MỞ ĐẦU .1
ChƯơng 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.14
1.1. Nguồn tài liệu của luận án.14
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.14
1.3. Các khái niệm đƯợc dùng trong luận án .25
ChƯơng 2: CƠ SỞ CỦA SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN
NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI
HIỆN NAY.
2.1. Cơ sở triết lý của Phật giáo.
2.1.1. Triết lý nhân sinh tùy duyên của Phật giáo not
defined.
2.1.2. Triết lý nhân sinh từ bi của Phật giáo not
defined.
2.2. Cơ sở địa kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và tín ngƯỡng thờ
cúng truyền thống của ngƯời dân Hà Nội hiện nay
2.2.1. Cơ sở địa kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội not
defined.
2.2.2. Cở sở tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội
hiện nay . 
2.3. Cơ sở lịch sử truyền thống của Phật giáo trong sự hội nhập
2.3.1.Tính tương đồng giữa tín ngưỡng Phật giáo và tín ngưỡng
truyền thống. 
2.3.2. Tính tương đồng giữa triết lý nhân sinh trong Phật giáo và triết lý
nhân sinh trong cộng đồng làng xã của người dân Hà Nội.
Tiểu kết chƯơng 2.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
47 trang | 
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 759 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự hội nhập phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am gia vào 
lễ hội [Xem 30,tr173 - 174]. 
* Cơ sở lý luận của luận án 
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh về tôn giáo, quan điểm, đường lối chính sách của Đảng nhà nước ta 
về tín ngưỡng tôn giáo, một số quan điểm khoa học về tôn giáo của các nhà 
nghiên cứu trong và ngoài nước. 
* Phương pháp nghiên cứu của luận án 
Luận án kết hợp sử dụng một số phương pháp khác nhau nhằm đảm 
bảo tính hiệu quả và độ tin cậy của các thông tin thu thập được (thực địa và tài 
liệu có sẵn). Các phương pháp được sử dụng trong luận án là phương pháp 
chuyên ngành và liên ngành như tôn giáo học, nhân học tôn giáo, văn hóa 
học, triết họccùng các phương pháp tổng hợp, so sánh, khái quát hóa. Cụ 
thể như: 
Chúng tôi sử dụng phương pháp Quan điểm lịch sử để thấy được truyền 
thống văn hóa nói chung, văn hóa tôn giáo nói riêng diễn biến vừa liên tục, 
vừa gián đoạn, trong đó tính liên tục là cơ bản, tính gián đoạn chỉ có tính tạm 
thời. Quy luật thừa kế lịch sử là biểu hiện cơ bản cho tính độc lập tương đối, 
tính có thể nhận thức được những giá trị văn hóa trong các tín ngưỡng thờ 
12 
cúng truyền thống, sau khi chúng chịu sự tác động của tôn giáo ngoại nhập. 
Vì vậy, cần phải bảo tồn những nghi lễ truyền thống này, vì đây chính là 
những giá trị văn hóa bản địa đã được bồi đắp. Do vậy, không chỉ quan điểm 
triết học Mác xít có quan điểm này mà những quan điểm tiến bộ có tính trung 
hòa như quan điểm của UNESCO cũng coi “văn hóa phản ánh và thể hiện 
một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra 
trong quá khứ và cũng đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ nó đã 
cấu thành nên một hệ thống giá trị truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa 
trên đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình” [136,tr 218]. 
Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu: phương pháp này được áp 
dụng trong quá trình nghiên cứu tại thực địa, tại các thư viện ở cấp quốc gia, ở 
cấp tỉnh. Đồng thời phương pháp này còn sử dụng trong việc sàng lọc các tư 
liệu lưu trữ dưới dạng văn bản (bài khấn, gia phả, cách thức khấn) tại các 
địa bàn nói trên. 
Phương pháp điền dã dân tộc học/ nhân học với công cụ chính là 
phỏng vấn sâu người dân, phỏng vấn nhóm, nhằm thu thập những thông tin tư 
liệu cho luận án tại các địa bàn nghiên cứu. Trong đó vấn đề trọng tâm mà 
luận án quan tâm là nghiên cứu Phật giáo và các tín ngưỡng thờ cúng truyền 
thống của người dân các làng để chỉ ra sự hội nhập của Phật giáo với văn hóa 
bản địa và sự biến đổi của chúng trong giai đoạn hiện nay. 
