Trong năm đầu triển khai các luật thuế mới, đặc biệt là thuế GTGT tuy còn gặp nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Bộ chính trị, của UBTVQH và sự điều hành của Chính phủ, cùng với sự cố gắng của các ngành, các cấp, của nhiều cơ quan đoàn thể, sự hưởng ứng của các đối tượng nộp thuế và sự đồng tình của nhân dân, sự nỗ lực của nghành tài chính, ngành thuế. Đến nay, sau hơn hai năm thực hiện cho thấy các luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, sản xuất kinh doanh, bước đầu đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế-xã hội nước ta.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự cần thiết và điều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn mua, bán hàng để khấu trừ sổ thuế đã nộp ở khâu trước. Điều đó có nghĩa là, nếu không có hoá đơn mua hàng ghi rõ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước thì không được khấu trừ thuế. Vì vậy thuế GTGT khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh khi mua hàng đòi hoá đơn, và khi bán hàng phải có hoá đơn theo đúng quy định, với nguyên tắc thuế thu ở khâu sau được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước, thuế GTGT sẽ góp phần hạn chế được những sai xót, gian lận trong việc ghi chép hoá đơn. Hoạt động mua bán hàng hoá, cung cấp lao vụ, dịch vụ có hoá đơn chứng từ được đua vào nề nếp thành thói quen trong nền kinh tế sẽ là tiền đề cho việc tin học hoá quá trình quản lý sản xuất kinh doanh , hạn chế bớt những sai sót, tiêu cực và mang lạI nhiều lợi ích cho nề kinh tế.
Rõ ràng, thuế GTGT có nhiều ưu đIểm nổi trội hơn thuế doanh thu. Mục đích chủ yếu của việc áp dụng thuế GTGT là tạo thêm thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh phát triển, chứ không nhằm tăng mức động viên, càng không phải là làm cho doanh nghiệp khó khăn hơn.
3. Những khó khăn có thể gặp phải trong việc áp dụng thuế GTGT
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, khi áp dụng thuế GTGT chắc chắn sẽ phát sinh nhiều khó khăn thách thức đối với Nhà nước, doanh nghiệp cũng như với xã hội.
Thứ nhất, phương pháp tính thuế GTGT phức tạp hơn so với cách tính thuế trước đây.
Thứ hai, thuế GTGT yeu cầu cao về cơ sở số liệu, hoạch toán kế toán hoá đơn và luân chuyển hoá đơn chứng từ cũng như trình độ nhận thức của mọi đối tượng liên quan từ Nhà nước và các đại diện của Nhà nước, các doanh nghiệp, nhân dân.
Thứ ba, thuế GTGT yêu cầu cao đối với bộ máy thu và quản lý thuế, cũng như đối với việc thống nhất hoá, đồng nhất hoá các văn bản pháp quy có liên quan.
Thứ tư, chuyển từ thuế doanh thu sang áp dụng thuế GTGT đòi hỏi phải thay đổi một thói quen vốn đã ăn sâu trong cách nghĩ và cách làm của mỗi người. Một trong những thói quen đó là: mua bán hàng không cần hoá đơn, linh hoạt đến mức tuỳ tiện trong việc ghi chép chứng từ, sổ kế toán...mà thay đổi một thói quen bao giờ cũng hết sức khó khăn. Do thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị gia tăng thêm nên để đảm bảo mức động viên ngang bằng thuế doanh thu thì suất thuế GTGT phải cao hơn thuế suất thuế doanh thu hiện hành. Điều này dễ gây tâm lý cho rằng Nhà nước tăng thuế & để dẫn đến tác động làm tăng giá, cho nên cùng với việc giải thích cần phải áp dụng biện pháp quản lý chặt chẽ và phải có các biện pháp kinh tế để kiềm chế ngăn ngừa lợi dụng tăng giá.
Thứ năm, chuyển từ thuế doanh thu có 11 thuế suất sang áp dụng thuế GTGT có 4 thuế suất, dẫn đến dễ bị hụt hẫng trong thu ngân sách Nhà nước và bị sốc trong những doanh nghiệp. Những hàng hoá đang chịu thuế suất cao nay xuống thuế suất thấp sẽ làm giảm thu Ngân sách Nhà nước. Những hàng hoá đang chịu thuế suất thấp nay lên thuế suất cao sẽ gặp khó khăn lúng túng trong thời gian đầu. Do đó cần có những biện pháp điều tiết một phần từ những doanh nghiệp có thu nhập cao do được giảm thuế suất, đồng thời giảm bớt những khó khăn trong doanh nghiệp phải chịu thuế suất cao hơn trước.
