Luận văn Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Nghệ An

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5

1.1. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp 5

1.2. Doanh nghiệp cổ phần từ doanh nghiệp nhà nước và sức cạnh tranh của doanh nghiệp cổ phần được hình thành từ doanh nghiệp nhà nước 21

1.3. Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp sau cổ phần hoá ở một số địa phương 34

Chương 2: THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NGHỆ AN 38

2.1. Quá trình hình thành doanh nghiệp cổ phần từ doanh nghiệp nhà nước ở Nghệ An 38

2.2. Thực trạng sức cạnh tranh của doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 48

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 63

3.1. Phương hướng 63

3.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 68

KẾT LUẬN 94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96

 

 

doc97 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong sản xuất kinh doanh của người lao động được đảm bảo và phát huy. Thứ ba: Động lực chính thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn, đó là việc giải quyết vấn đề lợi ích gắn với hiệu quả công việc và số lượng góp vốn của cổ đông vào doanh nghiệp. Thứ tư: Hệ thống chính trị trong doanh nghiệp cổ phần đã khẳng định và phát huy được vai trò của mình trong hoạt động nên đã góp phần làm tốt công tác tư tưởng, tạo cho người lao động yên tâm hăng hái sản xuất kinh doanh và cổ đông họ tích cực hơn, ý thức trách nhiệm hơn trong công việc. Các đảng viên là cán bộ trong doanh nghiệp đã khẳng định được vị thế của mình trong doanh nghiệp, thể hiện trong việc tham gia lãnh đạo sản xuất kinh doanh, trong tìm kiếm thị trường, trong mạnh dạn đề xuất ý kiến đổi mới trang thiết bị, trong sáng kiến cải tiến kỹ thuật và lựa chọn phương án kinh doanh... nên đã góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Trong sự phát triển chung khá tốt của doanh nghiệp sau cổ phần hoá, vẫn còn một số đơn vị hoạt động cầm chừng, chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp. Do phương án cổ phần hoá cơ bản khép kín, hầu như mọi hoạt động và tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ chủ chốt được chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang nguyên trạng còn mang nặng tư tưởng bao cấp, do đó khó có bước đột phá về tư duy chiến lược và chuyển biến về chất của mô hình quản lý mới, chưa tìm ra "ông chủ" đích thực nên bắt đầu có biểu hiện trì trệ của một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Hệ thống chính trị trong nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động theo hình thức cũ, vi phạm luật doanh nghiệp, điều lệ công ty... Một số doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá chậm quyết toán chi phí chuyển đổi, bàn giao tài chính, mua cổ phần phát cho cổ đông, giải quyết chế độ chính sách cho người lao động, có doanh nghiệp còn lúng túng trong việc thực hiện điều lệ, luật doanh nghiệp, xác định quy chế tiền lương... Hệ thống quản lý nhà nước về các ngành chức năng đã có biểu hiện vừa buông lỏng vừa áp đặt, phân biệt đối xử, nhất là các lĩnh vực thuế, đấu thầu dự án, điều kiện vay vốn, chính sách cán bộ... Nội dung và phạm vi chi phối không được xác định rõ nên các doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối và không chi phối đang có tình trạng "canh vốn" của Sở Tài chính, Sở chủ quản giao người đại diện nắm giữ, nay chuyển về cho Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước đã nẩy sinh tư tưởng "độc quyền ông chủ mới" làm