Phương pháp điều tra xã hội học: với mục đích có những số liệu định 
lượng nhằm chứng minh cho một số nhận định khi nghiên cứu định tính nếu 
thấy cần thiết. 
Phương pháp phỏng vấn ăng két: với mục đích có những số liệu nhằm 
lượng hóa những hành vi của cá nhân trong nghi lễ thờ cúng và những quan 
điểm, cách nghĩ, những thực hành tôn giáo thường ngày. Chúng tôi đã thiết kế 
13 
bảng ăng két dành cho những tín đồ của Phật giáo ở các làng được lựa chọn 
khảo cứu. 
6. Kết cấu của luận án 
Ngoài các phần Mục lục; Mở đầu, Kết luận; Danh mục các công trình 
khoa học của tác giả, đã công bố liên quan đến luận án; Tài liệu tham khảo và 
Phụ lục, Nội dung của luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết. 
14 
Chƣơng 1: 
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 
1.1. Nguồn tài liệu của luận án 
- Tài liệu chính của luận án là những tác phẩm, bài viết nghiên cứu về 
hội nhập văn hóa, hội nhập tôn giáo; các tư liệu điền dã: gồm phỏng vấn sâu, 
điều tra hồi cố, các ghi chép quan sát, tham dự... 
- Các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của cấp ủy, chính quyền và các 
ban ngành đoàn thể ở các địa phương được khảo sát. 
- Luận án kế thừa những kết quả nghiên cứu trong nước và ngoài nước 
về vấn đề hội nhập tôn giáo nói chung; hội nhập Phật giáo và tín ngưỡng thờ 
cúng truyền thống của người Việt nói riêng. 
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 
Sự hội nhập văn hóa nói chung, hội nhập tôn giáo nói riêng là vấn đề 
thu hút được rất nhiều sự quan tâm, chú ý của các nhà khoa học trong và 
ngoài nước, thuộc các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, để phục vụ cho đề tài 
luận án, chúng tôi tập trung sự chú ý các tác phẩm thuộc lĩnh vực triết học, 
tôn giáo học, nhân học tôn giáo và văn hóa học. Để phục vụ công tác nghiên 
cứu, chúng tôi tìm hiểu các tài liệu ở 3 chủ đề chính: 
- Phật giáo Hà Nội 
- Các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Hà Nội 
- Sự hội nhập Phật giáo với các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống. 
Chủ đề thứ nhất: Phật giáo Hà Nội 
Trước hết là các công trình sách: Để tìm hiểu về Phật giáo Hà Nội, 
chúng ta không thể bỏ qua những kiến thức cơ bản về Phật giáo Việt Nam: 
lịch sử Phật giáo, văn hóa Phật giáo..., bởi Phật giáo Hà Nội là một phần Phật 
15 
giáo Việt Nam. Phật giáo có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, đã khẳng định được 
vị trí vững chắc của mình trong đời sống tinh thần người Việt, chính vì vậy có 
rất nhiều công trình nghiên cứu công phu, của các tác giả lớn: "Lịch sử Phật 
giáo Việt Nam" (1989) của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), "Việt Nam Phật giáo 
sử luận (3 tập)" (2008) của Nguyễn Lang, "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" 
(2001) của Lê Mạnh Thát (2 tập), "Tư tưởng Phật giáo Việt Nam" (1999) của 
Nguyễn Duy Hinh... Các tác phẩm trên đều đề cập đến những vấn đề cơ bản 
của Phật giáo nói chung: nguồn gốc ra đời Phật giáo, giáo lý cơ bản Phật giáo, 
lịch sử Phật giáo với sự phân chia, hình thành các tông phái, sự truyền bá Phật 
giáo ở các vùng lãnh thổ khác nhau, quá trình du nhập Phật giáo vào Việt 
Nam, Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử Những nội dung này đều 
được phân tích một cách khúc triết dưới lăng kính của các nhà sử học, văn 
hóa học uy tín. 
