MỤC LỤC
Trang
Mở Đầu 1
Chương 1- Phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX và vị trí
của Xuân Diệu trong nền phê bình văn học8
1.1. Vài nét về phê bình văn học Việ t Nam thế kỷ XX 8
1.2. Vị trí của Xuân Diệu trong nền phê bình văn họcViệt Nam thế kỷ XX13
1.3. Quan niệm của Xuân Diệu về thơ và phê bình thơ 17
1.3.1. Quan niệm của Xuân Diệu về thơ 17
1.3.2. Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình thơ 33
Chương 2 - Đóng góp của Xuân Diệu trong việc tôn vinh các giá trị thơ ca dân tộc45
2.1. Xuân Diệu với gia tài văn học cổ điển của dân tộc 45
2.1.1. Chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi trong thơ Nôm 46
2.1.2. Những phát hiện về chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiềucủa Nguyễn Du51
2.1.3. Giá trị đích thực và vẻ đẹp của thơ Nôm Hồ Xuân Hương 57
2.1.4. Nguyễn Khuyến - Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam 63
2.2. Xuân Diệu với nền thơ Việt Nam hiện đại. 68
2.2.1. Vẻ đẹp tâm hồn Bác trong tập thơ Nhật ký trong tù 69
2.2.2. Tố Hữu - Nhà thơ của tình thương mến 72
2.2.3. Nét đặc sắc của hồn thơ Huy Cận 79
2.2.4. Trần Đ ăng khoa - Một hồn thơ nhạy cảm, với những vần thơ “hồn nhiên như một bình minh ríu rít”83
Chương 3- Một số đặc điểm trong phong cách nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu90
3.1. Tìm hiểu nội dung tư tưởng tác phẩm bằng các h đi sâu khám phá hình thức nghệ thuật thơ91
3.2. Kết hợp bình và giảng 101
3.3. Lối phê bình giàu tính trực cảm 112
3.4. Cách hành văn sôi nổi mãnh liệt 117
4.4. Một số hạn chế 122
Kết lu ận 125
Tài li ệu tham kh ảo 128
147 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6738 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự nghiệp phê bình thơ của Xuân Diệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
da còn thiếu. Xuân Diệu cho người
đọc thấy rõ ràng là“không phải Xuân Hương đứng một mình trong cái
lối đùa nghịch, ỡm ờ, tinh quái này”, những truyện Trạng Lợn, Trạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68
Quỳnh, những truyện từ xưa mua vui, trong đó có nói chuyện sinh dục,
hình tượng trên nắp thạp đồng Đào Thịnh, tổ tiên xưa cổ của chúng ta
muốn nói về sức sống. Mặt khác hiện tượng này trong thơ Xuân
Hương còn được Xuân Diệu giải thích bằng cá tính của nữ sĩ, một cá
tính có thể mang dấu tích của cuộc đời, tình duyên ngang trái, dở dang
đau khổ của nàng. Có lẽ do vậy mà khi đọc thơ Xuân Hương , ông
khuyên người đọc nên tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca
dao,tục ngữ và truyện vui cổ tích, không nên thổi phồng, đào sâu một
cách không lành mạnh cái nghĩa “đố tục”, không nên chỉ chăm chăm
đi tìm trong thơ Xuân Hương cái mặt đố tục, Xuân Diệu cho đó là một
khuynh hướng tầm thường, dung tục, nó không còn ở trong phạm vi
thưởng thức của văn học nữa. Xuân Diệu phát hiện thơ Xuân Hương
còn có phần tinh hoa khác, đó chính là vẻ đẹp của một tâm hồn phụ nữ
đẹp đẽ trẻ trung, tâm hồn của một con người thiết tha gắn bó với cuộc
sống. Đây mới là ý thức chủ đạo làm nên cái sinh khí, cái rạo rực, cái
ý vị đậm đà của toàn bộ thơ Xuân Hương. “Thơ Xuân Hương rất sống,
chính cái rất sống đó làm cho thơ Xuân Hương ở mãi trong lòng nhân
dân” [11,469]. Bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày không chỉ là bức tranh hai
bề trên mặt giấy, mà là một bức điêu khắc có đường nét có hình khối:
“Xuân Hương để cho thiếu nữ nằm trong một tư thế nhịp nhàng
hoà đối…yếm trễ xuống, lược trên tóc vẫn chỉnh tề. Cũng như cái
giếng thanh tân, ở đây gò lạch đều còn non tơ phong nhuỵ. Để làm tôn
quả đào tiên hơ hớ bất khả xâm phạm, nhà nghệ sỹ đặt trong góc một
con chuột, một anh “quân tử” đang rập rình, lưu luyến thèm
thuồng”[11, 469- 470].
