Vùng nông thôn Nam Bộ, số dân cư có thu nhập thấp, đời sống vật chất và
tinh thần nghèo nàn ảnh hưởng xấu đến trình độ dân trí và sự phát triển nguồn
nhân lực. Trình độ văn hoá bình quân của người lao động chưa cao, ảnh hưởng
đến việc tiếp thu khoahọc kỹ thuật và cải thiện đời sống. Tập tục ma chay, giỗ
chạp đình đám đã xóimòn nguồn nhân lựcvà vật lực. Tệ nhậu nhẹt phổ biến làm
mất an ninh nông thôn, ảnh hưởng xấu tới chất lượng nguồn nhân lực.
144 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1846 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự phân hoá kinh tế – xã hội ở Nam Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chúng có thể bổ trợ cho nhau
tạo nên một chỉnh thể nông nghiệp hoàn chỉnh.
I..3 . Sự khác biệt tài nguyên đất tạo nên sự phát triển nông nghiệp đa dạng
và trình độ phát triển rất khác nhau theo vùng.
Qũi đất đai của Nam Bộ khá lớn và có ưu thế về độ phì nhiêu cao so với
các vùng khác. Theo số liệu thống kê năm 1998, tổng qũi đất của Nam Bộ vào
khoảng 7 triệu ha, trong đó:
- Đất nông nghiệp khoảng 4,159 triệu ha, chiếm 59,4% quỹ đất của vùng.
- Đất chuyên dùng khoảng 0,35 triệu ha.
- Đất khu dân cư khoảng 0,32 triệu ha.
Đất của Đông Nam Bộ rất đa dạng về chủng loại, các loại đất chính được
hình thành trên đá bazan, magan, tầm tích cổ có tầng canh tác dày, giàu dinh
dưỡng cho phép phát triển những vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn trái,
cây thực phẩm và chăn nuôi.
Theo kết quả nhgiên cứu của Phạm Quang Khánh (phân viện qui hoạch và
thiết kế nông nghiệp Miền Nam - 1995) Đông Nam Bộ được chia thành 9 nhóm
đất:
- Nhóm đất có diện tích lớn nhất là đất đỏ vàng, diện tích: 1.018.786 ha
(chiếm 44% diện tích đất tự nhiên), trong đó, đất đỏ vàng có nguồn gốc bazan với
diện tich : 92.748 ha (chiếm 58,18% diện tích đất đỏ vàng), đây là loại đất tốt rất
thích nghi với các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao như : và phê, cao su, tiêu,
cây ăn trái …, phân bố tập trung ở 3 khu vực là Xuân Lộc, Long Khánh (Đồng
Nai); Phứơc Long, Lộc Ninh (Bình Phước) và Châu Đức, Xuyên Mộc (Bà Rịa -
Vũng Tàu).
- Nhóm đất thứ hai là đất xám, diện tích :744.652ha (chiếm
31,75%DTTN), phân bố tập trung thành dải rộng từ Tây Ninh qua Bình Dương,
TP. Hồ Chí Minh đến Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu, mặc dù có một số hạn
chế về đặc tính lý hoá của đất, nhưng đây là nhóm đất quan trọng trong phát
triển nông nghịêp của vùng.
- Nhóm đất đen có nguồn gốc bazan, diện tích 99.100ha, là nhóm đất có
tiềm năng nông nghiệp cao, phân bố ở các huyện Tân Phú, Định Quán, Long
Khánh, Thống Nhất (ĐồngNai) .
Ngoài 3 nhóm đất chính trên, các nhóm đất khác có diện tích nhỏ và tiềm
năng nông nghiệp còn thấp, đề sử dụng hiệu quả cần phải có một số những biện
pháp kỹ thuật và lựa chọn cơ cấu cây trồng phù hợp để tăng hiệu quả sử dụng.
