sli, lượn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên. .32
2.1.1. Tiếng hát ca ngợi con người. .32
2.1.2. Tiếng hát tâm tình của đôi lứa.37
2.1.3. Bức tranh nông thôn miền núi. .43
2.2. Một số yếu tố nghệ thuật của sli , lượn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên . 5 2
2.2.1. Ngôn ngữ. .52
2.2.2. Kết cấu. .59
2.2.3. Diễn xướng sli, lượn. .63
Chương 3. LỄ HỘI OÓC PÒ VỚI SLI, LưỢN CỦA NGưỜI NÙNG PHÀN 
SLÌNH Ở HOÀ BÌNH - ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN.70
3.1. Các nghi thức và yếu tố tâm linh trong lễ hội Oóc Pò .70
3.2. Mối quan hệ giữa lễ hội Oóc Pò với các làn điệu sli, lượn .83
3.3. Bảo tồn, phát huy những giá trị của lễ hội Oóc Pò và các làn điệu sli lượn .93
KẾT LUẬN . .99
TÀI LIỆU THAM KHẢO . . .104
PHỤ LỤC . .116
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 116 trang
116 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2163 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sli, lượn và lễ hội oóc pò của người Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y, làm ruộng nƣớc… Những 
bài ca nói lên những kinh nghiệm trong lao động sản xuất, những bài học đã 
đƣợc tích luỹ từ bao đời và còn đƣợc lƣu truyền tới các thế hệ sau này. 
Phát nƣơng đƣợc hai bãi, 
Phá ruộng đƣợc hai đám 
Đám dƣới cấy lúa nếp 
Đám trên cấy lúa tẻ 
Lúa tẻ ruộng độc nƣớc. 
 (Lƣợn: Bãi Rậm). 
Những khó khăn trong cấy lúa mà ngƣời nông dân cần chú tâm và cũng là sự 
lo lắng của họ đó là “ruộng độc nƣớc” đã đƣợc dân gian nhắc tới. Đó là loại 
ruộng xấu, đất chua, lúa trồng sẽ không tốt cây lúa sẽ bị khẩn, cây lúa lá đỏ 
không thu hoạch đƣợc. 
Kinh nghiệm trong trồng trọt đôi khi còn là những điều hết sức giản đơn 
nhƣng lại có ý nghĩa rất lớn. Trong việc trồng cam, việc chọn thời điểm trồng 
cây rất quan trọng cho sự phát triển của cây: 
 (Xiếp hằm khắm lòng chay mạc cam) “Chiều tối dâm xuống hãy trồng cam” 
 Trong bức tranh lao động của đồng bào miền núi hiện ra hình ảnh con 
ngƣời với những công việc lao động quen thuộc. Đó có thể là việc nhuộm vải: 
Ngắt ngọn bỏ vào thạ 
Ngắt ngọn thụ phấn trong 
Nhuộm vải bằng lá chàm 
Nhuộm sao cho thật đậm. 
 (Lƣợn: Nhọt lỵ ). 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
49 
Ngay trên nƣơng ruộng giữa công việc lao động, tiếng sli đã vang lên 
với giai điệu dặt dìu, sâu lắng. 
 …Tới ngày mang chủng cùng xuân phân 
Lập hạ về đến tháng hai tới 
Cùng nhau lo xuống trồng cây lúa 
Thấm thoắt trôi qua tới tháng năm 
Anh chàng nhổ mạ, cô nàng cấy 
Ngƣời cấy bên trái, ngƣời bên phải 
Chớ để cây trƣớc dồn cây sau 
Đừng để cây sau dồn cây trƣớc 
Bƣớc lên trên đá đặt nón xuống 
Bƣớc tới trên đá đặt nón chờ 
Mai này cách xa còn mãi nhớ 
Dù không chung sống cũng chung thời 
Để mình mãi mãi còn luyến lƣu. 
 (Sli: Só sình) 
Trung tâm của bức tranh lao động là hình ảnh con ngƣời. Con ngƣời hiện ra 
giữa nền thiên nhiên với những công việc lao động quên thuộc với đời sống tình 
cảm. Đó là niềm vui, là hạnh phúc của tình yêu, của cuộc sống. Ngƣời đọc dễ 
dàng hình dung ra chủ thể lao động đang miệt mài làm việc, những động tác nhịp 
nhàng đã đƣợc miêu tả thật đẹp: “Anh chàng nhổ mạ, cô nàng cấy”; “Ngƣời cấy 
bên trái, ngƣời bên phải”. Họ đang xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ 
đó góp phần xây dựng một bản làng trù phú, một mảng không thể không nhắc tới 
trong bức tranh nông thôn miền núi mà sli, lƣợn đã vẽ lên. 