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy trong cuốn sách “Phật giáo với văn 
hóa Việt Nam” đã chỉ ra những đóng góp của Phật giáo với văn hóa Việt 
Nam, những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống người Việt, đó cũng 
chính là con đường Phật giáo thâm nhập, ăn sâu, bám rễ vào xã hội Việt Nam, 
giúp Phật giáo có chỗ đứng vững chắc hơn, bền lâu hơn để ngày càng phát 
triển. Tác giả Trần Văn Giàu có tác phẩm “Đạo đức Phật giáo trong thời hiện 
đại” đã chỉ ra những giá trị đạo đức Phật giáo phù hợp, cần thiết trong đời 
sống hiện đại. Dựa vào đó chúng ta có thể xem xét khả năng “cân bằng”, 
“điều chỉnh” hành vi đạo đức Phật giáo, điều rất cần thiết trong bối cảnh đạo 
đức xã hội hiện nay, để Phật giáo trở thành “nhu cầu” của xã hội hiện đại. 
Khái quát được toàn bộ vai trò của Phật giáo Việt Nam, Đặng Văn Bài (2008) 
qua chuyên khảo, "Nhận diện để phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo 
Việt Nam", đã nêu lên những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Phật 
giáo đó là, du nhập vào Việt Nam sớm, thể hiện khả năng hòa đồng, tính 
16 
khoan dung, tinh thần dân chủ, bình đẳng, ảnh hưởng rộng rãi trong quần 
chúng, nhất là đối với những người nghèo khổ, gắn bó với cộng đồng làng xã 
thể hiện ở những mái chùa làng; Phật giáo gắn đạo với đời, đồng hành cùng 
dân tộc trong lịch sử, góp phần thiết thực vào sự nghiệp dựng nước và giữ 
nước của dân tộc. 
Phật giáo Hà Nội cũng được đề cập đến trong nhiều công trình: Đỗ 
Quang Hưng có cuốn sách "Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long - Hà 
Nội", Nxb Hà Nội. Không chỉ dừng lại ở việc dựng lại lịch sử các tôn giáo 
cũng như các hình thức tín ngưỡng ở Hà Nội một cách “lịch sử” và “tách 
biệt”, mà bằng cách tiếp cận tôn giáo học tác giả đã giúp người đọc có một cái 
nhìn tổng quan về hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng của Thăng Long - Hà Nội, 
đồng thời còn cho bạn đọc nhìn thấy được đời sống tôn giáo tín ngưỡng của 
người Thăng Long qua các thời kỳ lịch sử. Trong đó có Phật giáo. 
 Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng (2005) có tác phẩm Chùa Hà Nội 
là cuốn sách viết về những ngôi chùa Phật giáo của mảnh đất Hà Nội, ở đó ta 
có thể tìm thấy những kiến thức về đạo Phật ở Việt Nam và Hà Nội, giáo lý 
đạo Phật và đạo Phật dân gian; kiến trúc và các pho tượng trong một ngôi 
chùa ở Việt Nam. Các ngôi chùa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa từ 
năm 1962 - 1994 ở Hà Nội. Và ta cũng có thể tìm thấy những kiến thức về 
cách bài trí, thờ cúng trong các chùa ở Hà Nội trong cuốn Chùa Hà Nội của 
Lạc Việt.... 
Ngoài ra còn có các công trình là đề tài cấp nhà nước, luận án, các bài 
tham gia hội thảo, đăng trên các tạp chí uy tín: 
 Tác giả Nguyễn Minh Ngọc và Minh Thiện có bài viết Phật giáo Hà 
Nội - quá trình du nhập và phát triển đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phật học 
đã cho thấy hiểu lịch sử Phật giáo ở Việt Nam nói chung và quá trình du nhập 
và phát triển của Phật giáo Hà Nội trong tiến trình lịch sử Việt Nam 
17 
Tác giả Trần Thị Kim Oanh trong bài viết "Vị thế của Phật giáo trong 
văn hóa Việt Nam" đăng trong Kỷ yếu Hội thảo 30 năm thành lập Giáo hội 
Phật giáo Việt Nam đã chỉ ra rằng, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo luôn 
đồng hành cùng dân tộc, nên trong giai đoạn hiện nay, khi mà vấn đề toàn cầu 
hóa và tác động của nó đối với sự phát triển văn hóa và con người Việt Nam 
vẫn giữ vai trò quan trọng. Trong bài viết này tác giả đã phân tích rất sâu sắc 
hoàn cảnh và những biến đổi hiện nay với nhu cầu hội nhập văn hóa. Từ đó chỉ 
ra những vai trò của Phật giáo trong hoàn cảnh mới, với văn hóa Việt Nam. 
