MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY ĐỐI VỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM 7
1.1. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh 7
1.2. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta 16
1.3. Đặc điểm, nội dung và phương thức lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh 24
1.4. Những yếu tố chi phối sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh 38
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY ĐỐI VỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY 42
2.1. Thực trạng lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với tổ chứcvà hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai 42
2.2. Giải pháp đảm bảo sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai hiện nay 65
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
108 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3817 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ban cán sự đảng UBND tỉnh trong việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy và của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND tỉnh, trong đó có gắn với việc kiểm tra cán bộ, đảng viên là người lãnh đạo chủ chốt của HĐND và UBND tỉnh.
Hiện Tỉnh ủy Đồng Nai đã ban hành Quy chế phối hợp giữa Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy với Đảng đoàn HĐND tỉnh trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.
Những kết quả đạt được trong lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai thể hiện rõ nét như sau:
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được Đảng bộ tỉnh Đồng Nai vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào điều kiện cụ thể của địa phương. Với những kết quả đạt được trong các lĩnh vực, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với sự nghiệp đổi mới được khôi phục. Đảng bộ Đồng Nai đã lãnh đạo nhân dân tạo được thế và lực thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Và trong giai đoạn mới hiện nay (từ năm 2000 đến nay), sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong hai nhiệm kỳ VII và VIII đã có nhiều chuyển biến rõ nét, thể hiện sự đổi mới và tiến bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền tỉnh phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, đảm bảo giữa vững an ninh - quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, tạo thế vững chắc trong phát triển của một tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam bộ. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai luôn bám sát và triển khai thực hiện có hiệu quả mục tiêu tổng quát, phương hướng chung của Nghị quyết Đại hội VIII. Đã thực hiện đổi mới trên nhiều lĩnh vực, tiếp tục nâng cao năng lực và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ, phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị. Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (2006:14,40%; 2007: 15,15%; 2008: 15,40%), phát huy tốt nội lực, tạo bước chuyển mới về chất của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, nâng được tỷ trọng khu vực dịch vụ, tạo sự chuyển biến tích cực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với giữ vững quốc phòng-an ninh. Triển khai quan hệ hợp tác kinh tế-xã hội với một số tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Sự nghiệp giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ phát triển; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Giải quyết tốt các chính sách xã hội, tôn giáo-dân tộc, giảm nghèo và việc làm cho người lao động. Hoạt động văn hóa phong phú, đa dạng, được sự hưởng ứng của đông đảo quần chúng, đời sống tinh thần và mức sống của nhân dân trong tỉnh được nâng lên rõ nét. Đã có nhiều nỗ lực trong công tác cải cách hành chính, nâng chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp. Thực hiện tốt việc xây dựng phương thức hoạt động, phát huy tốt hơn vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong công tác vận động quần chúng.
HĐND các cấp trong tỉnh phát huy có hiệu quả vai trò của cơ quan dân cử. Các kỳ họp được chuẩn bị chu đáo, đúng luật; các nghị quyết được thông qua đạt sự thống nhất cao, sát thực tế, quyết định được nhiều vấn đề quan trọng của địa phương. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng hoạt động cho đại biểu HĐND các cấp; tổ chức thí điểm “về nâng cao chất lượng hoạt động và chất lượng giám sát của tổ đại biểu HĐND tỉnh, triển khai mở rộng ban HĐND xã thí điểm ở tất cả 11 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh; hoạt động giám sát được tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm.
Hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung, cấp tỉnh nói riêng được bảo đảm bằng hiệu quả các kỳ họp của HĐND, hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, các ban của HĐND và của các đại biểu HĐND. Như vậy, có thể nói rằng, hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp được bảo đảm trước tiên, cơ bản bằng hiệu quả các kỳ họp HĐND. Nói cách khác, kỳ họp HĐND có ý nghĩa quyết định bởi vì tất cả các hoạt động khác của HĐND, đại biểu HĐND đều được kết tinh trong các báo cáo, nghị quyết kỳ họp. Các vấn đề này thực chất là những vấn đề có ý nghĩa chủ đạo đối với đời sống của nhân dân và hoạt động của các cơ quan ở địa phương cấp mình. Theo Quy chế hoạt động của HĐND các cấp thì kỳ họp của HĐND là hình thức hoạt động chủ yếu (HĐND họp thường lệ mỗi năm 2 kỳ, công khai, khi cần thiết có những kỳ họp bất thường hoặc họp kín). Tỉnh Đồng Nai trong những năm gần đây, kỳ họp HĐND tỉnh đã có chuyển biến rõ nét, các đại biểu chất vấn nhiều hơn, việc trả lời cho cử tri có trách nhiệm hơn. Nhìn chung, HĐND tỉnh đã phát huy được vai trò đại diện cho cử tri; thực hiện tốt vai trò giám sát đối với việc thực thi pháp luật và quyền chất vấn của các đại biểu HĐND.