Thứ sáu, đối với các khu vực doanh nghiệp, có thể sẽ có một số ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận doanh nghiệp cụ thể nào đó-thông thường là những doanh nghiệp nhỏ và yếu. Do không đủ điều kiện áp dụng thuế GTGT theo luật (10/5/1997 ), nên sẽ xuất hiện hiệu ứng hai chiều: đối với bản thân đơn vị, khi mua hàng, phải chi trả thuế GTGT mà không bao giờ được khấu trừ.
Mặt khác, các đơn vị bán sẽ gặp phải khó khăn hơn, khó bán hơn do hàng hoá của họ sẽ không được người mua cũ để mắt tới nữa vì những doanh nghiệp này không mang lại khả năng khấu trừ thuế GTGT cho bên mua. Nói cách khác, rất có thể họ sẽ bị mất đi một lượng bạn hàng nhất định. Nếu không lường trước được vấn đề, có thể thuế GTGT sẽ gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh sau khi triển khai. Cần lưu ý rằng tuy doanh thu của khu vực này không phải là lớn nhưng số lượng doanh nghiệp lại rất đáng kể nên cần tránh những dư luận không tốt đối với thuế GTGT.
Những khó khăn nói trên là những trở ngại thực sự, đòi hỏi phải có dự báo những tình huống có thể xảy ra và nhất là phải có những giải pháp sát hợp cho từng trường để chủ động phòng tránh mới có thể hạn chế được những rủi ro và đảm bảo thực hiện thành công thuế GTGT. Mặt khác, áp dụng thuế GTGT đem lại nhiều thuận lợ cho sản xuất kinh doanh cho nên khắc phục những khó khăn ban đầu để thực hiện có kết quả là góp phần bảo đảm lợi ích của cả nền kinh tế. Vấn đề là cả Nhà nước và doanh nghiệp đều phải nỗ lực thực sự thì áp dụng thuế GTGT mới đạt được kết quả mong muốn.
Chương 2
Thực trạng việc áp dụng thuế GTGT
ở Việt nam
I. Điều kiện cần thiết để áp dụng thuế GTGT ở Việt nam
Từ những vấn đề nêu trên, liên hệ với thực tế ở Việt nam, câu hỏi đặt ra là chúng ta đã có đủ điều kiện để áp dụng thuế GTGT chưa và điều kiện cần thiết để áp dụng thuế GTGT ở Việt nam là gì?
Thật vậy, để phát huy giá trị tích cực của luật thuế GTGT đòi hỏi chúng ta phải tạo ra được các điều kiện cần thiết để thực loại thuế này như :
-Các hoạt động SXKD, mua bán hàng hoá lớn và vừa phải thực hiện đầy đủ chế độ chứng từ hoá đơn, thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh.
-Mọi hoạt động thanh toán giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đều được thực hiện qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng thanh toán bằng tiền mặt giữa các tổ chức này.
-Thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý và thu thuế, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý thuế về chế độ hoá đơn chứng từ, sổ kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT. Cơ quan thuế từng bước trang bị hệ thống máy vi tính, cán bộ ngày càng thông thạo về sử dụng các mạng máy vi tính, đạt hiệu quả cao.
-ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành luật thuế của các nhà doanh nghiệp từng bước được nâng lên theo phương châm tăng cường “đức trị”gắn với việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm “pháp trị”.
-Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện pháp luật vào nền nếp, kỷ cương cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tế.
Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau, đồng thời có mối quan hệ bổ xung , hỗ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế GTGT được đồng bộ, đạt kết quả tốt.
Thông qua những đIều kiện cần thiết đó thì Việt nam nên áp dụng luật thuế GTGT theo mô hình nào cho phù hợp với tình hình trước mắt và lâu dài của Việt nam? Và hiện nay luật thuế GTGT đã có những quy định gì mới?