Đánh giá chung và xét thích nghi cây trồng, nhóm nghiên cứu nêu trên đã
rút ra kết quả sau đây: Toàn vùng có khoảng 1.626.000ha (chiếm 70% DTTN)
đất có khả năng sản xuất nông nghiệp, trong đó 1.440.000ha (62% DTTN) được
xem là thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, còn lại là đất có nhiều yếu tố hạn
chế, tiềm năng nông nghiệp thấp.
Đất củaTây Nam Bộ được hình thành nhờ bồi đắp phù sa của hệ thống
sông Cửu Long. là nơi có nguồn nước ngọt dồi dào có tiềm năng và thực sự đã trở
thành vựa lúa lơn nhất không những của Việt Nam mà của cả thế giới.
Tổng diện tích Tây Nam Bộ không kể đảo, khỏang 3,96 triệu ha, trong đó
khỏang 2,60 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy
sản chiếm 65%. Trong qũi đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm trên
50%, trong đó chủ yếu đất lúa chiếm trên 90%. Đất chuyên canh tác các loại cây
màu và cây công nghiệp ngắn ngày chỉ chiếm 150 000 ha, đất cây lâu năm chiếm
trên 320 000 ha, khoảng 8,2% diện tích tự nhiên.
Vùng bãi triều có diện tích khỏang 480 000ha, trong đó có gần 300 000ha
có khả năng nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ. Theo điều tra năm 1995 có
508 000ha đất lâm nghiệp, trong đó đất có rừng 211 800ha và đất không rừng
296 400ha. Tỷ lệ che phủ rừng chỉ còn 5%.(1)
Theo kết quả điều tra lập bản đồ đất gần đây (Tôn Thất Chiêm - 1991) đã
phân ra 8 nhóm đất chủ yếu trên toàn đồng bằng với chất lượng đất phân hoá rất
phức tạp và không đồng đều, bao gồm :
- Đất phèn có diện tích lớn nhất: 1.600.263ha (chiếm 40,8% DTTN), được
phân bố tập trung ở các vùng trũng lớn là Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên
và bán đảo Cà Mau. Ta có thể chia ra vùng đất phèn nặng và phèn nhẹ, trung
bình. Nhìn chung, hiệu quả kinh tế không cao đối với các loại đất này, vì thế cần
phải đầu tư cải tạo hoặc tưới tiêu Đất phù sa có diện tích 1.184.857ha chiếm
30% DTTN),được phân bố tập trung ở ven và giữa sông Tiền – sông Hậu
hướng ra phía biển đất phù sa lớn dần theo qui luật bồi trầm tích của sông tạo
thành một tam giác châu điển hình. Đất phù sa có thể được phân ra nhiều loại,
trong đó loại đất phù sa glây và đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng chiếm qui
mô lớn nhất, tập trung ở các tỉnh ven sông nhưng không bị ảnh hưởng mặn (Long
An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre Vĩnh Long, Cần Thơ). Đây là
loại đất có giá trị kinh tế cao, đặc biệt thuận lợi cho trồng lúa.
________________
(1)Nguồn: Viện nghiên cứu kinh tế
Qua kết quả phân tích, đánh giá hiệu quả tài chính các kiểu đất của
Nguyễn Văn Nhân (luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Nông nghiệp) ta thấy:
+ Tính chất thổ nhưỡng và điều kiện tưới tiêu có tác động rất quan trọng
đến khả năng thực hiện cũng như chi phối hiệu quả kinh tế của các hệ thống sử
dụng đất, trong đó khả năng được tưới giúp năng suất cao đáng kể hiệu quả kinh
tế của sử dụng đất ở Tây Nam Bộ - đây là điều hiển nhiên trong điều kiện khí
hậu và thuỷ văn mang chế độ mùa rõ nét của đồng bằng đã ảnh hưởng đến toàn
bộ hệ sinh thái.
+ Hầu hết các hệ thống sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao đều có mức
đầu tư cao tương ứng. Điều này cho thấy tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư
đối với sử dụng đất ở Tây Nam Bộ. Đây cũng là lẽ đương nhiên vì đã đến lúc sản
xuất không còn chỉ dựa vào tự nhiên mà phải cải tạo nó để nâng cao hiệu quả
kinh tế.