Bộ máy cơ quan nhà nước được củng cố, cơ bản đáp ứng được yêu cầu quản lý xã hội. Hoàn thành việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện theo chỉ đạo của Chính phủ; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Quan tâm củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở ở những vùng sâu, vùng xa, thực hiện quy định về thi tuyển, xét tuyển, thi nâng ngạch công chức, viên chức ở các cấp và thực hiện thí điểm ở một số cấp xã, phường. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, chính trị, phổ biến sâu rộng pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức; ban hành, thực hiện chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sĩ trong các lĩnh vực có nhu cầu nguồn nhân lực cao, phù hợp yêu cầu phát triển của tỉnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đã ban hành, triển khai các đề án, quy định về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; triển khai cơ chế một cửa, một cửa liên thông; triển khai công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy chế công chức và chế độ công vụ, đáp ứng kịp thời hơn nhu cầu chính đáng của công dân và doanh nghiệp.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy đối với chính quyền tỉnh được thể hiện rất rõ ở từng cấp độ các mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể:
+ Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh với Đảng đoàn HĐND tỉnh và Ban cán sự UBND tỉnh: Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh quyết định những chủ trương, định hướng nhiệm vụ, biện pháp quan trọng về phát triển kinh tế-xã hội ngân sách, quốc phòng-an ninh trên địa bàn; những vấn đề mới, quan trọng có quan hệ đếm đời sống tinh thần, vật chất, văn hóa, xã hội của nhân dân; định hướng lớn về các hoạt động đối ngoại quan trọng của tỉnh; các chương trình hợp tác phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh; về công tác nhân sự, Ban chấp hành giới thiệu chức danh Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND tỉnh để HĐND bầu. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh chỉ đạo hoạt động của HĐND, UBND thông qua Đảng đoàn HĐND tỉnh, Ban cán sự UBND tỉnh và thông qua vai trò của các đồng chí Tỉnh ủy viên phụ trách các sở ban ngành của tỉnh.
Căn cứ Nghị quyết của Tỉnh ủy, Đảng đoàn HĐND tỉnh lãnh đạo HĐND xây dựng nghị quyết đúng chủ trương của Tỉnh ủy để UBND tỉnh thực hiện; đồng thời Ban cán sự đảng UBND tỉnh xây dựng đề án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội trình Tỉnh ủy quyết định. Hàng năm, Ban cán sự đảng UBND tỉnh tố chức đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm; những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp lớn; kế hoạch hoạt động đối ngoại quan trọng của tỉnh, chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; những cân đối chủ yếu, dự toán ngân sách trình Tỉnh ủy.
Trên cơ sở Nghị quyết, chủ trương của Tỉnh ủy, Ban cán sự đảng UBND tỉnh cụ thế hóa thành chương trình công tác hàng tháng, quý, 6 tháng và cả năm để điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ về phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng-an ninh; về thành lập mới, sáp nhập, giải thể các cơ quan nhà nước thuộc UBND; thành lập mới, nhập, chia tách, điều chỉnh địa giới trên địa bàn; về kiện toàn tổ chức bộ máy; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chính sách cán bộ, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, kỷ luật cán bộ. Đảng đoàn HĐND tỉnh, Ban cán sự đảng UBND tỉnh báo cáo kịp thời với Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về tình hình kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng và những việc chỉ đạo điều hành chủ yếu của UBND tỉnh.