Xuân Hương đã vẽ bức tranh khoả thân thật bạo bằng những nét
bút thật phóng túng và đậm đà, nhưng không hề khiêu dâm, trái lại
toát ra từ bức tranh đó một vẻ đẹp lành mạnh , khoẻ khoắn, hồn nhiên,
vẻ đẹp của một cơ thể thanh tân dạt dào sức sống. Để làm nổi bật nét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69
riêng biệt độc đáo của thơ Xuân Hương, Xuân Diệu đã vẽ chân dung
“Bà chúa thơ Nôm” trong các nhà thơ nữ nổi tiếng của văn học trung
đại Việt Nam: “Xuân Hương không như Đoàn Thị Điểm, nặng về tao
nhã; không như Ngọc Hân công chúa, nặng về tha thiết khóc than;
không như bà Huyện Thanh Quan, làm thơ như có con hầu đi theo sau;
Xuân Hương là trong thơ có người trong thơ có tiên, và trong thơ có
quỷ” [11, 470]. Quả là một nhận xét khá toàn diện và xác đáng về thơ
Xuân Hương. Với linh cảm của một nhà phê bình sắc sảo Xuân Diệu
đã tinh tế phát hiện ra:
“Xuân Hương là người đứng trên vực thẳm cheo leo, đi lại trên
vực mà vẫn không rơi xuống bao giờ. Người ta thấy như là Xuân
Hương lấm lét, nhưng Xuân Hương vẫn cứ đường hoàng , thẳng ngay.
Thơ Xuân Hương tục hay là thanh? Đố ai bắt được: bảo rằng nó hoàn
toàn là thanh, thì cái nghĩa thứ hai của nó có giấu được ai, mà Xuân
Hương có muốn giấu đâu. Mà bảo rằng nó nhảm nhí, là tục, thì có gì là
tục nào?” [11, 471- 472].
Xuân Diệu đã chứng minh bằng bài thơ Đánh đu “rõ là một cảnh
đánh đu, lời thơ cứ trang nhã, trong veo, có duyên, đầy nhạc điệu”[11,
471- 472]. Cái thanh tú ngọt ngào của lời thơ đó cũng chính là chất
thanh tú ngọt ngào trong tâm hồn nữ sỹ. Nhiều nhà nghiên cứu cũng
đã từng khâm phục và ngợi ca cái tài sử dụng ngôn ngữ của nữ
sĩ,nhưng có lẽ chưa ai có cách nói sôi nổi, nhiệt thành và đầy đam mê
như Xuân Diệu:
“Lòng Xuân Hương là lửa, tay xuân Hương có điện, nên các chữ
đều sống cả lên, nó có thể bò lổm ngổm, có thể mấp máy, có thể bay ,
có thể duỗi, có thể khom khom ngửa ngửa, nó có thể chũm choẹ, hi ha,
cốc, om, khua,vỗ;…chúng ta có thể đố ai tìm được trong thơ Xuân
Hương chữ nào mà âm thanh bẹp dí, những chữ nào đứng trơ không
cựa quậy ở trong câu”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70
Ông lý giải “đây không phải là kỹ thuật đâu . Đấy là tâm hồn
truyền sức sống cho ngôn ngữ”,cái bí quyết thơ Xuân Hương là thế, là
lửa sống [11,504]. Chất lửa, sức sống dạt dào của tâm hồn Xuân
Hương thể hiện khá rõ trong những vần thơ viết về thiên nhiên, nàng
đón nhận thiên nhiên bằng tất cả con đường mở rộng của các giác
quan, đúng như nhận xét của Xuân Diệu:
“Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương đã đem vào trong
thơ chính quy, thơ bằng chữ viết của dân tộc ta cách đây vài trăm năm,
cái mới mẻ của các giác quan”[11, 483]. Vũ trụ, thế giới, qua tâm hồn
Xuân Hương, có những màu sắc, những tiếng động rất sống, rất mới
lạ, Xuân Diệu đã so sánh một cách rất hình ảnh “tâm trí Xuân Hương
là một lò cừ nung nấu các chất liệu thơ tầm thường nhất, thô kệch nữa,
thành ra thơ hay” [11, 505].“ Xuân Hương là một nhà nghệ sỹ lớn biết
phun tâm hồn mình vào cảnh vật làm cho chúng sống lên ngồn ngộn”
[11, 478]. Xuân Diệu không tán thành cách đọc thơ Xuân Hương “cứ
bắt bẻ một cách tầm thường, tẹp nhẹp”, “cứ chăm chăm đi tìm trong
thơ Xuân Hương cái mặt đố tục”, đọc như thế thì không sao hiểu được
sức sống mạnh lớn ẩn tàng trong thơ [ 11, 478]. Xuân Diệu bình bài
Vịnh Ông Chồng Bà Chồng:
“Nhân một cảnh đá mọc và nhân dân đặt tên, Xuân Hương như
một nhà điêu khắc tạc cho đá sống và yêu, chính Xuân Hương là bà
tạo hoá…Một nữ thi sỹ, một nhà điêu khắc truyền cả hơi sống cả tình
yêu vào đá, đến nỗi đá cũng ửng hồng lên như có máu chạy: Đá cứng
lắm nặng lắm, mà nó chẳng nằm chết như đá, nó giãy ra, nó cọ mãi, nó
già giặn tình Xuân! Một tác phẩm nghệ thuật như vậy là ưu tú” [11,
478-479].