 …Trông nhìn ra nhiều hƣớng 
Nhìn thấy làng rộng lớn 
Nhìn thấy nƣơng ruộng tốt 
Mình mới bƣớc đến đây 
Lấy lời hát ca cùng tâm sự. 
 (Lƣợn: Kháy Pác) 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
50 
Một bản làng rộng lớn, những nƣơng ruộng tốt tƣơi là sự giàu có của thôn 
bản và cũng là niềm tự hào của nhân dân. Trong sli đối đáp, lời của nhân vật đối 
đáp đã nhắc tới sự phát triển của làng bản, sự giàu có của quê hƣơng. 
Nam: Năm ngoái về thấy rừng thành cây 
 Năm nay tới thấy bãi thành ruộng. 
Nữ: Trống chiêng vang vọng khắp mọi nơi 
 Ruộng vƣờn tốt lắm chẳng tới mình 
Một khung cảnh vùng núi vui tƣơi giàu có, tràn đầy sức sống. Những nét vẽ 
mang đậm nét văn hoá của đồng bào Nùng. 
 …Phù hộ lợn gà ở đầy chuồng 
- Thả ra ăn thóc nhƣ kiến ruồi 
 Phù hộ bò trâu sừng đều đặn 
- Khi thả ra ngoài đầy đồng ruộng 
 Lúc thả ra đi đầy soi bãi 
- Chiều tối trở về đầy sân nhà 
 Ngƣời ơi có nhiều chia một con 
- Lấy về để cày đám cỏ gianh 
 Mang về để cày soi bãi bông. 
 (Sli đối đáp) 
Chăn nuôi, trồng trọt là hoạt động kinh tế chính của ngƣời Nùng Phàn 
Slình cho nên hình ảnh đàn gia xúc, gia cầm đông đúc, lớn khoẻ là mong ƣớc 
của ngƣời nông dân. Chính vì vậy trong lời cầu chúc đầu năm, ngƣời hát đã 
cất lên những tiếng ca cầu chúc những điều tốt đẹp cho công việc nuôi trồng, 
hứa hẹn một năm mới bội thu. 
Trong sản xuất nông nghiệp, mỗi bƣớc đi của mùa màng, của chu kì lao 
động sản xuất đều có những bài ca miêu tả. Quá trình của một vụ cấy đƣợc kể 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
51 
cụ thể theo thời gian, từ việc những công việc chuẩn bị cho việc gieo trồng 
nhƣ cầy bừa, gieo mạ… sự phát triển của cây đến khi thu hoạch. 
Tháng hai dùng bừa đi lấp luống cày 
Tháng hai cầm bừa đi phay đất mịn 
Tháng 3, 15 xuống gieo mạ 
Tháng 3, 15 gieo mạ hết 
….. 
Tháng bảy quay lại mọi cây non 
Tháng 8 đến thấy lúa tốt đều 
Tháng 8 đến thấy lúa lên đòng 
Tháng 9 đến thấy lúa đã ngả màu vàng 
Tháng 9 đến thấy lúa chin vàng hết 
Tháng 10 đến thấy lúa đã gặt 
Tháng 10 đến thấy lúa gặt xong… 
 (Sli: Chiêng ngột) 
Bài hát thể hiện sự quan sát tinh tế, những kinh nghiệm thực tiễn và tri 
thức phong phú về đời sống lao động mà nhân dân đã tích luỹ đƣợc. Công việc 
của từng tháng đƣợc liệt kê khiến chúng ta nghĩ đến những bài ca nông lịch. 
Trong sli, lƣợn tiếng hát của thiên nhiên hoà lẫn tiếng ca lao động của 
con ngƣời, góp phần vẽ lên những bức tranh sinh động về cảnh núi rừng, bản 
làng, về sức sáng tạo và công việc lao động xây dựng cuộc sống ấm no của 
dân bản. Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của bản làng, miêu tả và ca 
ngợi sức lao động của con ngƣời phần nào đã nói lên tinh thần lạc quan, tin 
tƣởng vào một tƣơng lai tốt đẹp của ngƣời Nùng Phàn Slình nói riêng và đồng 
bào Nùng nói chung. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
52 
2.2. Một số yếu tố nghệ thuật của sli, lƣợn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên 
 Cũng nhƣ một số loại hình nghệ thuật dân gian khác, những bài sli, 
lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình tồn tại ở dạng thức nguyên hợp, trình diễn 
theo tinh thần không chuyên và tự giác. Ra đời trong một bối cảnh riêng biệt 
nên sli, lƣợn mang những nét đặc điểm riêng về nghệ thuật. 