+ Ban Thường vụ Tỉnh ủy với Đảng đoàn HĐND tỉnh và Ban cán sự UBND tỉnh: Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho ý kiến về quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng yếu; về vận dụng cơ chế, chính sách của nhà nước có ảnh hưởng lớn đến địa phương; cho ý kiến về các chương trình hợp tác phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh với các tỉnh, thành trong cả nước. Những khoản chi quan trọng từ ngân sách nhà nước; về dự toán ngân sách hàng năm và các đề án về ngân sách. Các chủ trương phát triển các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, tài nguyên môi trường; cho ý kiến đối với các khoản chi từ ngân sách nhà nước; từ các nguồn vốn khác để mua sắm tài sản có giá trị lón; việc sử dụng các khoản thu vượt ngân sách, khoản ngân sách dự phòng chi hàng năm và các khoản chi được từ nguồn hỗ trợ của Trung ương, tỉnh bạn, các tổ chức trong và ngoài nước cho các nhu cầu phòng chống thiên tai, đầu tư các công trình phúc lợi. Về công tác nhân sự, Ban Thường vụ Tỉnh ủy giới thiệu nhân sự Phó Chủ tịch HĐND tỉnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh để Tỉnh ủy tham gia ý kiến trước khi quyết định HĐND tỉnh bầu; giới thiệu nhân sự các chức danh ủy viên thường trực, trưởng, phó các ban HĐND tỉnh, các thành viên của UBND để HĐND tỉnh bầu. Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo Đảng đoàn HĐND tỉnh và Ban cán sự đảng UBND tỉnh tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của Tỉnh ủy; tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và của Tỉnh ủy.
Đảng Đoàn HĐND tỉnh và ban cán sự UBND tỉnh xây dựng các đề án cụ thể hóa các Nghị quyết của Tỉnh ủy và chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy , chịu trách nhiệm trước Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc thực hiện nhiệm vụ do Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Về công tác tổ chức, cán bộ, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho ý kiến về tổ chức, cán bộ trong bộ máy nhà nước thuộc diện do Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý. Báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy về quy hoạch, bố trí, điều động, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với các chức danh cán bộ lãnh đạo: Giám đốc, Phó Giám đốc các sở ngành, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND các huyện lãnh đạo các đơn vị thuộc ngành dọc quản lý đóng trên địa bàn tỉnh.
+ Thường trực Tỉnh ủy với Đảng đoàn HĐND tỉnh và Ban cán sự UBND tỉnh: Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo phối hợp hoạt động giữa Đảng đoàn HĐND và Ban cán sự đảng UBND tỉnh với các cơ quan đảng, các ban cán sự đảng, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội tỉnh trong việc quán triệt, cụ thế hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của Tỉnh ủy để tổ chức thực hiện; cho ý kiến đối với những dự án xây dựng và đầu tư quan trọng được Ban Thường vụ ủy quyền , chỉ đạo xứ lý các vấn đề cụ thể liên quan đến hoạt động của Đảng đoàn HĐND tỉnh và Ban cán sự đảng UBND tỉnh.
Đảng đoàn HĐND tỉnh và Ban cán sự đảng UBND tỉnh trình Thường trực Tỉnh ủy cho ý kiến về công tác cán bộ, đánh giá cán bộ, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo đội ngũ cán bộ theo phân cấp trước khi trình Ban Thường vụ, Tỉnh ủy xem xét, quyết định theo thẩm quyền; các trường hợp bổ nhiệm, điều động, thuyên chuyển, nghỉ hưu, miễn nhiệm đối với cán bộ thuộc diện quản lý của Đảng đoàn HĐND tỉnh và Ban cán sự đảng UBND tỉnh. Đồng thời, Đảng đoàn HĐND tỉnh và Ban cán sự đảng UBND tỉnh phối hợp với các cơ quan đảng Tỉnh ủy đề xuất chủ trương, kế hoạch, phương án và các biện pháp triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng , Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính nhà nước, tập trung trước hết vào các thủ tục liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân và hoạt động của doanh nghiệp, thực hiện cơ chế một cửa, đảm bảo giải quyết thông suốt kịp thời mọi yêu cầu chính đáng của công dân và doanh nghiệp. Tiến hành tổng kết công tác cải cách hành chính giai đoạn I (2001-2005); xây dựng và thực hiện chương trình cải cách hành chính giai đoạn II (2005-2010) theo chương trình tổng thể cái cách hành chính của cả nước, tiến tới xây dựng nền hành chính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả phục vụ nhân dân. Thực hiện nghiêm quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại. Kiên quyết thay cán bộ, công chức không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thực hiện đúng quy định về thi tuyển, xét tuyển, thi nâng ngạch công chức, viên chức.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy chế công chức và chế độ công vụ, coi đây là nội dung công tác thường xuyên. Thực hiện định kỳ tự kiểm tra nội bộ ở các đơn vị. Rà soát đội ngũ cán bộ, công chức để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục thực hiện chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trong các lĩnh vực có nhu cầu nguồn nhân lực cao phù hợp yêu cầu phát triển của tỉnh. Tổng số cán bộ công chức được cử đi đào tạo trình độ sau đại học từ ngân sách tỉnh từ 2006 đến năm 2009 là 214 người (thạc sĩ, tiến sĩ).