+ Ở các vùng có nhiều hạn chế, đất có hiệu quả kinh tế thấp, thì phát triển
lâm nghiệp sẽ phù hợp hơn, hợp lý hơn và là điều cần thiết cả về khía cạnh kinh
tế lẫn môi trường.
Trên đồng bằng, trong các kiểu sản xuất nông nghiệp thì loại hình 2 -3
vụ lúa hoặc lúa mùa và chuyên canh màu có sức hấp dẫn cao về kinh tế so với
các loại hình khá. Cây lâu năm và cây ăn quả có ưu thế và có hiệu quả kinh tế ở
các vùng đất phì nhiêu.
Bảng 1: Thống kê diện tích nhóm và loại dất vùng ĐNB
STT NHÓM VÀ LOẠI ĐẤT KÝ HIỆU DIỆN TÍCH
(HA)
TỶ LỆ
( %)
I
1
2
II
3
III
4
5
6
7
IV
8
9
10
11
V
12
13
NHÓM ĐẤT CÁT BIỂN
Cồn và đụn cát
Đất bãi cát biển mặn
NHÓM ĐẤT MẶN
Đất mặn
NHÓM ĐẤT PHÈN
Đất phèn tiềm tàng nông, dưới rừng ngập mặn
Đất phèn tiềm tàng sâu, dưới rừng ngập mặn
Đất phèn tiềm tàng
Đất phèn hoạt động
NHÓM ĐẤT PHÙ SA
Đất phù sa chưa được bồi chưa phân hoá ph..d
Đất phù sa không được bồi, có tầng loang lỗ
Đất phù sa glây
Đất phù sa ngòi suối
NHÓM ĐẤT XÁM
Đất xám trên phù sa cổ
Đất xám glây
Cc
Cm
M
Sp1Mm
Sp2Mm
Sp
Sj
P
Pf
Pg
Ps
X
Xg
28.058
20.056
5.402
2.500
2.500
170.445
56.983
22.713
58.261
32.488
87.216
21.556
19.829
30.189
15.644
744.652
638.914
51.558
1.20
0.11
7.27
3.72
31.75
14
VI
15
16
VII
17
18
19
20
21
22
VIII
23
IX
24
Đất xám trên granit
NHÓM ĐẤT ĐEN
Đất nâu thẩm trên đá bọt bazan
Đất đen trên bồi tụ bazan
NHÓM ĐẤT ĐỎ VÀNG
Đất đỏ nâu trên đá bazan
Đất nâu vàng bazan
Đất đỏ vàng trên đá phiến sét
Đất vàng trên đá cát kết
Đất đỏ vàng trên granit
Đất vàng nâu trên phù sa cổ
NHÓM ĐẤT BỒI TỤ
Đất dốc tụ
ĐẤT XÓI MÒN TRƠ SỎI ĐA
Đất xói mòn trơ sỏi đá
SÔNG SUỐI ĐƯỜNG LỘ THỔ CƯ
TỔNG CỘNG
Xa
Ru
Rk
Fk
Fu
Fs
Fs
Fa
Fp
D
54.150
99.100
54.150
44.950
1.018.786
416.561
176.187
278.560
5.217
30.890
111.371
53.882
53.882
13.195
13.195
11.746
2.345.212
4023
43.44
2.30
0.56
5.43
100
Nguồn: Phạm Quang Khánh & ctv. Luận án phó tiến si’,1995.