II. Sửa đổi, bổ sung thuế GTGT. Một số quy định mới.
Qua sơ kết thời gian đầu triển khai luật thuế GTGT vẫn còn một số vấn đề vướng mắc cần nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở tổng hợp các vướng mắc từ doanh nghiệp và ý kiến của các bộ, các ngành địa phương ngày 27/10/2000 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành nghị quyết số 240/2000/NQ-UBTVQH 10 về sửa đổi và bổ xung danh mục, hành hoá, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2001 nhằm tiếp tục tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Theo đó một số vấn đề lớn của luật thuế GTGT được sửa đổi, bổ xung như sau:
Về sửa đổi bổ xung danh mục hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT:
Tại điều 4 Luật thuế GTGT quy định 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT, nay bổ xung: thiết bị, máy móc, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tảI chuyên dùng và vật tư cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò phát triển mỏ dầu khí mà trong nước chưa sản xuất được; hoạt động kinh doanh chứng khoán; quà tặng , quà biếu cho các nhân ở Việt nam theo mức độ quy định của Chính phủ; phần mềm máy tính tiêu thụ trong nước. Việc bổ sung một số nhóm hàng hoá, dịch vụ này vào nhóm không chịu thuế GTGT nhằm khuyến khích hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu khí phù hợp với luật dầu khí mới được sửa đổi, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát hành và kinh doanh chứng khoán, khuyến khích huy động các nguồn vốn dài hạn trong nước và nước ngoài để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đặc biệt việc bổ xung phần mềm máy tính không chịu thuế GTGT khi bán trong nước là chính sách ưu đãi cao nhất để khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất sản phẩm và làm dịch vụ phần mềm tại Việt nam.
Về thuế suất thuế GTGT
Bổ sung hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu, phần mềm máy vi tính xuất khẩu, sửa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải cho nước ngoài và dịch vụ xuất khẩu lao động được áp dụng mức thuế suất 0%, doanh nghiệp được hoàn khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào nhằm hạ thấp giá bán sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế.
Điều chỉnh một số hàng hoá, dịch vụ từ nhóm thuế suất 10% xuống nhóm thuế suất 5%. Trước đây Chính phủ đã xử lý tạm giảm thuế GTGT cho một số nhóm hàng hoá, dịch vụ trong quá trình triển khai thuế GTGT nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn cho doanh nghiệp. Qua gần hai năm thực hiện, việc tạm giảm đã góp phần làm ổn định sản xuất kinh doanh nên Uỷ ban thường vụ Quốc hội chính thức cho điều chỉnh mức thuế suất từ 10% xuống 5% bổ sung thêm một số hàng hoá, dịch vụ doanh nghiệp sản xuất hiện nay tuy gặp khó khăn như : sản phẩm luyện cán, kéo kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý, trừ vàng nhập khẩu. Quy định tại khoản 24, điều 4 của luật thuế GTGT :khuôn đúc các loại, dây cáp điện sử dụng cho điện áp từ 600V trở lên, máy vi tính, cụm linh kiện máy vi tính, vật liệu nổ, que hàn, đá mài, giấy in báo, bình bơm thuốc trừ sâu...Những mặt hàng này phần lớn là những sản phẩm để sản xuất ra tư liệu sản xuất, một số là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu được áp dụng mức thuế suất thấp nhất, tạo điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp phát huy nội lực phấn đấu sản xuất kinh doanh có hiệu qủa.
Ngoài những vấn đề được quy định ở luật và nghị quyết của UBTVQH, Chính phủ đã có Nghị định số 102/1998/NĐ-CP giải quyết về việc khấu trừ thuế từ 3%-5% đối với một số sản phẩm mua của người trực tiếp sản xuất không có hoá đơn hoặc có hoá đơn thông thường, nhưng trong quá trình thực hiện đã phát sinh bất hợp lý. Thời gian tới, trong Nghị định hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 240, có thể Chính phủ sẽ quy định cụ thể việc khấu trừ thuế theo hướng: các loại hàng hoá nông sản, lâm sản, thuỷ sản mua trực tiếp của người sản xuất, các loại đất, đá, cát sỏi mua của người trực tiếp khai thác; phế liệu mua của người thu gom không có hoá đơn mà chỉ có bản kê thì được khấu trừ theo mức thống nhất là 2% giá trị hàng hoá mua vào ghi trên bảng kê. Trường hợp mua hàng hoá có hoá đơn thông thường được khấu trừ 3%. Việc khấu trừ này được áp dụng cho cả hàng hoá, dịch vụ trong nước và xuất khẩu. Đây là một bước chuyển tiếp để trong một vài năm nữa khi nghiên cứu hoàn thiện luật thuế sẽ bỏ hản việc khấu trừ thuế mang tính ấn định này để đưa việc sử dụng hoá đơn chứng từ vào nền nếp, nâng cao công tác hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp.