Hiện tại UBND tỉnh Đồng Nai đã sắp xếp, kiện toàn các cơ quan chuyên môn của tỉnh theo hướng gọn hơn. Các cơ quan chuyên môn này chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của UBND tỉnh về tổ chức, biên chế và chỉ đạo về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên; các cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội-an ninh quốc phòng hàng năm trên địa bàn tỉnh. Thực hiện Nghị định 171/2004/NĐ-CP và Nghị định 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ, các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh Đồng Nai thời điểm đó là 23 cơ quan gồm các sở, ban ngành; ngoài ra còn có 03 cơ quan tương đương cơ quan chuyên môn là Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai, Văn phòng HĐND tỉnh Đồng Nai và Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai. Sau khi có nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) “về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”, thực hiện Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh được tổ chức thống nhất còn lại 19 cơ quan, đồng thời hợp nhất Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai và Văn phòng HĐND tỉnh thành 1 cơ quan là Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh.
2.1.2.2. Về phương thức lãnh đạo
Ngay từ đầu mỗi nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đều ban hành Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Trong quá trình điều hành hoạt động của Đảng bộ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh luôn bám sát quy chế đã đề ra. Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và chương trình toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã xây dựng chương trình toàn khóa, chương trình hàng năm và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh thành các nhiệm vụ, chỉ tiêu chủ yếu hàng năm, hàng quý để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Nội dung các kỳ họp Ban Chấp hành đều được Ban Thường vụ Tỉnh ủy chuẩn bị kỹ, nghiêm túc, đúng quy trình. Các hội nghị Ban Chấp hành đều bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy được trí tuệ của tập thể Ban Chấp hành. Ban Thường vụ Tỉnh ủy duy trì nề nếp sinh hoạt mỗi tháng một lần theo quy chế để giải quyết các công việc giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành.
Phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc của Ban chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy các khóa từng bước được đổi mới theo hướng sâu sát cơ sở hơn; chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy đảng. Thường xuyên cải tiến việc xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Đảng, với phương châm: cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng, sát với tình hình thực tế của địa phương và có tính khả thi trong quá trình tổ chức thực hiện. Quan tâm và kịp thời sơ kết, tổng kết thực hiện các nghị quyết của Đảng, rút ra các bài học kinh nghiệm; đồng thời, bổ sung các Nghị quyết đã đề ra.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy quan tâm lãnh đạo hoạt động của Đảng đoàn HĐND và Ban cán sự đảng UBND tỉnh. Hàng tuần Thường trực Tỉnh ủy tổ chức làm việc với Thường trực HĐND, UBND, UBMTTQ tỉnh, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Ban Giám đốc Công an tỉnh. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh rất chú trọng bàn sâu những vấn đề lớn về kinh tế-xã hội, an ninh,quốc phòng, tạo điều kiện cho HĐND, UBND thể chế hóa nghị quyết của Tỉnh ủy để lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Việc lãnh đạo các ngành, các cơ quan Nhà nước cấp tỉnh thực hiện nghị quyết của Đảng thông qua Ban cán sự Đảng; đồng thời, phát huy vai trò trách nhiệm cá nhân của đồng chí cấp ủy viên, thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong việc triển khai và thực hiện các nghị quyết của Đảng ở ngành, đơn vị.
Về việc xây dựng chủ trương lãnh đạo: Đảng bộ tỉnh Đồng Nai xác định: “chỉ ra nghị quyết những vấn đề thật cần thiết, nội dung nghị quyết phải rõ ràng, cụ thể những vấn đề cần tập trung lãnh đạo, thực hiện ở từng ngành, từng cấp” [9, tr.98].
Trên cơ sở chủ trương của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã thực hiện tốt sự lãnh đạo của Tỉnh ủy trên cơ sở thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng và thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy đối với những vấn đề quan trọng phát sinh trong quá trình chỉ đạo điều hành. Trong thực hiện chức năng nhiệm vụ, UBND tỉnh đều xuất phát từ quan điểm, nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với các nội dung, biện pháp chỉ đạo điều hành có liên quan đến tổ chức của UBND.