Bảng 2 : Các loại đất ở vùng TNB
STT TÊN ĐẤT KÝ
HIỆU
DIỆN TÍCH
(HA)
TỶ LỆ
( % )
I
1
II
2
3
4
5
III
ĐẤT CÁT
Đất Các Giồng
ĐẤT MẶN
Đất Mặn Dưới Rừng Ngập mặn
Đất Mặn Nhiều
Đất Mặn Trung Bình
Đất Mặn Ít
ĐẤT PHÈN
Đất Phèn Tiềm Tàng
Cz
Mm
Mn
M
Mi
43.318
43.318
744.547
56.022
102.103
148.934
437.488
1600.263
421.867
1,10
1,10
18,93
1,43
2,59
3,79
11,12
40,77
10,78
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
IV
16
17
18
19
V
20
VI
21
22
23
VII
24
VIII
25
Đất Phèn Tiềm Tàng Nông Dưới Rừng Ngập Mặn
Đất Phèn Tiềm Tàng Sâu Dưới Rừng Ngập Mặn
Đất Phèn Tiềm Tàng Nông - Mặn
Đất Phèn Tiềm Tàng Sâu - Mặn
Đất Phèn Tiềm Tàng nông
Đrất phèn tiềm tàng sâu
Đất phèn hoạt động
Đất phèn hoạt độngnông - mặn
Đất phèn hoạt động sâu - mặn
Đất phèn hoạt động nông
Đất phèn hoạt động sâu
ĐẤT PHÙ SA
Đất phù sa được bồi
Đất phù sa không được bồi, cao ven sông
Đất phù sa không được bồi ,glây
Đất phù sa không được bồi có tầng loang lỗ
ĐẤT LẦY VÀ THAN BÙN
Đất than bùn - phèn
ĐẤT XÁM
Đất xám trên phù sa cổ
Đất xám động mùn trên phù sa cổ
Đất xám trên sản phẩm phong hoá đá mác ma axít
ĐẤT ĐỎ VÀNG
Đất đỏ vàng trên sản phẩm phong hoá đá mac ma
axít
ĐẤT XÓI MÒN TRƠ SỎI ĐÁ
Đất xói mòn trơ sỏi đá
Sông , rrạch …
TỔNG CỘNG
Sp1Mm
Sp2Mm
Sp1M
Sp2M
Sp1
Sp2
Sj1M
Sj2M
Sj1
Sj2
Pb
P
Pg
Pf
TS
X
Xg
Xa
Fa
E
134.897
30.754
50.176
34.467
54.960
116.613
1178.396
118.460
324.770
192.081
543.085
1184.857
83.914
96.885
355.646
648.412
24.027
24.027
134.656
84.845
31.028
18.783
2420
2420
8787
8787
190.257
3933132
3,44
0,78
1,28
0,88
1,41
2,99
29,99
3,01
8,26
4,88
13,84
30,05
2,06
2,46
9,04
16,49
0,61
0,61
3,42
2,16
0,79
0,47
0,06
0,06
0,22
0,22
4,84
100
Nguồn : Nguyễn Văn Nhân - luận án đã nêu
Nhìn chung, xét về tài nguyên đất, cả về số lượng và tính chất các loại
đất, Tây Nam Bộ có lợi thế hơn hẳn Đông Nam Bộ về sản xuất cây lương thực
(đặc biệt là cây lúa), về nuôi trồng thủy sản, ngược lại Đông Nam Bộ lại có ưu
thế hơn hẳn về phát triển cây công nghiệp (đặc biệt là cây lâu năm), đánh bắt
hải sản. Sự khác biệt này đã tạo cho vùng Nam Bộ có cơ cấu nông nghiệp đa
ngành và có điều kiện chuyên canh trên diện tích rộng lớn.
I. 4. Tài nguyên nước.
Trên địa bàn Nam Bộ, lượng mưa hàng năm khoảng từ 1500 đến 2500mm
mang đến 150 tỷ m3 nước. Nguồn nước từ hệ thống sông Đồng Nai và sông Cửu
Long cung cấp khoảng 400 tỷ m3/năm. Toàn vùng có 9 phức hệ nước ngầm với
trữ lượng 20 tỷ m3 ở Tây Nam Bộ và 10 tỷ m3 ở Đông Nam Bộ. Hệ thống sông
ngòi ngoài giá trị tưới tiêu còn mang lại nhiều nguồn lợi kinh tế khác: như phát
triển giao thông thuỷ, cung cấp phù sa, thuỷ điện và thuỷ sản.