 Ở đây, luận văn chúng tôi không đi sâu vào miêu tả mọi yếu tố của thi 
pháp mà chỉ khảo sát một số yếu tố nghệ thuật nổi bật trong sli, lƣợn của 
ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên. 
2.2.1. Ngôn ngữ 
Văn học là nghệ thuật ngôn từ - tức là loại hình sử dụng ngôn từ để 
sáng tạo ra thế giới nghệ thuật. Nhƣ vậy ngôn ngữ là một trong yếu tố quan 
trọng góp phần tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm nghệ thuật. Với vai trò ấy 
ngôn ngữ từ lâu đã trở thành một đối tƣợng nghiên cứu không thể thiếu trong 
quá trình nghiên cứu thi pháp văn học. 
Nghệ thuật ngôn ngữ sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình cũng có 
những đặc điểm chung của nghệ thuật văn học dân gian, là ngôn ngữ nghệ 
thuật hình tƣợng nói bằng hình ảnh, đặc biệt là những hình ảnh mang tính chất 
dân tộc miền núi. Ở đây khi tìm hiểu ngôn ngữ thơ của sli, lƣợn, chúng tôi tìm 
hiểu về phƣơng thức tạo hình trong thơ của ngôn ngữ. 
* Ngôn ngữ hình tượng mang đậm tính chất miền núi. 
Ngôn ngữ chính là những chất liệu mà các nhà thơ sử dụng để làm nên 
tính chất tạo hình ở trong thơ. Một tác phẩm thơ ca có tính chất tạo hình là 
một tác phẩm đem đến cho ngƣời đọc những bức tranh sinh động về cuộc 
sống và hiện thực, khiến ngƣời nghe, ngƣời đọc có thể cảm nhận đƣợc. Tính 
chất dân gian trong các hình tƣợng của sli, lƣợn là tính chất dân gian nói 
chung mà tính chất dân tộc miền núi rất độc đáo. Chất liệu để xây dựng hình 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
53 
tƣợng nghệ thuật đều gắn liền với thiên nhiên, hoàn cảnh sống, môi trƣờng 
sinh hoạt của đồng bào miền núi. 
Tác giả của các làn điệu sli, lƣợn thực chất là những ngƣời lao động 
gần gũi với thiên nhiên. Vì thế cách diễn đạt của họ trong thơ ca là lối nói 
bằng hình ảnh mang dấu ấn của thiên nhiên và mang đậm nét tƣ duy, văn hoá 
của các dân tộc miền núi. Có thể thấy, những hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên 
miền núi đầy ắp trong những khúc hát: 
Tháng giêng mùa xuân nụ hoa sắp nở 
Tháng hai mùa xuân cỏ gianh mọc 
Tháng ba dùng thuổng đào gốc cỏ gianh 
Tháng tƣ thấy mọi gốc cỏ đã chết 
Gốc to, gốc nhỏ đều không còn 
Không còn gốc nào để ngâm rƣợu 
Không còn rễ nào ngâm rƣợu thuốc 
Để mời trong cai lẫn ngoài cai. 
 (Cóc va khái) 
 Lời thơ mộc mạc, giản dị nhƣng ý nghĩa sâu sắc. Hình ảnh cỏ gianh 
mọc và việc đào cỏ gianh về ngâm rƣợu với ngƣời dân miền xuôi có thể là 
một việc lạ nhƣng với ngƣời miền núi, với các dân tộc thiểu số thì đây là một 
việc quen thuộc. Với họ, rễ cây cỏ gianh với vị ngọt tính hàn là một loại thuốc 
rất tốt. 
Ngắt ngọn bỏ vào thạ 
Ngắt ngọn thu phấn trong 
Nhuộm vảo bằng lá chàm 
Nhuộm sao cho thật đậm. 
 (Lƣợn: Nhọt Lỵ) 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
54 
Hình ảnh lá chàm, và việc lấy lá nhuộm vải là một việc làm quen thuộc 
với ngƣời dân lao động miền núi đã đƣợc nhắc tới trong lời bài ca lao động 
của ngƣời Nùng Phàn Slình, làm nên màu sắc độc đáo cho trang phục của dân 
tộc. Có thể nói hình tƣợng trong sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Tân 
Đô gắn liền với kinh tế vƣờn, đồi, mang đậm màu sắc văn hoá của cộng đồng 
dân tộc Nùng. 
* Những biện pháp so sánh ví von 
 “So sánh là phƣơng thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu 
với sự vật khác miễn là hai sự vật có một nét tƣơng đồng nào đó, để gợi ra 
hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của ngƣời đọc, 
ngƣời nghe.” [08;189]. 