Về hồ sơ hoàn thuế
Hồ sơ hoàn thuế đối với doanh nghiệp là các bản kê khai nộp thuế hàng tháng kèm theo văn bản đề nghị hoàn thuế. Đối với những trường hợp đề nghị hoàn thuế theo quy định tại Thông tư số 93/1999/TT-BTC ngày 28/7/1999, nếu bản kê khai của các tháng đã kê khai đúng thì đối tượng xin hoàn thuế chỉ cần gửi công văn xin hoàn thuế ghi rõ số thuế đề nghị hoàn theo bản kê khai nộp thuế của những tháng nào, nếu có đIều chỉnh số liệu đã kê khai, đơn vị xin hoàn thuế phải gửi bản giải trình bổ sung.
Ngoài các hồ sơ phải gửi đến cơ quan thuế theo quy định, các hồ sơ khác liên quan đến hoàn thuế, khấu trừ thuế, các đối tượng đề nghị hoàn thuế. Khi cơ quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra hoàn thuế tại cơ sở, cơ sở có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hoá đơn, chứng từ và hồ sơ có liên quan làm cơ sở xác định số thuế GTGT phải nộp hoặc được hoàn
Các đối tượng được hoàn thuế khi lập và gửi hồ sơ hoàn thuế đến cơ quan thuế phải kê khai đúng, trung thực các số liệu và chịu trách nhiệm trước pháp luật
Về phía cơ quan thuế có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ hoàn thuế và xem xét giải quyết đúng theo quy trình và thời hạn quy định
Khi xem xét hồ sơ hoàn thuế, cơ quan thuế không yêu cầu các doanh nghiệp và các đối tượng được hoàn thuế GTGT gửi cho cơ quan thuế bản sao các hoá đơn chứng từ, biên lai nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu, hợp đồng kinh tế, tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu và các tài liệu khác không quy định gửi kèm theo hồ sơ hoàn thuế.
Đối với những hồ sơ hợp lệ, cơ quan thuế kiểm tra số liệu trên hồ sơ để xác định số hoàn thuế cho đơn vị. Đối với những hồ sơ lập chưa đúng quy định, cơ quan thuế phải thông báo bằng văn bản cho đối tượng biết trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ hoàn thuế ( hai ngày đối với hồ sơ hoàn thuế của dự án sử dụng nguồn vốn ODA ). Trường hợp không thuộc đối tượng hoàn thuế cũng thông báo và gửi trả hồ sơ trong thời gian quy định.
Các trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm các quy định về hoá đơn, chứng từ, số liệu kê khai không đúng, cơ quan thuế có thể áp dụng các biện pháp xác minh, đối chiếu một số hoá đơn, chứng từ, số liệu kê khai trước khi hoàn thuế.
Cơ quan thuế có quyền ấn định thuế GTGT phải nộp đối với các đối tượng nộp thuế trong các trường hợp sau:
-Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các chế độ hoá đơn chứng từ.
-Không kê khai hoặc quá thời gian quy định gửi tờ khai mà đã được gửi thông báo nhắc nhở nhưng vẫn không thực hiện đúng, đã nộp tờ khai thuế nhưng kê khai không đúng các căn cứ xác định thuế GTGT.
-Kinh doanh nhưng không có đăng ký kinh doanh, không đăng ký kê khai nộp thuế mà bị kiểm tra phát hiện.
Với những sửa đổi, bổ sung và hướng điều chỉnh nói trên, về vấn đề cơ bản đủ giải quyết một số vướng mắc về thuế cho doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện tốt cho việc thực hiện cải cách hành chính trong kĩnh vực thuế.
III. Những thành tựu và tồn tại sau khi áp dụng sắc thuế GTGT.
Những thành tựu đã đạt được:
Trong năm đầu triển khai các luật thuế mới, đặc biệt là thuế GTGT tuy còn gặp nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Bộ chính trị, của UBTVQH và sự điều hành của Chính phủ, cùng với sự cố gắng của các ngành, các cấp, của nhiều cơ quan đoàn thể, sự hưởng ứng của các đối tượng nộp thuế và sự đồng tình của nhân dân, sự nỗ lực của nghành tài chính, ngành thuế. Đến nay, sau hơn hai năm thực hiện cho thấy các luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, sản xuất kinh doanh, bước đầu đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế-xã hội nước ta.