Sức sống trong tâm hồn Xuân Hương mãnh liệt biết bao, tâm
hồn nàng đẹp đẽ biết bao, nó đã tạo ra một tác phẩm nghệ thuật ưu tú.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71
Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn Xuân Hương, Xuân Diệu phản đối ý kiến
của ông Văn Tân liệt bài thơ vào loại “thơ văn dâm tục”.
Thơ Xuân Hương lại gắn với cuộc đời, số phận và cá tính riêng
của nàng, “thơ Xuân Hương là đời của Xuân Hương , là người của
Xuân Hương ở trong đó. Thơ Xuân Hương là hồn là xác, là mắt nhìn,
là tay sờ, chân đi, là nụ cười, nước mắt của Xuân Hương, là cá tính, là
số phận của Xuân Hương” [11, 421].Xuân Diệu lại đặt thơ Xuân
Hương vào hoàn cảnh mà nó ra đời- xã hội Việt Nam cuối thời vua Lê
chúa Trịnh, chế độ phong kiến đã mục nát đến tận gốc, con người
luôn luôn đòi hỏi phải được giải phóng ra khỏi ý thức hệ phong kiến,
ra khỏi tập tục, lễ giáo đạo đức phong kiến, để sống tự do hơn phóng
khoáng hơn “ngấm ngầm yêu cầu mỗi con người phải được coi như
một cá thể đáng quý trọng”. Hồ Xuân Hương sống trong một thời đại
như thế, thơ bà đã mang dấu ấn sâu sắc dấu hiệu của thời đại bà, đó
chính là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ, khát vọng giải phóng của cả
một xã hội, “cái đòi hỏi giải phóng trong thơ Xuân Hương là diễn đạt
sự đòi hỏi giải phóng ngấm ngầm của cả một xã hội”. Cùng nói về nỗi
khổ của người đàn bà trong xã hội cũ, Xuân Diệu so sánh Xuân Hương
với Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm
“Xuân Hương không cách điệu hoá như các tác giả kia, Xuân Hương
đã nói một cách trần trụi nhất, chân thực nhất; với cái sâu sắc của xúc
cảm, với cái mạnh mẽ của sự phản kháng” [11,435- 436]. Hơn ai hết
Xuân Hương thấm thía nỗi khổ ấy, nỗi khổ của cái kiếp lấy chồng
chung Năm thì mười hoạ nên chăng chớ, Một tháng đôi lần có cũng
không, nỗi khổ của người đàn bà lâm vào cảnh goá bụa, nhưng Xuân
Hương không phải là người nhẫn nhục chịu gục đầu mà khóc. Với bản
lĩnh cứng cỏi của mình, gạt đi những giọt nước mắt yếu đuối, nàng
khuyên một người phụ nữ goá: Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng,
Nín đi kẻo thẹn với non sông . Người phụ nữ không chồng mà chửa, bị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72
cả xã hội khinh bỉ, chà đạp , giày xéo, bị gọt đầu bôi vôi, Xuân Hương
dũng cảm đứng ra bênh vực họ: Không có nhưng mà có mới ngoan .