cho doanh nghiệp thiếu tính chủ động sáng tạo, quyết đoán và không phát huy được ý nguyện và quyền dân chủ, tự quyết của các cổ đông thông qua đại hội cổ đông và hội đồng quản trị, vấn đề thực thi dân chủ trong doanh nghiệp cổ phần hoá cũng đang là vấn đề nổi cộm. Đã có hiện tượng "gom vốn" của một số cổ đông nghèo cho một vài cá nhân để thao túng doanh nghiệp hoặc mua, bán cổ phần để tập trung quyền chi phối nhằm chuyển đổi hình thức doanh nghiệp cổ phần hoá thành "kiểu" doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời hiện tượng phân chia lợi nhuận bất hợp lý giữa cổ tức và tiền lương của người lao động, nguyên do là từ lợi ích của các nhà đầu tư vốn và người nắm giữ cổ phần lớn. Sự phân hoá giàu, nghèo trong doanh nghiệp cổ phần còn khá phổ biến, do sự chênh lệch giữa người nắm giữ số lớn, số ít cổ phần và người không có cổ phần dẫn đến sự chênh lệch lớn từ thu nhập cổ tức. Chất lượng đội ngũ cán bộ doanh nghiệp nhìn chung còn nhiều bất cập, đang nặng phải đối phó với tình hình, lúng túng, chưa nhập cuộc vào mô hình mới, tác phong điều hành, tư duy làm ăn vẫn chưa thoát lề thói cũ của doanh nghiệp nhà nước là mấy. Tính độc lập, tự chủ, nhanh nhạy kịp thời của các ban kiểm soát vẫn chưa cao, nghiệp vụ còn yếu chưa tạo được niềm tin vững chắc trong cổ đông. Nhìn chung, việc kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các doanh nghiệp cổ phần đang gặp khó khăn phức tạp. Một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn đang gặp nhiều khó khăn, mất vốn, thua lỗ, thiếu việc làm, thu nhập thấp, đầu tư kém hiệu quả, mất thương hiệu, không đủ sức cạnh tranh, nội bộ thiếu thống nhất. 2.1.1. Hình thức cổ phần hoá Qua khảo sát 85 doanh nghiệp cổ phần hoá ở tỉnh Nghệ An qua các năm cho thấy (Bảng 2.2): Bảng 2.2: Các hình thức cổ phần hoá Năm Số DN cổ phần Các hình thức cổ phần Có vốn NN chi phối thuộc TW Có vốn chi phối thuộc tỉnh 100% vốn cổ đông Cổ đông chiến lược chi phối Có vốn NN không chi phối (51%) 2001 18 0 10 2 - 8 2002 26 1 12 2 - 11 2003 35 3 15 5 - 13 2004 52 4 18 8 1 17 2005 75 9 31 10 2 22 2006 85 10 33 12 2 28 Nguồn: Báo cáo của Ban Đổi mới doanh nghiệp tỉnh Nghệ An. - Doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước chi phối trực thuộc tổng công ty hoặc ngành trung ương, đặc điểm: + Chủ thể sở hữu bao gồm: Sở hữu nhà nước chiếm cổ phần chi phối sở hữu của các cổ đông mà đại bộ phận là cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và cũng có cổ đông bên ngoài (có thể là pháp nhân và thể nhân) + Quan hệ quản lý: Quản lý bằng hội đồng quản trị gồm những người quyết định vận mệnh của doanh nghiệp lại là người của tổng công ty chuyển sang; người lao động trực tiếp đa số là người có cổ phần - vừa là người lao động vừa là người làm chủ. Vì vậy, tuy danh nghĩa về chính trị nó hoạt động theo luật doanh nghiệp và dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ các Doanh nghiệp Nghệ An để có cái riêng tương đối cả về kinh tế (chế độ phân phối) và chính trị, nhưng thực tế doanh nghiệp này lại bị chi phối khá mạnh của tổng công ty hoặc ngành cấp trên về phương hướng sản xuất kinh doanh, phát triển doanh nghiệp, chính trị, tư tưởng, công tác cán bộ, công tác quần chúng... - Doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước chi phối trực thuộc tỉnh (từ 51% trở lên trên tổng vốn điều lệ của doanh nghiệp), đặc điểm: + Chế độ sở hữu: Bao gồm sở hữu nhà nước chiếm cổ phần chi phối và sở hữu người lao động. + Quan hệ quản lý (quan hệ giữa những người trong sản xuất kinh doanh) là chế độ quản