Mặt hạn chế là nguồn nước ở Nam Bộ phân bố không đều về thời gian và
không gian nên đã gây nên hạn hán và lũ lụt cục bộ ảnh hưởng đến sản xuất và
đời sống của cư dân. Theo thống kê, trong vòng 70 năm qua, bình quân 3 năm có
một lần lũ và có hơn 10 cơn lũ dữ làm thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng (mỗi cơn lũ).
Đông Nam Bộ có 3 hệ thống sông lớn, lớn nhất là hệ thống sông Đồng
Nai, với các phụ lưu sông Bé, sông Sài Gòn và hệ thống sông Ray và sông Dinh
là những sông chính cung cấp nguồn nước mặt cho vùng. Tổng lượng nước mặt
của vùng khoảng 30 tỷ m3/năm, trong đó tập trung trong mùa lũ (chiếm 71 - 83%
của cả năm) mùa khô dòng chảy thấp, xâm nhập mặn sâu vào các sông làm ảnh
hưởng đến việc tưới cho nông nghiệp, cấp nước cho đô thị và công nghiệp.
Vềø nguồn nước ngầm, theo kết quả điều tra tổng hợp vùng ĐNB (60 - G)
thì vùng được đánh giá là giàu tài nguyên nước ngầm . Trữ lượng nứơc dưới đất
khoảng 8 tỷ m3/năm với thành phần hoá học tốt, đảm bảo cho nhu cầu mọi mặt.
Hiện nay nước ngầm đang được khai thác ở qui mô công nghiệp cung cấp cho
công nghệp và sinh hoạt của vùng.
Về chế độ thủy văn :
- Thủy triều: ĐNB chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều
của biển Đông. Biên độ triều giảm dần từ biển vào các sông (tại cửa Xoài Rạp
biên độ triều lớn nhất lên đến ≥ 3,0m, tại sông Đồng Nai là 1,5m, cầu Sài Gòn
1,5 - 1,6m). Mức độ ảnh hưởng triều trên sông Đồng Nai đến chân đập Tri An và
trên sông Bé đến tận Dầu Tiếng, vì thế có thể tận dụng thủy triều để tưới tiêu
cho nông nghiệp và cấp thoát nước cho nuôi trồng thủy sản .
- Xâm nhập mặn: chế độ xâm nhập mặn phụ thuộc vào chế độ dòng chảy
của sông và chế độ triều, vì thế tời gian xâm nhập mặn cao nhất là vào tháng 4 -
5. Ranh mặn có xu thế xâm nhập sâu vào nội địa (trên sông Đồng Nai cách biển
67km, trên sông Sài Gòn 11km , trên sông Vàm Cỏ Đông 145km).
- Lũ và úng: Do thảm thực vật bị thu hẹp, độ che phủ giảm nên modul
dòng chảy mặt gia tăng gây ra lũ quét cục bộ ở nhiều nơi, ngập úng lâu ở các khu
vực trũng.
Tây Nam Bộ có hệ thống sông lớn là hệ thống sông Cửu Long với nhiều
những phụ lưu và chi lưu làm cho vùng có mạng lưới sông ngòi rất dày đặc, thuận
lợi cho việc cung cấp nước ngọt quanh năm.
Nguồn cung cấp nước ngọt của Tây Nam Bộ là từ nước sông Mê Kông và
nước mưa. Cả hai nguồn nước này đều mang tính đặc trưng theo mùa một cách rõ
rệt. Lượng nước bình quân của sông Mekông chảy qua TNB hơn 460 tỷ m3 và vận
chuyển khoảng 150-200 triệu tấn phù sa. Chính lượng nước và khối lượng phù sa
đó trong quá trình bồi đắp lâu dài đã tạo nên đồng bằng châu thổ phì nhiên ngày
nay.
Về mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, sông Mekông là nguồn nước mặt
duy nhất. Về mùa mưa, lũ thường xảy ra vào tháng 9, nước sông lớn gây ngập
lụt.