[11, 436- 437], nữ sĩ đã lật ngược lại những quan niệm đạo đức phong
kiến và nêu lên một tiêu chuẩn đạo đức mới, thử hỏi trong xã hội
phong kiến đã có người đàn bà nào dám ngang nhiên thách thức ý thức
hệ phong kiến như Xuân Hương. Khi bàn về câu chuyện giác quan
trong thơ trong thơ Xuân Hương có ý kiến cho rằng: “Nhiều nét thơ
của Xuân Hương gay gắt quá, đập vào giác quan gây một cảm giác khó
chịu”, Xuân Diệu đánh giá đó là điều mới mẻ, tiến bộ, một sự cách
tân lớn: “Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương đã đem
vào trong thơ chính qui, thơ bằng chữ viết của dân tộc ta cách đây vài
trăm năm, cái mới mẻ của các giác quan…Đó là một sự cách tân của
Xuân Hương trong văn học dân tộc, một đóng góp của Xuân Hương
trong tâm hồn con người ở nước ta”[11, 483].Trong cách dùng các
giác quan ở một số bài thơ của Xuân Hương, Xuân Diệu đã cảm nhận
được khía cạnh “con người đòi giải phóng, đòi phát triển” [11,479].
Xuân Diệu đã nhìn thấy trong những nét thơ “quằn quại”, “dằn vặt”,
“gay gắt” kia thái độ bực bội, “thiếu điều phát điên lên!”, nhu cầu cần
xé, cần phá, cái khung khổ chật hẹp của xã hội. Xuân Diệu đánh giá
rằng sức chống đối xé phá cái xã hội phong kiến lỗi thời là một đặc
điểm trong thơ Xuân Hương, mà các nhà thơ cổ điển trước và đương
thời với bà chưa ai bì kịp [8, 430]. “Chống đối xé phá một cách tinh vi
đến mức kỳ lạ…nó gắn liền với thời đại và có một sức vươn thời gian
rất mạnh, rất lâu. Bởi nó khái quát hoá rất cao”[8,430]. Xuân Diệu đã
bình khá kỹ bài Trăng thu, cả bài thơ bị dồn nén bởi cái vần “om”!
Om chặt lại, lèn chặt lại vào trong một cái khuôn chật hẹp. Hẹp đến
mức “ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm”! Và trong cái khuôn
trăng “chín mõm mòm” ấy Cuội ta phải đứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73
“lom khom”, cứ phải đứng lom khom như thế mãi ai mà chịu được.
Một người phóng túng như bà chúa thơ Nôm làm sao mà chịu nổi
những trói buộc của lễ giáo phong kiến, vậy nên mới “ngứa gan”.
Xuân Diệu phục sát đất tài của Xuân Hương, khi nàng viết câu thơ:
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom ,ông cho rằng đây là câu thơ thần
“Câu thơ này mang bao nhiêu là chất nổ đối với xã hội phong kiến!
Chỉ cần thằng Cuội nó ngứa gan thêm một tý nữa, nó đứng thẳng đuột
lưng lên, là cả cái thế tròn vo kia đổ gãy răng rắc nát ra hết” [11, 535-
539].
Cảm phục và trân trọng tài năng của Xuân Hương, Xuân Diệu đã
dành những lời đẹp nhất để nói về nàng , ông khẳng định Xuân Hương
là bậc “thiên tài kỳ nữ”, là “Nhà thơ dòng Việt, Bà chúa thơ nôm”, là
“Nàng thơ ưu tú nhất thuở xưa”. Điều quan trọng hơn, Xuân Diệu đã
đem đến cho người đọc một cách tiếp cận khoa học đúng đắn khi đi
vào thế giới thơ Xuân Hương, để từ đó phát hiện được vẻ đẹp độc đáo,
giá trị đích thực của thơ Nôm Xuân Hương.
2.1.4. Nguyễn Khuyến- Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt
Nam
Nguyễn Khuyến là một trong những đại diện xuất sắc cuối cùng
của văn học trung đại Việt Nam. Nguyễn Khuyến - “Nhà thơ của quê
hương làng cảnh Việt Nam”, chúng ta vẫn thường nói thế khi nhắc đến
ông, nhưng có mấy ai biết được rằng đó chính là cái tên mà Xuân Diệu
dùng để định danh nhà thơ Nguyễn Khuyến, từ những năm 1971 khi
nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến, cho đến nay nó đã trở thành định
luận được mọi người luôn luôn nhắc đến.