Tỉnh ủy quy định phải “phân công cụ thể trách nhiệm tập thể, cá nhân tực hiện các nghị quyết. Cán bộ, đảng viên phải lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa nghị quyết của Đảng vào lĩnh vực mình phụ trách; giảm bớt các cuộc họp, hội thảo không cần thiết” [9, tr.98].
Nghị quyết Đại hội VIII Đảng bộ tỉnh Đồng Nai xác định:
Đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của HĐND, đoàn Đại biểu Quốc hội của tỉnh, phát huy được vị trí và vai trò là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND trong việc quyết định và ban hành những chính sách trong phạm vi được phân cấp; đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ quan địa phương [9, tr.77].
Nâng chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND, đặc biệt chú trọng giám sát các lĩnh vực đầu tư phát triển, quản lý sử dụng đất đai, thu, chi ngân sách nhà nước, các vấn đề xã hội bức xúc, công tác giải quyết các khiếu nại, khiếu tố, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
* Nguyên nhân của những kết quả đạt được:
Nguyên nhân chủ yếu của những kết quả trên là do Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ tỉnh Đồng Nai nhận thức đúng chủ trương, Nghị quyết của Đảng; vận dụng sát hợp với tình hình thực tế địa phương. Từ đó phát huy đuợc tinh thần trách nhiệm của cấp ủy các cấp, của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ; cùng tinh thần nỗ lực phấn đấu của cán bộ công chức trong hệ thống chính trị, của các tầng lớp nhân dân, của cộng đồng doanh nghiệp trong toàn tỉnh, trở thành động lực thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng bộ và kế hoạch nhà nước đặt ra. Đồng thời Ban Chấp hành, Ban Thường vụ đã xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của mình, thực hiện nghiêm Quy chế làm việc; luôn giữ vững và nêu cao tinh thần đoàn kết, nhất trí trong nội bộ, tạo được sự đồng thuận và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và giữa các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh. Quan tâm công tác kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng; thường xuyên sơ, tổng kết thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng để rút kinh nghiệm chỉ đạo. Đa dố thành viên trong Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức chấp hành tổ chức và quy chế hoạt động. Hầu hết các đồng chí cấp ủy viên có phong cách làm việc sâu sát, cụ thể, năng động, nhạy bén trong lãnh đạo điều hành. Phương thức lãnh đạo được cải tiến, phù hợp với thực tiễn, tạo nên sức mạnh cho Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương trong thời gia qua.
2.1.3. Những hạn chế trong sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với hoạt động của HĐND và Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ VII nhận định: “Năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý nhà nước ở các cấp các ngành còn yếu trong một số khâu, dẫn đến kỷ cương kỷ luật, thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước chưa nghiêm, cản trở quá trình phát triển và ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân” [8, tr.51].
Tuy có được những tiến bộ cơ bản và khá toàn diện về sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với chính quyền cấp tỉnh, nhưng vẫn còn nhiều mặt bất cập, hạn chế mà chính nó làm chậm quá trình cải cách hệ thống chính trị nói chung, cải cách hành chính nhà nước ở các địa phương nói riêng. Sau đây là một số vấn đề về nội dung và phương thức lãnh đạo lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với chính quyền cấp tỉnh còn tồn tại đáng được chú ý.
2.1.3.1. Về nội dung lãnh đạo
- Về xây dựng chủ trương.