Trong đó, tác giả khẳng định: “Có thể nói, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù trong 
lịch sử hay trong thời đại mới của dân tộc thì Phật giáo luôn là hiện thân rực rỡ 
nhất của sự bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta – một tôn giáo 
rất giàu tình đoàn kết, bác ái, bao dung...” [94,tr370]. 
Ở chủ đề thứ hai, các tác phẩm viết về các tín ngưỡng thờ cúng truyền 
thống của người dân Hà Nội. 
Nghiên cứu đề tài sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền 
thống của người dân, thì phải kể đến các tác phẩm, các công trình đề cập đến 
các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Việt nói chung, người Hà 
Nội nói riêng. 
Mảng các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Việt nói chung 
phải kể đến các công trình của các nhà nghiên cứu tên tuổi như: Nhà nghiên 
cứu Toan Ánh với các cuốn sách: Hội hè đình đám, Tín ngưỡng Việt Nam, 
Nếp cũ, Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam... là những tư liệu quý 
mà tác giả đã khảo cứu về đời sống tín ngưỡng của người Việt, có thể tìm 
thấy trong những tác phẩm này là những kiến thức về các tín ngưỡng truyền 
thống, các lễ hội độc đáo của người Việt; Phan Kế Bính có tác phẩm Việt 
Nam phong tục; Giáo sư Trần Quốc Vượng trong công trình nghiên cứu công 
phu: Văn hóa Việt Nam; Tác giả Trần Đăng Duy có tác phẩm: Các hình thái 
18 
tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, trong lời mở đầu tác giả viết: “Ở nước ta, tín 
ngưỡng tôn giáo như là cơm ăn nước uống, hàng trăm hàng nghìn năm nay, từ 
thời nguyên thủy còn tồn tại lại, sang thời xã hội phong kiến, cho đến ngày 
nay, chẳng một gia đình nào lại không có bàn thờ cúng, chẳng một làng ấp 
nào lại không có ngôi đình, đền, miếu thờ Thần, thờ Mẫu” [24,tr5], Văn hóa 
tâm linh người Việt miền Bắc, nxb Hà Nội, 1996 đề cập rõ nét hơn đến các tín 
ngưỡng người Việt vùng Bắc Bộ. 
Hồ Đức Thọ (Sưu tầm và biên soạn, 2002) có cuốn Nghi lễ thờ cúng 
truyền thống của người Việt tại nhà và chùa, đình, miếu, phủ, đã giới thiệu 
các nghi lễ truyền thống tại nhà và các danh sơn cổ tích đình, đền, chùa, 
miếu, cung cấp những kiến thức về việc thờ cúng tại các địa điểm trên một 
cách đầy đủ. 
Ở góc độ khác, các tác giả Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng Dương, Lê 
Hồng Lý (1999), với Nghi lễ vòng đời người, đã tập hợp các tư liệu cho chúng 
ta thấy được bức tranh tương đối đầy đủ và có hệ thống về những nghi lễ đời 
người của người Việt. 
Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh cũng có rất nhiều tác phẩm về vấn đề 
này, tiêu biểu như: Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nhận thức về đạo Mẫu và một số 
hình thức Shaman của các dân tộc nước ta... là những tư liệu quý viết rất sâu 
về Đạo Mẫu của Việt Nam, từ nguồn gốc ra đời cho đến sự biến đổi hiện nay. 