lý bằng tập thể (hội đồng quản trị) do đại hội cổ đông bầu ra, người lao động vừa là chủ, vừa là thợ. + Chế độ phân phối: Lợi nhuận thuộc về những người có vốn. Tiền lương được trả cho người lao động dựa trên cơ sở thang bậc lương ngành nghề của nhà nước quy định; các chế độ, quyền lợi và nghĩa vụ khác thì bị chi phối bởi luật lao động và các luật liên quan. Cả hai loại doanh nghiệp trên đây, nhà nước đều nắm cổ phần chi phối. Do đó, nhà nước nắm vai trò quyết định đối với chế độ bầu các thành viên hội đồng quản trị. Như vậy doanh nghiệp cổ phần mà nhà nước nắm cổ phần chi phối không hoàn toàn như doanh nghiệp nhà nước trước kia. Tuy nhiên cùng có ý kiến cho rằng thực chất nó như doanh nghiệp nhà nước, bởi vì 51% số vốn trở lên, thậm chí có doanh nghiệp có tới gần 90% vốn nhà nước, khi bầu cử hội đồng quản trị số phiếu của nhà nước sẽ định đoạt cán bộ. Điều này vẫn chưa khắc phục được hiện trạng vốn nhà nước lại giao cho một số ít người quản lý, chi tiêu nếu cơ chế quản lý không chặt chẽ, dễ dẫn đến tình trạng có biểu hiện mất dần vốn nhà nước, sản xuất kinh doanh không hiệu quả. - Doanh nghiệp cổ phần không có vốn nhà nước tham gia trong tổng số vốn điều lệ của doanh nghiệp (100% vốn của cổ đông, người lao động): Đây là trường hợp nhà nước bán toàn bộ cổ phần cho người lao động và các nhà đầu tư có đặc điểm: + Tổ chức quản lý doanh nghiệp thuộc về hội đồng quản trị do đại hội cổ đông bầu ra, người lao động vừa là chủ vừa là thợ. + Sở hữu: Bao gồm những người lao động đóng góp - sở hữu tập thể của những người có vốn. + Chế độ phân phối: Sau khi chi phí các khoản, lợi nhuận được trích lập các quỹ (mang tính tập thể) như: quỹ dự phòng, quỹ phát triển sản xuất, phúc lợi, khen thưởng, hỗ trợ mất vịêc làm... còn lại được chuyển thành cổ tức chi trả cho các cổ đông. Khi mới ra đời các DNCP từ DNNN mà Nhà nước không còn vốn phải chịu áp lực nhiều hơn do tác động của nhiều phía như: Sự hẫng hụt khi không còn được hỗ trợ, cứu cánh của "bà đỡ" là nhà nước; quan niệm của xã hội, cách nhìn nhận, đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước. Những áp lực đó chỉ gây khó khăn ở giai đoạn đầu. Loại hình Doanh nghiệp này lại có mặt tích cực hình này có tính tự chủ cao hơn, chủ động, năng động tốt hơn, vì không có sự can thiệp trực tiếp như loại hình doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối. - Doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước không chi phối (nhỏ hơn 51% trên tổng số vốn điều lệ của doanh nghiệp): Đây là mô hình vừa giống doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước, vừa giống doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước chi phối. Về bản chất tổ chức và hoạt động kinh tế theo pháp luật thì giống như mô hình không có vốn nhà nước, nhưng trên thực tế, nhiều đơn vị do phần vốn nhà nước (35% -40%) vẫn chiếm ưu thế so với các cổ đông trong đơn vị, nên trong hoạt động có phần giống như mô hình doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước chi phối. - Doanh nghiệp cổ phần có vốn cổ đông chiến lược chi phối (Chủ tịch HĐQT là người ngoài doanh nghiệp). Đây là mô hình doanh nghiệp cổ phần tuy chưa nhiều trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay nhưng xu thế phát triển cho thấy cũng là một trong những mô hình cần được quan tâm. Do từ vị thế chi phối bởi giá trị lớn cổ phần của các cổ đông chiến lược (thể nhân) bên ngoài doanh nghiệp, nên họ chiếm không ít thành viên trong HĐQT và một trong số đó là Chủ tịch HĐQT. Nhưng mọi sinh hoạt đều ở nơi khác, công việc quản