Tỉnh uỷ Đồng Nai luôn chấp hành nghiêm quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong việc xây dựng chủ trương, chính sách phát triển tại địa phương. Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong từng thời kỳ, Đảng bộ tỉnh luôn kịp thời ban hành chương trình hành động và xây dựng nghị quyết để cụ thể hóa chủ trương của Đảng tại địa phương. Tuy nhiên trong lãnh đạo, chỉ đạo tại địa phương còn thiếu sâu sát, thậm chí từng nơi, từng lúc còn buông lỏng kiểm tra, giám sát để xảy ra những sai phạm trong quản lý nhà nước làm ảnh hưởng uy tín của Đảng bộ và chính quyền địa phương. Có một vài vụ việc nghiêm trọng liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, trong đó có trách nhiệm lãnh đạo, quản lý ở địa phương, đã gây hậu quả nặng nề, phá vỡ cảnh quan, môi trường sống chung quanh (vụ vi phạm nghiêm trọng về môi trường của công ty bột ngọt Vedan gây ô nhiễm sông Thị Vải; vụ một công ty nhận xử lý nước thải cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ở Biên Hòa bằng cách dùng xe chở nước thải đổ ra môi trường xung quanh tại địa phương,…); nhiều dự án đã thu hồi đất xong nhưng không sử dụng, đất để hoang hoá kéo dài nhiều năm, quy mô thu hồi đất vượt quá nhu cầu sử dụng, trong khi nông dân không có đất sản xuất, nhiều lao động không kiếm được việc làm, thu nhập giảm, điều kiện sống gặp khó khăn… tạo nên những bất ổn về trật tự, an toàn ở nông thôn.
Chức năng lãnh đạo của tỉnh uỷ là hướng vào việc cụ thể hóa những chủ trương chỉ đạo của Trung ương, tổng kết sự thực hiện được và chưa được, phát hiện những tình huống, dự báo xu thế phát triển để có quyết sách, nhưng trong thực tế, có một số vụ việc, cơ quan nhà nước lại dựa dẫm vào sự chỉ đạo của cấp uỷ. Cấp uỷ không ban hành văn bản chỉ đạo thì công việc không tiến triển tốt, nhưng việc ban hành văn bản lại bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Việc ban hành một văn bản của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiều khi mất rất nhiều thời gian do trình độ, năng lực của cán bộ soạn thảo, phải lấy ý kiến tham khảo của nhiều ban, ngành liên quan.
Những nội dung thiếu sót trên còn thể hiện trong phương thức, phong cách lãnh đạo.
- Về công tác tổ chức bộ máy và cán bộ.
Thẩm quyền của tỉnh uỷ hoặc tỉnh uỷ giao quyền cho ban thường vụ tỉnh uỷ về công tác tổ chức bộ máy được quy định khá rõ trong Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai.
Trên thực tế, các cơ quan HĐND và UBND không có thẩm quyền đối với việc thiết kế tổ chức bộ máy và lựa chọn cán bộ lãnh đạo các cơ quan trực thuộc của mình. Thẩm quyền này càng không thể thuộc về cá nhân Chủ tịch UBND.
Đối với cơ chế chính trị ở nước ta, các thẩm quyền mà đặc biệt là thẩm quyền về tổ chức bộ máy và cán bộ không thuộc quyền của cá nhân, kể cả bí thư cấp uỷ hay chủ tịch UBND. Trong nhiều năm qua, Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nghiên cứu để có thể tăng thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu tổ chức sử dụng cán bộ đối với công tác cán bộ, nhưng cho đến nay vẫn chưa có được những văn bản quy định cụ thể, rõ ràng và thực sự hiệu lực trên thực tế. Về mặt pháp lý, chủ tịch UBND có các thẩm quyền riêng về công tác cán bộ, nhưng quyền thực tế chỉ có được khi với tư cách là bí thư ban cán sự đảng UBND tỉnh và cũng trong phạm vi do ban thường vụ tỉnh uỷ uỷ quyền. Ngoài những nguyên tắc chung, ban thường vụ tỉnh uỷ uỷ quyền cho ban cán sự đảng UBND tỉnh quyết định việc tổ chức quản lý, sử dụng cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, nhận xét, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ trong phạm vị phụ trách; đề nghị ban thường vụ về quy hoạch, bố trí, phân công công tác, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, cho nghỉ hưu và thực hiện chính sách cán bộ trong bộ máy Nhà nước thuộc quyền trực tiếp quyết định của ban thường vụ, nhân sự chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND huyện, thị xã, thành phố. Các văn bản hiện hành của Tỉnh uỷ Đồng Nai đều xác lập thẩm quyền của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đối với các chức danh: Ủy viên ban thường vụ tỉnh uỷ, uỷ viên ban chấp hành đảng bộ tỉnh; chủ nhiệm, phó chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy; phó chủ tịch HĐND, phó chủ tịch UBND tỉnh; bí thư, phó bí thư đảng đoàn, ban cán sự đảng; trưởng, phó các ban đảng và Văn phòng Tỉnh uỷ; Chủ tịch, phó Chủ tịch Mặt trận; cấp trưởng, cấp phó trong ban chấp hành các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luanvan.doc