“Trong văn chƣơng, so sánh là phƣơng thức tạo hình, phƣơng thức gợi 
cảm. Nói đến văn chƣơng là nói đến so sánh…Một so sánh đẹp là một so sánh 
phát hiện. Phát hiện những gì ngƣời thƣờng không nhìn ra, không nhận thấy”. 
[08;192]. Nhƣ vậy trong văn chƣơng, biện pháp tu từ so sánh có một vai trò 
quan trọng, đƣợc sử dụng nhằm góp phần mang đến tính tạo hình cao cho 
ngôn ngữ, góp phần linh hoạt hoá hình ảnh đem đến cho ngƣời đọc những ấn 
tƣợng thẩm mĩ phong phú. 
Qua quá trình sƣu tầm và khảo sát, ngƣời nghiên cứu nhận thấy cũng 
nhƣ các làn điệu dân gian khác, sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà 
Bình sử dụng nhiều biện pháp tu từ so sánh. Lối so sánh ví von góp phần làm 
tăng hiệu quả thẩm mĩ cao cho ngôn ngữ sli, lƣợn. Những hình ảnh so sánh ví 
von ấy là những hình ảnh hết sức gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống. 
- Nữ: Bóng chàng lớn nhƣ bóng cây to 
 Liệu mình có đƣợc hƣởng hay không 
 - Nam: Đôi mình nhƣ cây mọc gần chợ 
 Nên cả cuộc đời mãi mãi vui. 
 - Nam: Ƣớc gì ta mình nhƣ đôi đũa 
 Đừng để ta mình phải lẻ loi. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
55 
“Đôi mình nhƣ cây mọc gần chợ”, “ta mình nhƣ đôi đũa” để khẳng định sự 
gần kề, song đôi của đôi lứa. 
Khát vọng hạnh phúc luôn là điểm hƣớng tới trong tình yêu của đôi lứa. 
Chàng trai đã ví mong ƣớc đƣợc sóng đôi, không tách rời ngƣời yêu với một 
hình ảnh rất đỗi bình dị: “đôi đũa”. Tính chất “đôi” của vật dụng này đã góp 
phần nhấn mạnh hơn khát vọng hạnh phúc của chàng trai. 
- Nam: Anh yêu em qua những năm tháng 
 Nhƣ chim rừng uống nƣớc suối tiên. 
- Nữ: Em yêu anh qua năm những năm tháng 
 Nhƣ chim rừng uống nƣớc suối ngàn. 
Những hình ảnh so sánh rất đắt, chàng trai, cô gái Nùng Phàn Slình đã 
diễn tả đƣợc tình cảm của mình một cách sinh động cụ thể mà sâu sắc. Hơn 
nữa tính chất miền núi trong nghệ thuật so sánh, ví von cũng thể hiện rõ nét. 
 Sli: Ba mình thấy ngƣời nhƣ mặt trăng. 
 Ba thấy ngƣời nói chuyện đang toả sáng. 
 (Pồn cỏ) 
 Da thịt nàng đẹp hơn 
 Trăng rằm sáng mọi nơi. 
 ( Lƣợn: Đệp) 
Vẻ đẹp của con ngƣời đƣợc so sánh với vẻ đẹp hiền hoà của ánh trăng 
cũng là lối so sánh ví von thƣờng gặp trong sli, lƣợn của ngƣời Nùng ở xã 
Hoà Bình, huyện Đồng Hỷ. Đó có thể là so sánh ngang bằng “nhƣ”, có thể là 
so sánh hơn, nhƣng tất cả đều hƣớng tới làm nổi bật vẻ đẹp của con ngƣời. 
 Trong Si, Lƣợn của ngƣời Nùng những hình ảnh so sánh còn mang đậm lối 
tƣ duy, nếp cảm, nếp nghĩ chân thành, mộc mạc của cộng đồng dân tộc. 
- Phấn đấu đƣợc nhƣ ngƣời Hà Nội 
 Thu tiền, chi tiền nhiều nhƣ suối. 
 (Sli: Đối đáp) 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
56 
- Chữ to nhƣ hạt vừng 
 Mặt chữ bằng hạt thóc 
 (Lƣợn: Ù Phùng) 
 - Phù hộ lợn gà ở đầy chuồng 
 Thả ra ăn thóc nhƣ kiến ruồi 
 - Cái dài cái ngắn đen nhƣ quạ. 
Những lối so sánh ấy tạo nên cho lời ca dân gian tuy trong sáng, giản dị mà 
rất hàm súc. 
Có thể nói, biện pháp so sánh đã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao cho 
lời sli, lời lƣợn. Nó góp phần làm tăng giá trị tạo hình và biểu cảm cho làn 
điệu dân ca đặc sắc này. 
* Những biện pháp ẩn dụ. 