lý, điều hành doanh nghiệp chủ yếu theo kiểu “điều khiển từ xa”, phương hướng phát triển, các hoạt động của doanh nghiệp đều phụ thuộc vào cổ đông chiến lược này. 2.1.2. Những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Nghệ An - Về thuận lợi: Xuất phát từ thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước ở Nghệ An, Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo theo chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Về tổ chức, tỉnh thành lập Ban đôỉ mới doanh nghiệp do Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh làm trưởng ban, từng sở, ngành đều thành lập ban đổi mới doanh nghiệp. Trong quá trình cổ phần hoá, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã đưa ra nhiều giải pháp chỉ đạo thực hiện, đã làm tốt công tác tuyên truyền NQ TW5 (khoá IX), động viên tư tưởng và giao nhiệm vụ kịp thời cho các giám đốc doanh nghiệp phải thực hiện theo kế hoạch sắp xếp đổi mới đã được duyệt. Uỷ ban nhân dân tỉnh và các ngành đã quan tâm giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình sắp xếp chuyển đổi. Hệ thống văn bản pháp quy của nhà nước về cổ phần hoá, được ban hành cụ thể, chi tiết, dễ thực hiện. - Những khó khăn vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá: Tuy kết quả đạt được trong quá trình cổ phần hoá so với cả nước đạt khá nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu mà tỉnh đặt ra, do một số vướng mắc trong quá trình thực hiện. Hầu hết những khoản tồn tại về công nợ và tài sản cố định không cần dùng chờ thanh lý của các doanh nghiệp đều từ năm 1995 về trước, một số giám đốc, kế toán doanh nghiệp đã bị xử lý kỷ luật nên hồ sơ công nợ, tài sản cố định đều không được đầy đủ như văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính. Một số doanh nghiệp ngoài số cổ phần ưu đãi bán cho người lao động thì khi bán cổ phần phổ thông rất ít người mua; trong khi đó người lao động trong doanh nghiệp không đủ điều kiện để mua nên trên thực tế vẫn phải tồn tại phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cổ phần nhà nước. Nhiều doanh nghiệp quá khó khăn trong việc xử lý các tồn tại về tài chính, nhất là số nợ khê đọng, dây dưa nhiều - vốn nhà nước tại thời điểm cổ phần hoá thì ít, hoặc tại thời điểm cổ phần hoá chưa đủ để xử lý công nợ khó đòi, nhưng sau cổ phần hoá doanh nghiệp vẫn không thể đòi được dẫn đến gây tổn thất cho công ty cổ phần. Một số doanh nghiệp đủ điều kiện giải thể, phá sản nhưng tỉnh muốn giữ lại cho củng cố, tổ chức lại sản xuất kinh doanh một thời gian để chuyển đổi hình thức sở hữu cho nên phải kéo dài thời gian xử lý tài chính. 2.2. THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 2.2.1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau cổ phần hoá với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân Sau cổ phần hoá doanh thu các doanh nghiệp tăng bình quân 15% và lợi nhuận sau thuế tăng 18,8% kéo theo tăng trưởng tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu ở mức 11%, điều đó cho thấy ở thời điểm những năm đầu tiên cổ phần hoá, việc chuyển sang mô hình mới chưa có tác động tức thời các yếu tố liên quan trực tiếp đến doanh thu như: sức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng đã tác động mạnh đến lợi nhuận sau thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế. Sau cổ phần hoá, chỉ tiêu "Doanh thu trên lao động thường xuyên" năng suất lao động của doanh nghiệp đã tăng 26,1%, tiền lương bình quân tăng 10%. Đầu tư tài sản cố định tăng 23,1% so với khi còn là doanh nghiệp nhà nước. Trong các