Trước hết, việc thực hiện thuế GTGT thay cho thuế doanh thu đã góp phần khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh.
Thật vậy, với việc thực hiện luật thuế GTGT đã tạo diều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10%. Như ta đã biết, trong những năm gần đây nguồn vốn ODA ngày càng đóng vai trò quan trọng góp phần phát triển nền kinh tế-xã hội đất nước. Nguồn vốn này đã và đang sử dụng đầu tư cho hàng trăm dự án thuộc nhiều lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, năng lượng, y tế, giáo dục. Để thu hút thêm nhiều nguồn vốn ODA hơn nữa, đồng thời đẩy nhanh tốc độ giải ngân, sớm đưa dự án công trình đi vào sử dụng phát huy hiệu quả. Chính phủ, Bộ tài chính cùng nhiều ngành chức năng đã ban hành nhiều chính sách tạo sự thuận lợi thông thoáng nhằm thúc đẩy nhanh việc ký kết, thực hiện các dự án ODA. Đó là hàng hoá thuộc nguồn viện trợ và ODA không hoàn lại thuộc diện chịu thuế GTGT. Sự điều chỉnh bổ sung chính sách thuế GTGT đều thể hiện xu hướng ngày càng tạo sự thuận lợi, thông thoáng trong việc triển khai dự án sử dụng vốn ODA. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1999 tăng 14,1% so với năm trước.
Tác dụng tích cực nhất của thuế GTGT là kích thích tối đa hoạt động xuất khẩu, vì hàng xuất khẩu được áp dụng mức thuế suất 0% có nghĩa là không những không phải nộp thuế đầu ra mà còn được hoàn lại thuế đầu vào, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế. Kim nghạch xuất khẩu năm 1999 tăng 23,18% so với năm trước, 10 tháng đầu năm 2000 cũng tăng 26,4%.
Sau một thời gian thực hiện luật thuế GTGT, có thể nói hầu hết các doanh nghiệp đã quen với quy trình quản lý mới, đã thực hiện tốt việc kê khai nộp thuế và đảm bảo thời gian theo quy định của luật. Về phía cơ quan thuế đã tăng cường hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm tra các đối tượng nộp thuế nên việc tính thuế đến nay đã có nhiều tiến bộ. Nhờ cố gắng nỗ lực của cả doanh nghiệp và ngành thuế nên kết quả thu Ngân sách ở một số lĩnh vực kinh tế đã đạt được yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra.
Kết quả thu khả quan nhất là khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Hết tháng 11/1999 ước thu được 14.000 tỷ đồng-đạt 98,4% dự toán năm. Số thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài-đạt 102,6% dự toán năm. Thuế GTGT hàng nhập khẩu đạt 75,7% so với dự toán năm. Hồ sơ xin hoàn thuế và số thuế được hoàn tăng. Số thuế được hoàn tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩuvà ngành sản xuất hàng xuất khẩu của các ngành thương mại. Trong đó, các mặt hàng được hoàn thuế nhiều nhất là mặt hàng nông sản.
Ngoài ra, trong lĩnh vực công nghiệp điện tử, tin học, những khó khăn do đặc thù của ngành này được tháo gỡ một phần ( việc phân loại mã số chi tiết từ 3700 dòng thành 7000 dòng đã cho phép tách nhiều sản phẩm, hàng hoá, sản phẩm tin học rất mới mẻ, phức tạp, đặc biệt là sản phẩm phần mềm tin học, ra khỏi những sản phẩm thông thường, không thuộc diện ưu đãi trong sản xuất. Việc bỏ các quy định giá tối thiểu( mà theo hoá đơn) để tính thuế nhập khẩu, điều này rất phù hợp với thay đổi mẫu mã, giá cả cực kỳ nhanh của các sản phẩm, hàng hoá điện tử.
Nhìn chung, việc áp dụng thuế GTGT đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển vững chắc. Để đạt được những kết quả kể trên, nguyên nhân quan trọng là sự đồng tình hưởng ứng của nhiều doanh nghiệp, lại được các cấp, các ngành, các địa phương tập trung thống nhất chỉ đạo, thống nhất từ nhận thức tư tưởng đến các biện pháp triển khai, kịp thời nắm bắt các vấn đề tồn tại, vướng mắc để kiến nghị, điều chỉnh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Một trong những biện pháp điều hành có hiệu quả là việc sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 90/1999/NQ/UBTVQH ngày 3/9/1999 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các Nghị định của Chính phủ điều chỉnh giảm 50% thuế GTGT cho phần lớn các loại hàng hoá, dịch vụ đồng thời áp dụng ché độ miễn giảm thuế trong thời gian đầu đối với đơn vị gặp khó khăn, mở rộng diện đơn vị cho khấu trừ thuế đầu vào đối với một số mặt hàng, nhất là hàng hoá thiết yếu, đây là hình thức trợ giá của Nhà nước nhằm nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân.