 “Ẩn dụ là phƣơng thức chuyển nghĩa của đối tƣợng này thay cho đối 
tƣợng khác khi hai đối tƣợng có một nét nghĩa tƣơng đồng nào đó”. [08; 194]. 
Phép tu từ ẩn dụ có tác dụng thể hiện hình ảnh cụ thể, hàm chứa sức biểu cảm 
lớn, đem đến sức hấp dẫn mạnh mẽ cho lời nói. Và nói đến ẩn dụ là nói đến 
thơ ca. Thơ trữ tình mới thực sự là “vƣơng quốc của các ẩn dụ” [08;195]. 
Trong những bài sli đối đáp, tỏ tình của trai, gái, lối nói ẩn dụ đem đến 
sự tinh tế cho lời nói. Đó là cách nói bóng gió, ẩn ý sâu xa, tránh lối nói trực 
tiếp, đêm đến sự tế nhị, kín đáo cho lời tỏ tình. 
- Nam : Rau cải trong vƣờn, rau cải non 
 Đã có ngƣời nào định hái chƣa ? 
 - Nữ : Rau cải trong vƣờn rau cải cây 
 Ngƣời nào ăn đƣợc thì sẽ hái. 
Hay trong lời đáp của cô gái : 
- Chiếc áo mặc rồi chƣa có cúc 
 Rƣợu nếp hoa vàng chƣa ngƣời uống. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
57 
Hình ảnh chiếc áo chƣa có cúc, và rƣợu nếp hoa vàng chƣa ngƣời uống là 
những hình ảnh ẩn dụ hàm ý của cô gái về việc mình chƣa có nơi có chốn, 
còn đang chờ ngƣời thƣơng, ngƣời hợp. Cách nói bóng gió này giúp lời tâm 
sự của cô gái vừa tế nhị vừa đủ để chàng trai hiểu ý mình. 
Sớm dậy đi ra gần bờ ke 
Sáng mai đến xem có đôi quả 
Quả chín thơm vàng nhạt hay ngọt 
Mong em thực lòng ngọt hay nhạt 
Em hãy vui vẻ sẽ nghênh mình. 
 (Sli: Cam lò) 
Đôi quả; quả chín thơm là hình ảnh đôi trai gái xứng đôi nhƣ đôi quả chín 
thơm vàng ngọt. Cùng nói về hình ảnh đôi lứa trong sli đối đáp có câu: 
 Rừng xanh xuất hiện đôi măng trúc. 
 Ruộng tốt xuất hiện bông lúa vàng. 
Măng trúc, lúa vàng khiến ngƣời nghe nghĩ đến hình ảnh đôi lứa đang yêu. 
Bởi những hình ảnh ấy là hình ảnh của cái đẹp, của sự sống, hình ảnh của 
những cặp đôi. Ở đây biện pháp tu từ ẩn dụ đã góp phần nhấn mạnh hơn sự 
tinh tế, ý nhị trong lời ca ngợi vẻ đẹp tình yêu của những chàng trai, cô gái 
Nùng. 
Nói đến tình yêu là nói đến sự hoà hợp trong tâm hồn của con ngƣời. 
Cũng nói đến điều đó nhƣng nhân vật trữ tình trong lƣợn Ù Phùng lại dùng 
hình ảnh ẩn dụ: 
 Thật lòng trong tâm tƣởng 
 Đôi dái cá hoà hợp. 
 (Sli đối đáp) 
Đôi dái cá hay chính là đôi trai gái đang yêu. Không dùng cách nói trực 
tiếp mà dùng hình ảnh đôi dái cá sẽ tạo cho ngƣời nghe tƣởng tƣợng rõ hơn về 
sự hoà hợp của đôi lứa. Ngƣời đọc ai cũng hiểu đƣợc sự chân thành trong tình 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
58 
yêu của đôi lứa, sự quấn quýt không tách rời. Đó chính là sự thành công của 
ngƣời nghệ sĩ dân gian trong việc sử dụng các biện pháp ẩn dụ. 
 Trong cuộc sống con đƣờng đến với hạnh phúc không phải là con đƣờng 
trơn tru, dễ bƣớc. Đặc biệt trong tình yêu, biết bao thử thách luôn dình dập: 
 Mƣa rơi có một chiều 
 Nƣớc sông có vực xoáy 
 Đôi ta vực lên đƣợc 
 Chớ bơi vào vực xoáy 
 ( Lƣợn: Phấn tóc) 
 “Vực xoáy” là hình ảnh chỉ những thử thách, khó khăn đặt ra cho đôi lứa trên 
con đƣờng tình duyên, những thử thách mà con ngƣời phải vƣợt. 