Nguyễn Khuyến Là “ Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt
Nam”,
“Nhà thơ của dân tình dân cảnh”,cách gọi ấy của Xuân Diệu có ý
nghĩa xác định rõ nét đặc trưng của thơ Nguyễn Khuyến, nhất là vị trí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74
thơ Tam nguyên Yên Đổ trong quá trình mấy trăm năm thơ mùa thu
của dân tộc. Để làm rõ luận điểm này, Xuân Diệu bắt đầu từ ba bài thơ
mùa thu của Nguyễn Khuyến. Mặc dù Nguyễn Khuyến đỗ đầu ba kỳ
thi chữ Hán, làm nhiều thơ chữ Hán hay, nhưng theo Xuân
Diệu“Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam về thơ
Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến nức danh nhất là ba bài
thơ mùa thu: Thu điếu, Thu vịnh. Thu ẩm.”[8, 495]. Xuân Diệu nhắc
lại quá trình mấy trăm năm thơ mùa thu của dân tộc, bắt đầu từ mấy
bài thơ mùa thu trong Hồng Đức quốc âm thi tập, bài Mùa thu của bà
Ngô Chi Lan, đến Vịnh mùa thu của Nguyễn Công Trứ, ở những bài
thơ thu này “…Ta thấy còn phảng phất nhiều trong sách vở và phụ
thuộc nhiều vào ước lệ…Vẫn là mùa thu chung chung, mùa thu từ
phương Bắc đến nhiều hơn” [8,497]. Điểm lại như thế để thấy được
giá trị, vị trí những bài thơ mùa thu của cụTam Nguyên, theo Xuân
Diệu, Sở dĩ được người đọc nhớ, thuộc và truyền tụng, “Vì là ba bài
thơ hay và điển hình nhất cho mùa thu của Việt Nam, ở miền Bắc nước
ta, chứ không ở nước nào khác”. Xuân Diệu đã phân tích và bình giảng
khá tỉ mỉ để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của từng bài thơ trong cả chùm
thơ. Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt
Nam, “Đọc lên, như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn
đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết mùa thu; rất là đất nước nhà mình, có
thật, rất sống, chứ không theo ước lệ như ở trong văn chương sách
vở” [8, 496]. Bài Thu vịnh có thần hơn hết, “Trong ba bài thơ, bài
này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong ,
cái nhẹ, cái cao” [8,503]. Bài Thu ẩm “ Không còn những ước lệ văn
hoa sang trọng rèm châu, lầu ngọc, chén vàng…mà bình dân nhà cỏ
thấp le te, tiến đến hiện thực rồi [8,502], Xuân Diệu cho rằng bài thơ
là khái quát nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm: một đêm thu có ánh
trăng lóng lánh trên mặt ao, một đêm sâu nơi ngõ xóm đom đóm bay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75
lập loè, một buổi chiều với màu khói nhạt phất phơ lưng giậu…Xuân
Diệu khen bốn câu thơ giữa bài rất hay “Nó hay trong cái thực của
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, chứ không bay đi đâu xa khác”, đặc biệt
ông đã bình một cách công phu cái hay của câu làn ao lóng lánh bóng
trăng loe “ bóng trăng vàng từ mặt nước
aosáng loé ra, bốn chữ l khá nặng (làn lóng lánh loe) gợi chất vàng
nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng lánh bóng) gợi ánh bắn đi,
từ loe với âm- oe gợi cái gì tròn(tròn xoe) như cái ao chẳng hạn”
[8,503], quả là một câu thơ hiếm có của một thi sĩ có tài. Ba bài thơ
thu của Nguyễn Khuyến được Xuân Diệu nhìn nhận như một thành
công tốt đẹp của quá trình dân tộc hoá nội dung mùa thu cho thật là
thu Việt Nam, và dân tộc hoá hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là
Nôm, là Việt Nam. [8,506]. Để có được Chùm thơ thu nức danh ấy,
Xuân Diệu lí giải, thứ nhất tác giả của nó là một thi sỹ có tài, thứ hai
quan trọng hơn thi sĩ có cái tài ấy đã gắn bó, thâm nhập, hoà tâm hồn
mình một cách sâu sắc thấm thía với đất nước Việt Nam. Trừ mười hai
năm đi làm quan xa, phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là sống ở
làng quê, cái làng Yên Đổ, huyện Bình Lục,tỉnh Hà Nam, chính “hoàn
cảnh sinh sống đã tác động lâu dài vào xúc cảm của hồn thơ, tạo thành
một thứ bản chất” [ 8, 506 ]. Nếu Tú Xương chủ yếu lấy đề tài và tứ
thơ ở thành thị (Nam Định), thì Nguyễn Khuyến chủ yếu lấy đề tài và
cảm hứng ở làng quê (Yên Đổ), Xuân Diệu đã ví “hai nhà thơ tương