Viết về tín ngưỡng thờ cúng truyền thống người Hà Nội có rất nhiều tác 
phẩm của các nhà nghiên cứu khác nhau: 
Cuốn sách: “Hà Nội văn hóa và phong tục” của tác giả Lý Khắc Cung 
[Nxb Thanh Niên, 2000]. Dưới góc nhìn của một công trình khảo cứu, tác 
phẩm đưa đến cho người đọc những kiến thức về văn hóa của mảnh đất nghìn 
năm văn hiến về những di tích lịch sử, những phong tục, những lễ hội... của 
mảnh đất và con người nơi đây... 
19 
Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc đã dày công nghiên cứu về Hà Nội, 
và kết quả ông đã cho ra đời một chùm các tác phẩm viết về Hà Nội. Về đề tài 
đời sống văn hóa tín ngưỡng Hà Nội, tiêu biểu có các tác phẩm: Hà Nội cõi 
đất con người, trong đó tác giả đề cập đến Ngôi đình và tín ngưỡng thành 
hoàng Thăng Long, Đền Đồng Cổ, Lễ hội Hà Nội... Hợp tác với Nguyễn Duy 
Hinh, 2 tác giả có tác phẩm: Các Thành hoàng và tín ngưỡng Thăng Long – 
Hà Nội [Nxb Lao Động, 2009] viết rất sâu về thần tích, sự tích của hệ thống 
các Thành Hoàng ở Hà Nội, chủ yếu là khu vực nội thành, tương ứng với khu 
vực kinh thành Thăng Long xưa, phong tục thờ Thành Hoàng của người Hà 
Nội... Trong đó khẳng định: 
Những thần tích đó vừa là bằng chứng của tín ngưỡng dân gian, vừa là 
một thành phần của nền văn hóa dân gian. Nói cách khác, thần tích mà 
hiện nay còn lại chính là một sở hữu đồng thời một sáng tạo văn hóa 
phi vật thể của dải đất ngàn năm văn vật. Nó là tâm hồn, tư duy, là trí 
tưởng tượng, là quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của bao thế hệ cư 
dân sinh sống trên dải đất kinh kỳ này [99,tr3]. 
Tác giả Nguyễn Thế Long và Phạm Mai Hùng có chùm tác phẩm 
nghiên cứu về đời sống tôn giáo người Hà Nội, trong đó nổi bật cuốn sách: 
Đình và Đền Hà Nội [nxb Văn hóa Thông tin, 2005]. Các đình, đền... được 
giới thiệu những nét chủ yếu về thời gian xây dựng, quá trình tu sửa, thần tích 
của các vị thần và thành hoàng được thờ, giá trị kiến trúc và thẩm mỹ của các 
di vật cổ còn lưu lại, cũng như các lễ hội. Tác giả Văn Quảng đã biên soạn 
cuốn Văn hóa tâm linh Thăng Long Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 1000 năm 
Thăng Long – Hà Nội, cuốn sách là cái nhìn tổng quan về đời sống tâm linh 
người Hà Nội. Tác phẩm đã nêu lên được vị thế của đời sống tâm linh người 
Hà Nội trong lòng văn hóa Việt Nam, hệ thống các vị thần thánh được thờ ở 
Hà Nội và giới thiệu một số đình, chùa, miếu, phủ ở Hà Nội. 
20 
Liên quan khá trực tiếp đến đề tài nghiên cứu là tác phẩm viết về tín 
ngưỡng truyền thống của người Hà Nội giai đoạn hiện nay của tác giả Đỗ Thị 
Minh Thúy có tên: Tín ngưỡng dân gian Hà Nội trong đời sống văn hóa đô 
thị hiện nay. Ở đó, tác giả đã khái quát được những nét tiêu biểu của tín 
ngưỡng dân gian Hà Nội, những biến động của tín ngưỡng dân gian Hà Nội 
trong đời sống văn hóa đô thị hiện nay và tác giả đưa ra những giải pháp đối 
với việc quản lý tín ngưỡng dân gian. Trong tác phẩm này, TS. Đỗ Thị Minh 
Thúy đã viết rất sâu về hệ thống tín ngưỡng dân gian Hà Nội ở các phương 
diện: cơ sở thờ tự, sự thờ cúng,... 