 Sli, lƣợn là thơ trữ tình, nên nó cũng mang những đặc điểm của thơ trữ 
tình, cảm xúc của nhân vật trữ tình đƣợc diễn đạt bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh. 
Bông hồng lơ lửng giữa biển khơi 
Gió thổi chiều nào theo chiều đó. 
 (Sli đối đáp). 
Câu hát bộc lộ nỗi băn khoăn, lo lắng của cô gái, “Bông hồng” là hình ảnh 
ẩn dụ chỉ vẻ đẹp, tuổi xuân. Cô cảm nhận rõ sự nhỏ bé, yếu đuối của mình 
giữa biển khơi - biển đời rộng lớn, mà thân phận lại bị phụ thuộc “gió thổi 
chiều nào theo chiều đó”. Nỗi băn khoăn, lo lắng của một ngƣời có ý thức và 
nhu cầu làm chủ bản thân khi nhìn về tƣơng lai của mình. Câu ca gợi chúng ta 
nghĩ đến câu ca dao của dân tộc Kinh : 
 Thân em nhƣ tấm lụa đào 
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. 
 (Ca dao) 
 Tóm lại, với biện pháp tu từ ẩn dụ, chúng ta tiếp xúc với một thế giới 
thơ độc đáo và sâu sắc. Trong thế giới ấy, tình cảm của con ngƣời luôn đƣợc 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
59 
diễn tả một cách sinh động, tinh tế, ý nhị. Đó chính là một yếu tố quan trọng 
làm cho ngôn ngữ thơ sli, lƣợn hay hơn, đặc sắc hơn. 
Nhƣ vậy trong tìm hiểu thơ ca trữ tình, yếu tố ngôn ngữ là cánh cửa 
đƣa ngƣời đọc đi vào tìm hiểu thế giới tình cảm của con ngƣời. cũng nhƣ 
Hoài Thanh đã từng nhận xét : “Lời thơ dân gian không những sẽ bƣớc đầu 
cho ta làm quen với tâm tƣ tình cảm của đồng bào ta xƣa mà đồng thời sẽ còn 
giúp ta học những cách nói năng tài tình chính xác. Theo tôi đối với một 
ngƣời việt Nam mà thiếu kiến thức này thì có thể xem nhƣ thiếu một trong 
những điều cơ bản” [9;36]. 
2.2.2. Kết cấu 
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ 
biên : “Kết cấu là sự phân chia và bố trí các phần các chƣơng mục theo một 
hệ thông nhất định để thể hiện nội dung của tác phẩm”. 
 Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. “Kết cấu 
là phƣơng tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm 
chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tƣ tƣởng của tác phẩm”. [12;132] 
Qua quá trình sƣu tầm và khảo sát những bài sli, bài lƣợn của ngƣời 
Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy 
những làn điệu dân ca sli, lƣợn nơi đây có hình thức kết cấu độc đáo. Mỗi loại 
lại có một hình thức kết cấu khác nhau nhƣng đều cùng chung chức năng : 
bộc lộ chủ đề và tƣ tƣởng của tác phẩm. 
* Kết cấu đối đáp. 
Trong số những bài sli, bài lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà 
Bình có một số lƣợng khá lớn là những bài sli đối đáp. Trong số những bài sli 
đối đáp ngoài những bài sli đối đáp chào hỏi giữa chủ và khách thì phần lớn là 
những bài sli đối đáp giao duyên, tỏ tình của những chàng trai, cô gái. 
Từ những mối tình chủ động của đôi nam nữ, ngƣời Nùng Phàn Slình 
có cả một kho tàng những điệu sli, điệu lƣợn bay bổng, ngọt ngào. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
60 
- Bên nam hát: 
Hôm nay rất may mình gặp mặt 
 Cùng nhau tâm sự những điều hay. 
- Bên nữ trả lời : 
Hôm nay đến với quê hƣơng mình 
Học hỏi quê mình đƣờng làm ăn. 
- Bên nam hát: 
 Công việc làm ăn còn lâu dài 
 Hát sli, hát lƣợn một thời thôi 
- Bên nữ hát : 
 Việc làm việc ăn nuôi sống ngƣời 
 Hát sli, hát lƣợn bóng gió thôi. 
 Kết cấu hai vế đối đáp là kết cấu chủ yếu trong các bài sli hát trong 
đám cƣới, trong những ngày hội làng… của ngƣời Nùng Phàn Slình. Bằng lối 
kết cấu này sli đối đáp vận dụng phép đối ý, đối lời là chủ yếu. Thủ pháp nghệ 
thuật này tạo ra sự hài hoà cân đối giữa lời hỏi và lời đáp, giữa những câu thơ 
với câu thơ. 