Chế độ thuỷ văn của TNB có 3 đặc điểm nổi bật:
+ Nước ngọt và lũ lụt vào mùa mưa chuyển tải phù sa, phù du và ấu
trùng.
+ Nước mặn vào mùa khô ở vùng ven biển.
+ Nước chua phèn vào mùa mưa ở vùng đất phèn.
Trữ lượng nước ngầm không lớn. Sản lượng khai thác an toàn
1 triệum3/ngày đêm.
Về nguồn nước, Nam Bộ là vùng có nguồn nước phong phú. Tính chất
theo mùa của chế độ thủy văn là đặc điểm nổi bật nhất của vùng. Tính chất này
đã gây lũ lụt và hạn hán ở Đông Nam Bộ; gây lũ lụt và nhiễm mặn ở Tây Nam
Bộ ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp.
I. 5. Hệ thực động vật.
Hệ thực động vật ở Nam Bộ rất phong phú và đa dạng.
Thảm thực vật trên đất nông nghiệp bao gồm tập đoàn cây ngắn ngày và
tập đoàn cây dài ngày phân bố rộng khắp. Đáng chú ý là tập đoàn lúa nước và
tập đoàn cây công nghiệp có quy mô lớn nhất Việt Nam, hình thành vùng chuyên
canh lúa vào loại lớn nhất thế giới. Tập đoàn cây công nghiệp gồm dừa, cao su,
cà phê, tiêu, điều, cây ăn quả cũng quy mô lớn và phong phú hiếm có trên thế
giới.
Hệ động vật của Nam Bộ cũng rất phong phú và đa dạng. Tập đoàn các
loại vật nuôi ở đây như: heo, gà, vịt, trâu, bò có quy mô lớn. Dưới nước có nhiều
loại tôm, cá, rùa, ba ba hết sức đa dạng. Tuy nhiên, do môi trường thiên nhiên bị
tàn phá và khai thác bừa bãi, một số giống loài bị suy giảm về số lượng, có loài
(hoang dã) đang có nguy cơ tuyệt chủng.
ĐNB có rừng tự nhiên phân bố không đều giữa các tỉnh, chủ yếu tập trung
ở Bình Thuận (hơn 434 nghìn ha), Bình Dương và Bình Phước (272 nghìn ha),
Ninh Thuận (154 nghìn ha). Các tỉnh khác chỉ có dưới 100 nghìn ha, ít nhất là
thành phố Hồ Chí Minh (6700 ha).
Rừng trồng tập trung ở Bình Dương, Bình Phước (15.2 nghìn ha), Bình
Thuận (14 nghìn ha), Bà Rịa-Vũng Tàu (1403 nghìn ha). Các tỉnh khác có số rừng
trồng ít hơn nhiều.
Rừng Đông Nam Bộ chủ yếu cung cấp gỗ dân dụng và củi đốt cho thành
phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long, nguyên liệu cho Liên hiệp giấy
Đồng Nai. Ơû vùng này có một phần vườn quốc gia Cát Tiên nổi tiếng. Do đó,
việc giữ gìn vốn rừng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh
thái. Nó giúp cho vùng này không bị mất nước trong các hồ chứa, giữ được mực
nước ngầm. Việc bảo vệ rừng có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của các
vùng chuyên canh cây công nghiệp.
TNB: về thực vật tự nhiên, đáng chú ý nhất là các vùng ngập mặn ven
biển. Rừng ngập mặn Bạc Liêu, Cà Mau có trên 150 000 ha. Loại rừng này có 46
loài, chủ yếu là đước. Rừng Kiên Giang chủ yếu là rừng tràm, nhất là ở U Minh,
có khoảng 171 000 ha. Xét về mặt kinh tế, rừng ven biển có già trị tương đối lớn,
với 14 loại cây cho ta nanh, 30 loài cây cho gỗ và than củi, 24 loài cây phân
xanh, 14 loài làm thức ăn cho người và gia súc, 5 loài làm thuốc, 21 loài cho hoa
để nuôi ông lấy mật. Rừng ngập mặn còn góp phần giữ phù sa bồi đắp cho đồng
bằng và cải tạo đất.