Nhìn chung các tác phẩm viết về tín ngưỡng thờ cúng truyền thống 
và nghi lễ tôn giáo nói trên đã cung cấp cho người đọc những kiến thức về 
lĩnh vực tín ngưỡng truyền thống của người Việt nói chung, người dân Hà 
Nội riêng. 
Chủ đề thứ ba, Sự hội nhập Phật giáo với các tín ngưỡng thờ cúng 
truyền thống. 
Sự hội nhập hay tương tự là sự dung hợp, dung thông Phật giáo với các 
tín ngưỡng thờ cúng truyền thống được ít nhiều đề cập đến trong các nghiên 
cứu của các tác giả lớn: Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Phan Đại Doãn, Vũ 
Ngọc Khánh, tuy nhiên các tác giả này đều đề cập đến sự hội nhập Phật giáo 
với các tín ngưỡng của người Việt ở giai đoạn đầu du nhập. Ví như quan điển 
của nhà nghiên cứu Phan Đại Doãn trong Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử 
tư tưởng Việt Nam: " Phật giáo Dâu là sự lắp ghép, kết hợp giữa Phật giáo có 
nguồn gốc Ấn Độ với văn hóa Việt cổ (mà yếu tố thứ hai là chính) đã tạo 
thành một dòng Phật giáo dân gian độc đáo. Sơn môn này rất gần gũi với 
nhân dân làng xã nghèo khổ, khi mà họ không hiểu nhiều về tứ diệu đế, bát 
chính đạo" [20,tr10]. 
21 
Tác giả Lê Tâm Đắc trong bài viết Sự hỗn dung giữa Phật giáo với tín 
ngưỡng thủy thần qua nghiên cứu chùa Yên Phú, một ngôi chùa ở Huyện 
Thanh Trì, thành phố Hà Nội, đã cho ta thấy sự hỗn dung của Phật giáo với 
các tín ngưỡng bản địa, cụ thể ở đây là tín ngưỡng thờ thủy thần. trong bài 
viết này, tác giả cũng khẳng định: “Việc các ngôi chùa Việt truyền thống 
không những thờ các vị Phật, các vị hộ trì Phật pháp, mà còn thờ nhiều vị 
thần linh của các tôn giáo khác và các tín ngưỡng bản địa diễn ra phổ biến ở 
vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106,tr20]. Tác phẩm này đã đề cập đến sự hỗn 
dung giữa Phật giáo với tín ngưỡng thủy thần nhưng đây chỉ cho thấy một 
khía cạnh của sự hỗn dung. Cùng với Tạ Quốc Khánh, Lê Tâm Đắc còn có 
bài viết Tính hỗn dung của người Việt thể hiện qua đối tượng thờ trong các 
ngôi chùa ở Hà Nội. Trong đó khẳng định chùa ở Việt Nam nói chung, ở Hà 
Nội nói riêng thờ cúng nhiều loại thần thánh từ nhiều tôn giáo, tín ngưỡng 
cùng với thờ Phật. Những đối tượng thờ cúng này thuộc nhiều nhóm khác 
nhau: thần nông nghiệp, thần của các tôn giáo khác, thờ Mẫu, thờ vong hồn, 
thờ người có công xây chùa... 
Trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tác giả Bùi Trọng Hiền cũng có bài 
viết: Lan man về truyền thống hỗn dung tín ngưỡng của người Việt trong đó ít 
nhiều có đề cập đến sự dung hợp Phật giáo với các tôn giáo, tín ngưỡng thờ 
cúng khác ở Việt Nam. 
Liên quan đến chủ đề này, tác giả Đinh Thị Hà Giang có bài viết đăng 
trên Tạp chí Di sản văn hóa: Hỗn dung tôn giáo qua hiện tượng thờ Phật tại 
gia ở Việt Nam hiện nay, trong đó tác giả khẳng định: Hỗn dung tôn giáo hiểu 
một cách chung nhất chính là sự pha trộn của hai hay nhiều hệ thống tín 
ngưỡng với nhau trong cùng một hệ thống tín ngưỡng. Đây là vấn đề mang 
tính quy luật khách quan luôn xảy ra khi có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng cùng 
tồn tại trong cùng một nền văn hóa. Trong văn hóa Việt Nam, đây là một đặc 
điểm quan trọng và đặc điểm này biểu hiện rõ nét nhất trong Phật giáo. 