- Nam : Rồng phƣợng bay qua bao sông biển 
 Có biết hai ta tình vấn vƣơng 
- Nữ: Một năm mƣời hai tháng trôi qua 
 Ong bƣớm cùng giao hoà vui sƣớng 
- Nam: Anh yêu em qua những năm tháng 
 Nhƣ chim rừng uống nƣớc suối ngàn 
- Nữ: Em thƣơng anh qua những năm tháng 
 Nhƣ chim rừng uống nƣớc suối tiên. 
 Có thể nói sự đối ý, đối lời đƣợc sử dụng tới mức tối đa. Trƣớc những 
lời vấn, những lời đáp bao giờ cũng bám sát nội dung, chủ đề của lời hỏi, tạo 
sự cân đối hài hoà, chặt chẽ trong cấu trúc và nội dung giữa lời hỏi và lời đáp. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
61 
Phần lớn những bài sli đối đáp thƣờng không quá dài, mỗi câu vấn, hay 
câu đáp chỉ gồm hai dòng thơ, ngắn gọn đủ để ngƣời nghe tiếp nhận. Lời đối 
đáp diễn ra dƣới hình thức đối đáp bao giờ cũng gồm hai nhân vật, ngƣời nói 
và ngƣời nghe, hai bên lần lƣợt đổi vai nghe nói cho nhau. 
Với hình thức đối đáp, đòi hỏi sự ứng tác, chính vì thế qua những lời 
hát, đối phƣơng có thể đánh giá đƣợc sự thông minh, nhậy bén và mức đội 
tình cảm của ngƣời bạn hát. Chẳng hạn chàng trai hát: 
 Đến đây ta có đôi lời tâm sự 
 Nhƣng lại sợ đem phiền cho bạn 
Cô gái đáp lại: 
 Tuy khó nói nhƣng hãy cùng tâm sự 
 Nhƣ mạ gặp nƣớc nhƣ lúa gặp mƣa. 
Để rồi sau những lời làm quen, qua những lần gặp gỡ, khi đã bén duyên 
họ hát lên những lời hát tình tứ: 
Chàng trai: “Hƣơng vị quả ngon lòng ngậm ngùi nhớ mãi” 
Cô gái ý nhị, kín đáo: “Hƣơng vị quả ngon lòng ngậm ngùi nhớ thƣơng” 
Tóm lại đối đáp là một hình thức kết cấu trong số những bài sli của 
ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên. Lối kết cấu đó 
đƣợc biểu hiện bằng nhiều hình thức, mang lại sắc thái và giá trị biểu cảm 
phong phú, góp phần tạo nên sự độc đáo cho làn điệu sli, lƣợn. 
 * Kết cấu lặp 
Một hình thức kết cấu thƣờng gặp trong sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn 
Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên là phép lặp. Biện pháp nghệ thuật 
này có tác dụng tạo nhịp điệu dồn dập cho lời thơ, hình ảnh thơ đƣợc khắc 
hoạ ấn tƣợng, rõ nét. 
Trong bài Lƣợn Đệp: 
Yêu em, anh vui lòng 
Yêu núi cao mây phủ 
Núi phủ mây phủ sƣơng 
Mây phủ núi phủ kín 
 (Lƣợn) 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
62 
Những yếu tố ngôn ngữ đƣợc lặp lại tạo thành từng cặp câu thơ liền kề. 
Cùng với việc lặp lại những yếu tố ngôn ngữ là thể thơ ngũ ngôn, hoặc thất 
ngôn. Số tiếng ở mỗi câu là bằng nhau, mỗi lời sli, câu lƣợn xét về mặt nhịp 
điệu có sự cân đối hài hoà, êm ái trong lời ca. 
Bƣớc vào cổng nhà đầy thông gia 
Bƣớc vào cổng nhà đầy liên gia 
Bốn bề tứ phƣơng anh em đến 
Bốn bề tứ phƣơng đến tại nhà 
Không rõ mời rƣợi hay mời trà 
Không rõ mời trà hay mời rƣợu… 
 (Sli Lảu) 
Có khi đó là khẩn chƣơng trong nhịp điệu lao động: 
Khắp núi rừng mọc cây gỗ tạp 
Khắp núi rừng mọc cây gỗ nghiến 
Để mình cầm dao đến mình chặt 
Để mình mang dao đến mình phát 
Vừa ôm vừa bê về rào rau 
Vừa ôm vừa bê về rào mía 
Đừng để lợn to vào phá rau 
Đừng để lợn to vào phá mía 
Để vƣờn tốt đƣợc ra vƣờn tốt 
Để bãi mía ngon ra mía ngon. 
 (Sli: Khẩn kinh). 