xứng nhau như một câu đố có hai vế, vế trắc là Tú Xương, vế bằng là
Nguyễn Khuyến” [8,506]. Chính vì cái điểm xuất phát ấy, mà theo
Xuân Diệu quê hương làng nước và đồng bào nhân dân, là hai trục
cảm xúc rất rõ trong thơ Nguyễn Khuyến, không phải nhà thơ nào
cũng có được cả hai trụ cột như thế. Nguyễn Khuyến cũng có nhiều
câu thơ hay miêu tả cảnh sắc thiên nhiên xa rộng ở nhiều vùng của đất
nước, nhưng sở trường nhất của ông “là những nhuần nhị thấm thía
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76
của nét cảnh nông thôn, những nét cảnh quen thuộc, thân yêu cho đến
nỗi cảnh là tình, đất đai vườn ruộng là đời của mình, cho nên cũng là
tâm tư của mình”[ 8,508]. Yêu thơ Nguyễn Khuyến, bạn đọc không ai
là không biết bài thơ Bạn đến chơi nhà, Xuân Diệu đã cảm nhận được
ở bài thơ, đặc biệt là hai câu năm và sáu “cái thi vị bao trùm như thơ
pastorale (thơ đồng áng) nổi tiếng ngày xưa của văn học thế giới”, toát
ra từ bài thơ “đó là cái hồn xanh của vườn tược: các thứ rau, đậu, quả
mới nhú. Vừa nụ, rụng rốn, đang hoa…tất nhiên có đất xới, có hơi ẩm,
có ánh nắng, có hương bay, có kiến leo, có ong đến…” [8, 511- 512].
Xuân Diệu tìm thấy những nét điển hình , quen thuộc của làng quê
nông thôn Việt Nam, tất cả được Nguyễn Khuyến khéo thu vào trong
những câu thơ thật gọn:
Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người.
“Có nhà thơ Việt Nam nào sinh ra và ở đồng chiêm thật trũng
như Nguyễn Khuyến đâu, cho nên chẳng ai làm được những câu thơ
đặc biệt điển hình về lụt dâng cao đến nỗi như thế này [8,512 - 513]
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Làn sóng long bong vỗ trước nhà
Trên đường về thăm quê cụ Tam Nguyên, nghe những người dân
quê xã Yên Đổ đọc thơ Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu thực sự xúc động
“thì ra thơ Yên Đổ vẫn còn phảng phất bay lượn giữa quê hương làng
cảnh đồng chiêm trũng Hà Nam! Trên quê hương làng mạc Việt Nam
tất cả! bởi Nguyễn Khuyến đã tạo nên tình yêu quê hương làng mạc
trong văn học Việt Nam ta, tình yêu đồng bào bà con dân quê trong
làng xóm mình” [8, 544].
Nghiên cứu nghệ thụât thơ Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu thán
phục tài sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ: “Ngôn ngữ thơ có tính quần
chúng dễ hiểu dễ thuộc… những câu thơ trong sáng thoải mái, dễ như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77
không”[8,538]. Theo Xuân Diệu nhà thơ ấy có một linh tính một giác
quan tinh tế đặc biệt về thơ dân tộc, vì thế mặc dù cụ rất giỏi chữ Nho,
làm nhiều thơ hay chữ Hán, nhưng đến khi làm thơ Nôm, thì không
một chút nào chứng tỏ mình “hay chữ”, mà đó là những vần thơ “thật
nôm” trong sáng, giản dị, Xuân Diệu so sánh “Tú Xương đã Nôm,
Nguyễn Khuyến còn Nôm hơn” [8,539].Giản dị là một trong những
đặc điểm bút pháp của Nguyễn Khuyến, “nhiều lúc nhà thơ cố ý làm
những câu thơ đơn giản đến mức tột cùng” [ 8,538]
Đọc thơ Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu đã tìm thấy lời ăn tiếng nói
hàng ngày của bà con dân quê làng mạc, thứ ngôn ngữ bình dị ấy được
Nguyễn Khuyến sử dụng một cách tự nhiên nhuần nhuyễn.Trong bài
thơ Hỏi thăm bác Châu Cầu, sau khi hỏi thăm bác Châu Cầu, đến hai
câu cuối nói về mình, Nguyễn Khuyến tự xưng là em- cách xưng hô ấy
nếu ở một người bình thường thì không có gì đáng nói, nhưng đây là
cách xưng hô của một người đã từng đỗ đại khoa, đã từng là tổng đốc
Sơn Tây, với người cũng ngang 60 tuổi như bạn mình, nói như thế thì
mới thấy hết được sự nhún nhường mà đầm ấm trong tiếng em này của
Nguyễn Khuyến,
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu
“Rõ ràng là cụ Nguyễn Khuyến học lối xưng hô của bà con
trong dân quê làng mạc” [ 8,539]. Chữ thầy trong bài Di chúc đầm ấm
lạ lùng: Số thầy sinh phải bước đường cùng- Khi đưa thầy con rước
đầu tiên, hàng trăm năm sau vẫn còn nghe như tiếng người cha đang
dặn dò con trước khi chết [8,541].