chỉ tiêu này, tốc độ tăng năng suất lao động là yếu tố ảnh hưởng tích cực nhất tới kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá. Việc tăng năng suất, một phần do doanh thu tăng và lao động giảm, nhưng quan trọng hơn là do động lực và sự gắn bó về lợi ích của toàn thể cán bộ quản lý và người lao động đối với doanh nghiệp. Đầu tư tài sản cố định cũng có sự tăng trưởng do hai nguyên nhân: Một là, do doanh nghiệp nỗ lực đầu tư thêm và hai là tài sản cố định tăng lên do đánh giá lại tài sản, nhưng việc tăng tài sản theo hướng này chỉ xuất hiện ở một số ít trường hợp. Tuy nhiên, tăng trưởng tài sản cố định chưa tương xứng với tăng trưởng lợi nhuận sau thuế, các doanh nghiệp sau cổ phần hoá chưa giành tỷ lệ thích hợp cho đầu tư phát triển. - Về tốc độ tăng trưởng hàng năm của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá: Tốc độ tăng trưởng hàng năm của các doanh nghiệp cổ phần hoá được duy trì tương đối ổn định đã khẳng định những ảnh hưởng tích cực của cổ phần hoá. Cụ thể doanh thu tăng 15%, mức tăng trưởng này không thấp so với doanh nghiệp nhà nước 8 - 10%, doanh nghiệp tư nhân 12%. Lợi nhuận sau thuế tăng 18,8% năm là kết quả cao hơn so với khu vực doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên lợi nhuận trước thuế chỉ đạt mức tăng trưởng 9,4%. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu tăng 11% là tốc độ tăng trưởng hợp lý do lợi nhuận sau thuế tăng nhanh hơn doanh thu. Năng suất lao động tăng 18,3% năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng doanh thu. Lương bình quân tăng 11,4% năm, phù hợp với tốc độ tăng trưởng doanh thu và lao động. Đầu tư tài sản cố định tăng 11,5%, đạt tốc độ tăng trưởng tương đương mức trung bình của toàn bộ khu vực doanh nghiệp tư nhân, nhưng thấp hơn mức tăng trưởng của các doanh nghiệp nhà nước. Điều này cho thấy nguồn lực tài chính để đầu tư của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá còn hạn chế so với doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, nếu như mức tăng trưởng này xuất phát từ đầu tư mới và lợi nhuận tái đầu tư thì chứng tỏ tính bền vững của tăng trưởng trong các doanh nghiệp cổ phần hoá ở Nghệ An. Trong khi đó, nguồn tài chính để đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước không hẳn bắt nguồn từ tài chính doanh nghiệp đó (ví dụ như được nhà nước đầu tư). Phân loại doanh nghiệp cổ phần hoá theo cơ cấu sở hữu cổ phần cho thấy tốc độ đầu tư tài sản cố định, tiền lương bình quân của 43 doanh nghiệp cổ phần chi phối và 40 doanh nghiệp không có cổ phần chi phối tương đương ngang bằng nhau. Tốc độ tăng doanh thu, năng suất lao động và lợi nhuận của doanh nghiệp có cổ phần nhà nước chi phối cao hơn một chút so với doanh nghiệp không có cổ phần nhà nước chi phối. Phân loại doanh nghiệp cổ phần hoá theo ngành nghề kinh doanh cho thấy doanh thu của các doanh nghiệp thuộc khối thương mại - du lịch tăng với tốc độ cao hơn so với khối công nghiệp - xây dựng và các khối nông - lâm - ngư, điều này phù hợp với xu hướng thị trường nội địa của Việt Nam những năm gần đây. Tuy nhiên, về tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế lại có bức tranh ngược lại, doanh nghiệp khối nông - lâm - ngư nghiệp có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao nhất, tiếp theo là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và cuối cùng là doanh nghiệp thương mại - dịch vụ. Các doanh nghiệp có quy mô tài sản lớn tăng trưởng nhanh hơn doanh nghiệp quy mô nhỏ về tất cả các chỉ tiêu tăng trưởng, nhưng tốc độ tăng trưởng