22 
* Đánh giá chung 
Các công trình nghiên cứu trên đây, ở các góc độ khác nhau đều đề cập 
ít nhiều liên quan đến đề tài luận án. Phật giáo Hà Nội được đề cập đến trong 
nhiều tác phẩm của các tác giả, tuy nhiên chỉ là sự đề cập "thoáng qua" khi 
viết về Phật giáo Việt Nam nói chung, chỉ được đề cập cụ thể trong một số ít 
các công trình như cuốn Đời sống tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội của Đỗ 
Quang Hưng, bài Phật giáo Hà Nội - quá trình du nhập và phát triển của 2 
tác giả Nguyễn Minh Ngọc và Minh Thiện,... Tuy nhiên, chưa có những đánh 
giá toàn diện về Phật giáo ở Hà Nội. Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng 
thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội có tương đối nhiều, tuy nhiên 
những nghiên cứu này thường thiên về sự mô tả từng loại hình tín ngưỡng. 
Còn viết trực tiếp về sự hội nhập (hay các vấn đề liên quan hỗn dung, dung 
hợp) giữa Phật giáo và các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống thì còn quá ít, 
vấn đề này chỉ được đề cập đan xen khi đề cập đến các vấn đề khác khi viết 
về Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là sự hội nhập cụ thể của Phật giáo với các tín 
ngưỡng thờ cúng truyền thống cụ thể ở Hà Nội thì hầu như còn "trống vắng". 
* Những vấn đề, luận cứ, luận điểm được Luận án tiếp thu, kế thừa 
- Về mặt lý luận: 
Trước hết, từ những công trình đã công bố về Phật giáo Việt Nam nói 
chung, Phật giáo Hà Nội nói riêng, các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của 
người dân Hà Nội; các công trình liên quan đến sự hội nhập tôn giáo, "hỗn 
dung" tôn giáo, dung hợp tôn giáo chúng tôi kế thừa những vấn đề lý luận của 
các nhà nghiên cứu đưa ra, đó là: Tôn giáo, tín ngưỡng là một hình thái ý thức 
xã hội vừa bị quy định bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình thái 
ý thức xã hội khác. Khi tồn tại xã hội thay đổi thì tín ngưỡng tôn giáo cũng 
thay đổi theo, "đáp ứng" nhu cầu của xã hội mà tồn tại, phát triển. Đó chính là 
cơ sở lý luận để chúng tôi triển khai vấn đề hội nhập Phật giáo và tín ngưỡng 
23 
thờ cúng truyền thống trên nền tảng những biến đổi, những "đòi hỏi" của điều 
kiện kinh tế xã hội Hà Nội hiện nay. 
Thứ hai, qua những tác phẩm, bài viết trên, các tác giả đã đưa ra khái 
niệm, định nghĩa, nội hàm của các vấn đề hội nhập, tín ngưỡng, tín ngưỡng 
truyền thống... Đó là những cơ sở lý luận, là công cụ giúp cho chúng tôi đi 
sâu nghiên cứu và triển khai Luận án 
- Về nội dung: 
Qua tổng quan những tác phẩm và bài viết về các vấn đề Phật giáo Việt 
Nam nói chung, Phật giáo Hà Nội nói riêng; Tín ngưỡng thờ cúng truyền 
thống của người Việt Nam nói chung, tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của 
người Hà Nội nói riêng; ; các công trình liên quan đến sự hội nhập tôn giáo, 
"hỗn dung" tôn giáo, dung hợp tôn giáo giúp chúng tôi hiểu thêm về bản chất 
sự hội nhập, giao lưu, tiếp biến văn hóa nói chung, bởi sự hội nhập Phật giáo 
và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống thực chất cũng chính là sự hội nhập văn 
hóa, ở đây là sự hội nhập của văn hóa ngoại lai (Phật giáo), văn hóa bản địa 
(các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống). 