Thơ Nguyễn Khuyến có cái nhạc điệu riêng không trộn lẫn
được, đó là cái “nhạc thơ thanh thoát trong nhẹ” “nói chung lời thơ
Nôm của Nguyễn Khuyến rất uyển chuyển mềm mại…”, Xuân Diệu đã
từng rất yêu cái nhạc điệu ấy trong hai câu thơ: [ 8, 539]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78
Cho nên say, say khướt cả ngày,
Say mà chẳng biết rằng say, ngã đùng!
Với tài thẩm thơ một cách tinh tế, Xuân Diệu phát hiện ra cái thú
vị của bài Thu điếu là “ở các vần thơ: không phải chỉ giỏi vì là những
tử vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến
một cách thoải mái đúng chỗ, do một nhà nghệ sỹ cao tay; cả bài thơ
không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3, 4: Sóng biếc theo làn hơi
gợn tí đối với Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo thật tài tình; nhà thơ đã
tìm được cái tốc độ bay của lá: vèo, để tương xứng với cái mức độ của
gợn sóng: tí.” [8, 505]. Nhìn quá trình phát triển ngôn ngữ thơ từ
những thế kỷ trước đến thơ Nguyễn khuyến, Xuân Diệu nhận xét
“những thế kỷ về trước, ngay đến thời Hồng Đức, là lúc nền văn học
dân tộc bằng tiếng Nôm đã khá thịnh, thế mà thơ còn phải như con
rồng uốn mình vật vã lắm để cất bổng mình lên, nửa mình đã cất lên,
nửa mình vẫn chưa bay bổng lên được” [8, 496], “Quá trình ngôn ngữ
của thơ đi, từ thời Lê Hồng Đức, thật hãy còn vất vả nặng nề: Trời
muôn trượng thẳm lầu làu sạch , đến Nguyễn Khuyến đã thành ra:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao thật trong sáng nhẹ nhàng, như
không có một trở lực nào níu được nữa, thế mới biết những câu thơ
thoải mái tự nhiên là kết quả của một sự khổ luyện” [8, 505], ông
khuyên các bạn làm thơ nên khái niệm cho được thế nào là sự “đắc
đạo” trong nghệ thuật ngôn từ.
Bên cạnh một Nguyễn Khuyến trào phúng với tiếng cười hóm
nhẹ mà sâu cay thâm thuý, một Nguyễn Khuyến mẫn tiệp về câu đối,
Xuân Diệu đã phát hiện “Nguyễn Khuyến- Nhà thơ của làng cảnh Việt
Nam”, chưa hết ông còn trân trọng gọi Nguyễn Khuyến “Nhà thơ của
làng mạc và dân quê”, nhà thơ “ bay bướm và lãng mạn”, “Nhà thơ cổ
điển duy nhất của mùa thu Việt Nam” [8, 546].Với cách phát hiện đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79
Xuân Diệu giúp người đọc hiểu sâu hơn tính dân tộc đậm đà trong nội
dung và nghệ thuật thơ Nôm của Nguyễn Khuyến
2.2 XUÂN DIỆU VỚI NỀN THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Xuân Diệu là nhà phê bình luôn luôn theo sát những bước đi
của nền thơ hiện đại, từ phong trào Thơ mới đến các giai đoạn phát
triển của thơ ca sau cách mạng tháng tám ở chặng đường nào Xuân
Diệu cũng có những đóng góp quan trọng .Trước cách mạng không chỉ
là một nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, Xuân Diệu còn
góp phần tích cực làm nên chiến thắng của phong trào Thơ mới nói
riêng, và trào lưu văn học lãng mạn nói chung, bằng các bài tranh luận
sôi nổi đăng trên các báo, tạp chí Ngày nay, Phong hoá, Tao đàn…Có
thể kể tên các bài viết tiêu biểu như: Thơ của người, Thơ khó, Tính