Về động vật, có ý nghĩa kinh tế nhất là các loài động vật sinh trưởng dưới
nước, đặc biệt là tôm và cá. Như trên đã đánh giá, trữ lượng cá vùng này lớn nhất
cả nước, phân bố chủ yếu ở các khu vực cửa sông và vịnh Thái Lan. Riêng ở
vùng vịnh Thái Lan, cá đáy khoảng 600 000 tấn, chiếm 36% lượng cá đáy cả
nước. Cá nổi khoảng 257 000 tấn, chiếm 20% cá nổi cả nước, tôm có 25 000 tấn,
chiếm khoảng 50% trữ lượng tôm cả nước.Tây Nam Bộ cũng là vùng có năng
suất nguyên sinh cao nhất. Vùng cửa sông Cửu Long có năng suất cao gấp 10 lần
so với các vùng ven biển khác trên toàn quốc. Về chất lượng có nhiều giống tôm,
cá quý như cá bạc má, cá lẹp, cá trích, cá nục, thu, ngừ…tôm có tôm he, tôm vộ;
mực có mực nang, mực ống…ngoài ra có đồi mồi, rắn, trăn các loại…
Thuỷ sản nội địa chủ yếu là tôm, cá nước ngọt, nước lợ, trong các sông
ngòi, kênh, rạch, vùng trũng.nhiều loài có giá trị kinh tế cao như tôm càng xanh,
cá chép, cá tra, cá bống… Đây là nguồn thực phẩm dồi dào cho nhân dân vùng
đồng bằng.
Về động vật trên cạn, đáng quan tâm nhất là các loài chim tự nhiên. Ở
đây từ xưa tới nay đã hình thành nhiều khu vực trú ngụ của các loài chim, tạo
thành những vườn chim độc đáo. Thực chất, đây là hệ sinh thái đặc trưng của
vùng (cá-rừng-chim), tạo thành một trạng thái cân bằng ổn định. Nếu một thành
phần nào mất đi thì các thành phần khác cũng bị ảnh hưởng. Hiện nay vẫn còn
các vườn chim tự nhiên như vườn Ngọc Hiển, Cái Nước, Vĩnh Lợi ( Bạc Liêu, Cà
Mau), vườn Cù Lao Đất (Bến Tre), vườn chim U Minh, Giá Rai, Hồng
Dân…Trong vùng có khoảng 386 loài chim. Về mặt kinh tế, đây là nguồn thực
phẩm có giá trị (trứng, thịt), nguồn phân bón cho nông nghiệp và xuất khẩu.
Vườn chim còn là cảnh quan kỳ thú hấp dẫn khách du lịch, các nhà nghiên cứu
khoa học.
Về thú, các dải rừng ven biển có khỉ, lợn rừng, động vật có vú ăn cá…
Ở TNB, hệ sinh thái rừng ngập mặn là điển hình nhất trong cả nước. Vì thế, cần
phải ít nhiều đề cập tới tài nguyên này.
Rừng ngập mặn Việt Nam phân bố dọc theo bờ biển từ Bắc vào Nam,
nhưng chủ yếu tập trung ở các tỉnh đồng bằng ven biển TNB gồm Tiền Giang,
Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liên, Cà Mau, Kiên Giang và thành phố Hồ
Chí Minh, đặc biệt là vùng đất mũi Cà Mau.
Đối với TNB, hệ sinh thái rừng ngập mặn là một tài nguyên quan trọng,
có giá trị không chỉ về kinh tế, mà còn về sinh học và môi trường. Đây là vùng
đang được nhiều nhà khinh tế, môi trường và sinh thái học quan tâm.