Qua đọc các tác phẩm của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi 
cũng hiểu rằng, hội nhập Phật giáo và các tín ngưỡng thờ cúng truyền 
thống là một quá trình đã bắt đầu từ rất lâu trong lịch sử, bởi từ khi du nhập 
vào Việt Nam, Phật giáo đã lựa chọn con đường dung hợp, chung sống hòa 
bình với các tín ngưỡng, tôn giáo khác ở Việt Nam. Sự kết hợp giữa Phật 
giáo và các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa đã tạo ra ở Việt Nam một dòng 
Phật giáo dân gian hết sức độc đáo. Chính vì vậy, sự hội nhập hiện nay chỉ 
là sự tiếp nối quá trình đó, tuy nhiên nó có những đặc điểm riêng bị quy 
định bởi điều kiện hiện tại. Chính vì vậy, nghiên cứu sự hội nhập giữa Phật 
giáo và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay 
không tách rời quá trình đã diễn ra trước đó, mà phải coi nó là một phần 
nối tiếp của dòng chảy đó. 
24 
 * Những vấn đề còn bỏ trống được Luận án nghiên cứu 
Có thể nói vấn đề hội nhập của Phật giáo với tín ngưỡng, tôn giáo bản 
địa được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến trong nhiều tác phẩm, ở nhiều góc 
độ khác nhau nhưng chủ yếu đề cập đến sự hội nhập này trong các thời kỳ 
trước đó và chủ yếu lấy Phật giáo là chủ thể, đề cập đến biểu hiện ở sự hội 
nhập ở bản thân Phật giáo (Phật giáo đã tiếp thu những yếu tố gì, thích ứng 
với tín ngưỡng bản địa ra sao...). Ở Luận án này chúng tôi chủ yếu khai thác 
sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống trong giai đoạn 
hiện nay, với những biến đổi mạnh mẽ của đời sống kinh tế, xã hội dẫn đến sự 
biến đổi trong đời sống tâm linh của người dân, vì thế sự hội nhập diễn ra 
ngày càng mạnh mẽ trên nhiều phương diện khác nhau. Và chủ thể để xem 
xét biểu hiện sự hội nhập chúng tôi nghiên cứu chính là trong việc thực hành 
các nghi lễ thờ cúng của người dân. 
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực địa, chúng tôi chỉ ra những giá trị 
và các biện pháp bảo tồn giá trị văn hóa của sự hội nhập Phật giáo và các tín 
ngưỡng thờ cúng truyền thống. Địa bàn khảo sát của chúng tôi là thành phố 
Hà Nội nhưng chủ yếu tập trung ở làng đô thị hóa, các chùa tiêu biểu. 
Nhìn chung các tác phẩm trên đây thuộc các chủ đề phân chia đều là 
những công trình nghiên cứu rất công phu về các mảng đề tài, tuy nhiên chưa 
có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về sự hội nhập của Phật giáo đối với 
tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội, đặc biệt trong giai 
đoạn hiện nay, khi mà sự hội nhập diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên nhiều 
phương diện khác nhau. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Sự hội 
nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà 
Nội hiện nay” là đề tài nghiên cứu, trước hết là để lấp một phần vào mảng 
nghiên cứu đang còn mỏng những công trình về sự hội nhập giữa tôn giáo với 
văn hóa bản địa nói chung và Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống 
25 
nói riêng. Để trên cơ sở đó có những đề xuất ý kiến về việc gìn giữ giá trị văn 
hóa của sự hội nhập một cách sát thực hơn. 
1.3. Các khái niệm đƣợc dùng trong luận án 
- Hội nhập: Thuật ngữ này chính là thuật ngữ “Hội nhập quốc tế ” 
được nói ngắn gọn lại. Vì nó được dịch từ tiếng nước ngoài (Tiếng Anh: 
International integration, tiếng Pháp: Intégration internationale). 
Bởi vậy được hiểu: Là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng 
cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, 
nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật 
chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. 
- Hội nhập tôn giáo và tín ngưỡng: Chính là sự hội nhập văn hóa – 
xã hội. 
- Hội nhập văn hóa – xã hội: Là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa 
với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu 
các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa 
dân tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa – giáo dục và 
xã hội khu
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
02050004316_7082_2002780.pdf