cách An Nam trong văn chương, Mở rộng văn chương , Thơ Huy Cận,
Công của thi Sỹ Tản Đà…Sau cách mạng, nền văn học mới ra đời, nền
thơ ca cách mạng ra đời, cùng với sáng tác thơ, hoạt động phê bình
nghiên cứu thơ của Xuân Diệu ngày càng xông xáo sôi nổi. Ông nhiệt
tình quan tâm, cổ vũ cho phong trào sáng tác thơ ca của quần chúng,
ông viết hàng loạt bài phê bình về các phong trào thơ, tổng kết các
cuộc thi thơ như: Viết về vệ quốc làm thơ, Thơ bộ đội, Thơ trong
chiến dịch sông Thao, Thơ của công nhân và thơ về công nhân, cuộc
thi thơ kháng chiến đầu tiên…Đó là chưa kể đến các bài tựa cho các
tuyển thơ hiện đại, các bài tiểu luận và phê bình thơ…Tất cả đã bộc lộ
nhiệt tình và tâm huyết xây dựng vun đắp cho nền thơ Việt Nam hiện
đại.Tuy quan tâm tới các phong trào thơ quần chúng, nhưng Xuân
Diệu quan niệm, nền văn học của một đất nước đòi hỏi phong trào
sáng tác của quần chúng phải “ kết tinh vào những tác phẩm hẳn hoi,
vào những thi sĩ thật sự, hơn một mức nữa vào những thi gia ưu tú” [5,
274]. Với quan niệm ấy, Xuân Diệu một mặt bao quát đánh giá các
phong trào thơ, mặt khác ông đã dành không ít thời gian để nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80
tìm hiểu thành tựu của các nhà thơ ưu tú trong nền thơ hiện đại. Trong
khuôn khổ luận văn, chúng tôi đi tìm hiểu công việc nghiên cứu của
Xuân Diệu ở một số tác giả tiêu biểu nhất như: Hồ Chí Minh, Tố Hữu,
Huy Cận, Trần Đăng Khoa
2.2.1 Vẻ đẹp tâm hồn Bác trong tập thơ Nhật ký trong tù
Viết về thơ Bác tưởng như dễ mà rất dễ mà khó, bởi viết về một
con người vô cùng kính yêu của dân tộc, thơ của Người rất đỗi quen
thuộc với mọi người. Đã có nhiều nhà phê bình nhiên cứu thơ Bác, đặc
biệt là tập thơ Nhật ký trong tù. Xuân Diệu đã dành một tình cảm đặc
biệt đối với thơ Bác Hồ, ông đã từng kể lại sau ngày Bác mất: “Từ
ngày 25/ 09/ 1969/ đến ngày 04/ 07/ 1970 , bản thân tôi đã bình 107
cuộc trước công chúng về thơ Hồ chủ tịch” “Tôi ôm thơ Bác vào lòng
như một hành trang diệu kỳ vô ảnh…Trời ơi! Tôi nhớ thương Bác mà
tôi đi, đồng bào các nơi nhớ thương Bác mà gọi bảo tôi đến phục vụ,
tôi đi để tôi gặp Bác ở trên đất nước, ở trong tâm hồn tôi, ở trong mắt
của đồng bào”. Xuân Diệu có nhiều bài viết đặc sắc về thơ Người:
Yêu thơ Bác 1966, Những cảm nghĩ khi đọc thơ Bác 1967, Đọc lại thơ
Nhật ký trong tù 1983…Nếu như Hoài Thanh tìm thấy trong tập thơ
khí thế lẫm liệt của người cộng sản, Đặng Thai Mai nhấn mạnh ý
nghĩa thời đại của tập thơ, Chế Lan Viên khai thác ở tập thơ cái tầm
vóc lịch sử, thì Xuân Diệu chủ yếu đi tìm vẻ đẹp tâm hồn của Bác
trong tập thơ,ông khẳng định cái hay, cái giá trị của tập thơ chính là ở
vẻ đẹp tâm hồn ấy “Tập thơ Nhật ký trong tù đứng vô song trong văn
học nước ta, vì nó là những tiếng tâm hồn của Hồ Chủ Tịch”[ 6, 287 ]
Xuân Diệu nhận xét không phải ai đọc thơ Bác cũng dễ dàng
cảm nhận được cái hay “nếu chưa nâng tâm trí mình lên đúng mức, thì
chưa th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2.pdf