2.Những tồn tại sau khi áp dụng thuế GTGT.
Bên cạnh những mặt tiến bộ, những thành tựu đã đạt được thì việc thực hiện thuế GTGT cũng bộc lộ không ít những thiếu sót, nổi bật là tình trạng xin hoàn thuế trong những tháng cuối năm 1999. Theo số liệu của Tổng cục thuế, số thuế đã hoàn trả lại cho các doanh nghiệp trong tháng 9/1999 ước tính bằng số thuế hoàn của cả nửa năm trước đó cộng lại.
Trong số thuế hoàn này, bước đầu các cơ quan chức năng kiểm tra đã phát hiện ra sự gian lận qua kê khai thuế của một số doanh nghiệp. Trên thực tế, các cơ sở kinh doanh có thể sử dụng các biện pháp khác nhau để làm sai lệch số giá trị gia tăng thêm và mức thuế suất để trốn thuế. Sau đây là một số hình thức gian lận:
Một là: Khai khống hoá đơn đầu vào:
Để xác định dược số thuế đầu vào, luật thuế GTGT quy định: Doanh nghiệp phải có đầy đủ chứng từ, hoá đơn hợp lệ ghi rõ số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hóa đơn hàng hoặc hoá đơn thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào. Lợi dụng quy định này, một số doanh nghiệp đã sử dụng hoá đơn thật để ghi khống các khoản thuế và chi phí hàng hoá, dịch vụ hợp lý để khấu trừ thuế đầu ra hoặc tăng chi phí nhằm trốn thuế, hàn thuế. Như vậy, hoá đơn là có thật nhưng hàng hoá, dịch vụ thể hiện trên hoá đơn là không có thật.
Kết quả kiểm tra của một số cơ quan thuế địa phương cho thấy, một số cửa hàng kinh doanh xăng dầu, bán lẻ cho người tiêu dùng không cần hoá đơn, sau đó thoả thuận với một số doanh nghiệp xuất hoá đơn khống cho phần xăng dầu bán lẻ. Doanh nghiệp này sử dụng hoá đơn khống để hợp lý chi phí đầu vào, khấu trừ thuế đầu ra nhằm trốn thuế chia nhau. Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh phát hiện công ty TNHH Phước Bình sử dụng 5 hoá đơn khống của công ty TNHH Việt Vạn Đại chiếm dụng 78 triệu đồng tiền thuế và trả “hoa hồng” cho công ty TNHH Việt Vạn Đại 30% số thuế chiếm dụng. Điển hình cho thủ đoạn gian lận và chiếm dụng tiền Ngân sách Nhà nước là vụ HTX thương mại, dịch vụ tổng hợp Vạn Lợi. HTX Vạn Lợi được Cục thuế An Giang cung cấp 25 cuốn hoá đơn GTGT và được hướng dẫn về luật thuế GTGT và sử dụng hoá đơn cũng như chính sách về khấu trừ thuế đầu vào cho các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng lương thực và nông sản thực phẩm. Thấy được nhu cầu về hoá đơn GTGT trong việc mua bán lương thựcvà nông phẩm của các đơn vị kinh doanh mặt hàng này, HTX Vạn Lợi thay vì kinh doanh lương thực, nông sản thực phẩm đã quay sang kinh doanh hoá đơn GTGT khống để kiếm lời bất chính. Qua đó đã gây thiệt hại cho nhà nước 26 tỷ 600 triệu đồng.
Hai là, không xuất hoá đơn khi ban hàng làm giảm giá thanh toán đầu ra để trốn thuế hoặc hoàn thuế. Đó là trường hợp công ty xà phòng Hà nội nhập một lượng hoá chất lớn rồi bí mật giao cho Liên doanh Lerver Haso, hàng chuyển đi song không xuất hóa đơn mà báo cáo là hàng bị tồn kho. Do số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT đầu ra nên công ty đã nhận được 1,8 tỷ đồng tiền hoàn thuế trong 6 tháng đầu năm 1999. Đây là thủ đoạn rất tinh vi làm thất thoát Ngân sách Nhà nước.