Rừng ngập mặn là một vùng có hệ sinh thái đặc biệt, đem lại nhiều lợi ích
cho con người. Từ nhiều góc độ, rừng ngập mặn ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp tới sản xuất, sinh hoạt và môi trường của địa phương. Sản phẩm trực tiếp của
nó là các loại thực phẩm tôm cá, hải sản, gỗ củi, vật liệu phục vụ cho nhà ở (như
nguyên liệu lợp nhà…) và các loại dược liệu.
Trên nền chung là phong phú và đa dạng về cá thể và chủng loại, hệ
sinh thái Nam Bộ có sự phân hóa khá rõ, với hệ sinh thái dưới nước ở Tây Nam
Bộ và trên cạn là hệ sinh thái đặc trưng của Đông Nam Bộ. Từ nguồn tài
nguyên đó tạo cho Tây Nam Bộ có nhiều lợi thế về phát triển ngành nuôi trồng
thủy sản,phát triển rừng ngập mặn và du lịch sinh thái ven biển và dưới nước.
Đông Nam Bộ có khả năng phát triển ngành đánh bắt thủy sản, ngành du lịch
với loại hình du lịch sinh thái trên cạn. Từ những lợi thế của các khu vực này,
tạo cho Nam Bộ phát triển ngành nông, lâm, ngư nghiệp, Đặc biệt là du lịch
sinh thái với nhiều loại hình.
I. 6. Tài nguyên khoáng sản.
Nhìn chung khoáng sản của vùng không phong phú và có qui mô nhỏ
Đông Nam Bộ có 243 mỏ các loại, trong đó chủ yếu là các mỏ phi kim
loại, trừ dầu mỏ, là loại khóang sản có ý nghĩa cả nước với trữ lượng dự báo
khoảng 4 - 5 tỷ tấn dầu và khoảng 485 -500 tỉ m3 khí, kế đến là bôxit. Ngoài ra
vùng còn có các loại đá quí, nguyên liệu làm vật liệu xây dựng … Nhìn chung
giá trị kinh tế của các mỏ khoáng sản ở Đông Nam Bộ là rất đáng kể, song phần
lớn các mỏ khoáng sản đều nằm ở các vùng mà cơ sở hạ tầng chưa phát triển nên
việc khai thác chưa thuận lợi.
Khoáng sản ở Tây Nam Bộ hầu như không đáng kể, ngoài một số loại như
đá vôi,cát, than bùn và một số nguồn nước khoáng. Tuy nhiên đây là vùng có
triển vọng dầu khí trong thềm lục địa tiếp giáp thuộc biển Đông và vịnh Thái Lan
gồm các bể trầm tích sau:
- Bể trầm tích Cửu Long: thềm lục địa tiếp giáp Đông Nam Bộ ở phía Bắc,
Tây Nam Bộ ở phía Nam. Dự báo khoảng 2 tỷ tấn quy đổi.
- Bể trầm tích Nam Côn Sơn: tiềm năng dự báo địa chất khỏang 3 tỷ tấn
dầu qui đổi.
- Bể trầm tích Thổ Chu - Mã Lai thuộc vịnh Thái Lan có trữ lượng dự báo
không lớn, khoảng vài trăm triệu tấn dầu.
- Đá vôi có trữ lượng khoảng 130 đến 440 triệu tấn.
- Đá Granit, Andesit có khoảng 450 triệu m3.
- Sét gạch ngói có trữ lượng đến 40 triệu m3.
- Cát sỏi có trử lượng đến 10 triệu m3/năm.
- Than bùn có trữ lưởng70 triệu tấn, trong đó U Minh có khoảng 300 triệu
tấn.
- Nước khoáng có ở Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Minh
Hải.
Nhìn chng khoáng sản Nam Bộ nghèo về chủng loại, hầu hết các loại
khoáng sản quí, có trữ lượng lớn đều tập trung ở Đông Nam Bộ. Khoáng sản có ý
nghĩa nhất đối với vùng và quốc gia là dầu cũng tập trung ở Đông Nam Bộ. Vì
thế, có thể nói, công nghiệp là lợi t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVDLKTXH004.pdf