Hình thức lặp ở đây không phải là lặp hoàn toàn, mà đã có sự lựa chọn, 
thay đổi từ ngữ, đặc biệt là lặp nhƣng vẫn duy trì sự phát triển trong nội dung 
ý nghĩa của câu thơ nên lặp nhiều nhƣng không đơn điệu mà câu thơ vẫn 
mang những sắc thái mới phong phú, độc đáo. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
63 
Nhiều khi việc lặp lại trong những câu thơ góp phần diễn tả tâm trạng của 
nhân vật, diễn tả bƣớc đi của tâm trạng: 
Bƣớc lên trến đá đặt nón chờ 
Bƣớc lên trên đá đặt nón đợi 
Mai này cách xa còn mãi nhớ 
Dù không chung sống cũng chung thời 
Để mình mãi mãi còn luyến lƣu. 
 (Sli Só Sình) 
Nhƣ vậy kết cấu lặp không những có ý nghĩa tạo ra nhạc điệu cho lời 
thơ mà còn góp phần thể hiện, truyền đạt nội dung ý nghĩa của bài hát. 
Trong những bài sli nói về các tháng trong năm và công việc lao động cần 
làm cho việc cấy hái ở từng tháng, việc lặp lại những câu thơ đã góp phần 
diễn tả nhịp điệu của thời gian, từng bƣớc đi đều đặn. 
Sự lặp lại câu thơ, từ ngữ, hình ảnh tạo ra cảm xúc nối tiếp, vô tận, 
cuốn hút ngƣời nghe vào mạch cảm xúc của bài hát, tạo hiệu quả độc đáo cho 
lời ca dân gian. 
2.2.3. Diễn xướng sli, lượn 
Trong việc tìm hiểu một tác phẩm văn học dân gian, ngƣời nghiên cứu 
không thể không tìm hiểu về hình thức diễn xƣớng của tác phẩm ấy. Diễn 
xƣớng là môi trƣờng sống cố hữu của văn nghệ dân gian. Từ điển tiếng Việt 
định nghĩa : “Diễn xƣớng là trình bày sáng tác dân gian bằng động tác, lời lẽ, 
âm thanh, nhịp điệu”. 
 Môi trƣờng diễn xƣớng, hình thức diễn xƣớng mặc dù là những yếu tố 
nằm ngoài văn bản nhƣng nó lại có vai trò là những yếu tố nghệ thuật mang 
tính đặc thù của thi pháp văn học dân gian, là những thành tố của một tác 
phẩm văn học dân gian, góp phần làm nên giá trị mĩ học của tác phẩm. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
64 
* Môi trường diễn xướng 
Nhắc tới môi trƣờng diễn xƣớng là chúng ta nhắc tới không gian diễn 
xƣớng và thời gian diễn xƣớng. Các bài sli, bài lƣợn của ngƣời Nùng Phàn 
Slình ở Hoà Bình gắn liền với các hoạt động sinh hoạt văn hoá, tín ngƣỡng 
của cộng đồng. Không gian diễn xƣớng của sli, lƣợn chính là môi trƣờng sinh 
hoạt, là nơi tiến hành tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hoá, tín ngƣỡng của 
cộng đồng. 
 Với mỗi hoạt động sinh hoạt văn hoá khác nhau thì lại có một môi 
trƣờng diễn xƣớng cụ thể khác nhau. Nhƣng nhìn chung các bài sli, bài lƣợn 
thƣờng đƣợc diễn ra ngay trong nhà. Không gian nhà sàn đã trở thành một sân 
khấu để tổ chức các cuộc hát. Hát mừng nhà mới, hát mừng sinh nhật hay 
những bài ca chúc mừng năm mới của khách khi đến thăm nhà…. Trong đám 
cƣới không gian nhà sàn cũng chính là nơi diễn ra những lời hát đối đáp giữa 
nhà trai và nhà gái…Những buổi hát tỏ tình trong những đêm mùa xuân bên 
bếp lửa ấm ấp tạo một không gian thân mật, tình cảm, rút ngắn khoảng cách 
giữa “chủ” và “khách” để những ngƣời tham gia buổi hát trở nên gần gũi hơn, 
cùng cất lên những lời ca mƣợt mà tha thiết.. Có lẽ vì thế mà trong “sli, lƣợn 
dân ca trữ tình Tày Nùng” tác giả Vi Hồng đã nói : “Lƣợn sân khấu nhà sàn”. 
 Ngoài ra không gian diễn xƣớng của sli, lƣợn còn diễn ra ở ngoài trời. 
Ngƣời Nùng Phàn Slình có thể cất lên tiếng hát ngay khi đan
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LV2010_SP_HoangThuyNga.pdf LV2010_SP_HoangThuyNga.pdf