Ba là, ghi giá trong hoá đơn bán hàng thấp hơn giá thực tế để trốn thuế GTGT. Do người tiêu dùng trực tiếp không dùng hóa đơn khi mua hàng nên một số doanh nghiệp đã lợi dụng, lấy hoá đơn này ghi khống giá bán hàng thấp hơn giá thực tế để giảm giá thanh toán đầu ra nhằm trốn thuế GTGT. Thủ đoạn này đã được sử dụng trong trốn thuế doanh thu trước đây và hiện nay vẫn tiếp tục phát triển.
Bốn là,gian lận trong việc xác định mức thuế suất đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT.
Ví dụ: Quặng để sản xuất phân bón chịu thuế suất là 5%.
Quặng để sản xuất công nghiệp chịu suất thuế là 10%.
Sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp chịu suất thuế là 5%.
Sản phẩm cơ khí phục vụ công nghiệp chịu suất thuế là 10%.
Quy định như trên đã tạo ra kẽ hở cho một số doanh nghiệp có sản phẩm phục vụ cho các lĩnh vực khác nhau có điều kiện nhập nhằng để trốn thuế thông qua gian lận thuế suất.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do thuế GTGT là một sắc thuế mới được áp dụng ỏ nước ta. Do đó, có những khó khăn, lúng túng trong tổ chức thực hiện là một tất yếu khách quan. Mặt khác, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp kém, nhiều sơ sở kinh doanh tư nhân không sử dụng sổ sách kế toán hoá đơn cũng gây khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện thuế GTGT. Chính vì lý do đó mà hiện nay có hai quan điểm trái ngược nhau.
IV. Một số kiến nghị sau thời gian thực hiện thuế GTGT.
Tại cuộc hội thảo khoa học dưới tiêu đề “ Kiến nghị, giải pháp khắc phục vướng mắc trong thực hiện luật thuế GTGT”, phần lớn các tham luận đều khẳng định việc áp dụng thuế GTGT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Song cũng có ý kiến cho rằng việc đưa nhanh thuế GTGT vào hầu hết các ngành kinh tế đang ở một thời điểm không thuận lợi, nền kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng nặng bởi khủng hoảng tài chính kinh tế khu vực, là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh. Mặt khác, những công việc chuẩn bị cho một quy trình áp dụng thuế GTGT chưa thật kỹ lưỡng ở 3 cấp độ: cơ quan ban hành, cơ quan hành thu, đối tượng chịu thuế do đó phát sinh nhiều vướng mắc.
Xuất phát từ tồn tại hai phương pháp tính thuế, đối tượng tính thuế bị phân biệt nhiều theo 4 mức thuế suất và quá nhiều ngoại lệ. Sự phức tạp, mâu thuẫn này chính là nguyên nhân làm cho thuế GTGT chưa thực sự đi vào đời sống kinh tế của đất nước.
Về hệ thống tổ chức quản lý thực hiện luật thuế GTGT chưa đồng bộ. Trang thiết bị phương tiện và công cụ hiện chưa tương xứng với yêu cầu quản lý. Chương trình thực hiện quản lý thuế theo hệ thống vi tính chưa thể áp dụng đầy đủ các khâu quan trọng và còn rất yếu. Có thể nói yêu cầu đặt ra cho ngành thuế là quá cao so với trinh độ hiện nay của nền kinh tế.
Về thuế suất GTGT có kiến nghị đòi giảm trừ một phần tỷ lệ phần trăm cho những doanh nghiệp nào có tỷ trọng thanh toán qua ngân hàng ngày càng cao. Bên cạnh đó, kiến nghị với Chính phủ ban hành quy định phục hồi thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt đã từng được áp dụng trước đây. Mặt khác, thủ tục hoàn thuế trước, sau kiểm tra cũng nên áp dụng ngay cho doanh nghiệp nao sử dụng phương tiện thanh toán chủ yếu qua ngân hàng để doanh nghiệp thấy rõ lợi ích của chủ trương này.
Có kiến nghị nên đơn giản hoá hệ thống thuế suất theo 3 mức 0%, 5%,10%, bỏ mức 20% đối với các loại hàng hoá cần điều tiết nhiều hơn 10%, có thể đưa vào danh mụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33904.doc