bị chậm dần khi đạt đến quy mô nhất định. Cụ thể là: tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế, doanh thu và tiền lương bình quân của doanh nghiệp có giá trị tài sản từ 5 - 10 tỷ đồng lớn hơn của doanh nghiệp có giá trị tài sản trên 10 tỷ đồng và thấp nhất là doanh nghiệp có giá trị tài sản dưới 5 tỷ. Việc các doanh nghiệp lớn tăng trưởng nhanh hơn doanh nghiệp nhỏ có thể giải thích cho hiện tượng các doanh nghiệp có cổ phần nhà nước chi phối tăng trưởng nhanh hơn doanh nghiệp không có cổ phần nhà nước chi phối, vì thường doanh nghiệp lớn nhà nước mới chi phối. Ngoài ra, điều này cũng cho thấy nhu cầu phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc cổ phần hoá các công ty nhà nước có quy mô lớn còn lại. - Về lợi nhuận và khả năng sinh lời của doanh nghiệp sau cổ phần hoá: Tại thời điểm năm 2006, tỷ lệ doanh nghiệp sau cổ phần hoá trong tình trạng không có khả năng sinh lời tương đối thấp (chỉ 3,7%). Đáng chú ý nhất là nhóm doanh nghiệp đã cổ phần hoá 2 - 3 năm. Tại thời điểm một năm trước cổ phần hoá, nhóm này có tỷ lệ thua lỗ cao nhất, nhưng năm 2006 nhóm này lại có tỷ lệ sinh lời cao nhất, cao hơn cả nhóm doanh nghiệp cổ phần hoá từ 7 - 8 năm. Bảng 2.3: Tỷ lệ doanh nghiệp cổ phần hoá có lãi và thua lỗ tại thời điểm năm 2006. Tính theo thời gian chuyển sang công ty cổ phần Đơn vị tính: % Số năm chuyển sang công ty cổ phần 1-2 năm 3 năm 4 năm 5 năm 6 năm Từ 7 năm trở lên Doanh nghiệp có lãi 96,7 100 92,6 96,9 96,2 93,7 Doanh nghiệp thua lỗ 3,3 0 7,4 3,1 3,8 6,3 Tổng 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Cục thống kê Nghệ An. Nguyên nhân liên quan đến chính sách ưu đãi và tính đột biến sau thời điểm cổ phần hoá ở thời điểm năm 2006 các doanh nghiệp cổ phần hoá lâu năm đã hoạt động tương đối ổn định, mức tăng trưởng có tính đột biến rất thấp và quan trọng hơn là đã hết thời gian được hưởng một số chính sách ưu đãi, trong đó có miễn thuế thu nhập doanh nghiệp (28%). Ngược lại, những doanh nghiệp mới cổ phần hoá đang được hưởng lợi từ chính sách này. Với những phân tích về khả năng sinh lời như trên, mặc dù chưa thể khẳng định cổ phần hoá và các doanh nghiệp sau cổ phần hoá có sức cạnh tranh cao hơn doanh nghiệp nhà nước không cổ phần, hay doanh nghiệp tư nhân, vì bằng chứng là vẫn còn có doanh nghiệp cổ phần hoá đang thua lỗ nhưng ít nhất là giải pháp có hiệu quả để tăng cơ hội thành công cho các doanh nghiệp nhà nước yếu kém, nhất là các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài (thậm chí trong tình trạng phải giải thể, phá sản). - Phân tích nguyên nhân tăng trưởng: Thứ nhất: Động cơ hoạt động thay đổi: có 82 doanh nghiệp cổ phần hoá = 96% cho rằng cán bộ quản lý đã quan tâm hơn đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá, đã nâng cao tính chủ động của cán bộ quản lý trong thực hiện các mục tiêu lợi nhuận và hiệu quả. Quyền lợi, trách nhiệm của cán bộ quản lý và người lao động gắn chặt hơn với doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện để tận dụng tốt hơn cơ sở vật chất và nguồn lực của doanh nghiệp tốt hơn so với trước cổ phần hoá. Thứ hai: Hoạt động sản xuất kinh doanh thay đổi: Đa số các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều có những thay đổi nhất định về cơ cấu sản phẩm, thị trường, công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm, mặc dù mức độ thay đổi không lớn cụ thể có khoảng 25% số doanh nghiệp cổ phần hoá thực hiện chuyển đổi cơ cấu thị trường và sản phẩm, khoảng 28% doanh nghiệp tiến hành đổi mới triệt để kỹ thuật, công nghệ và quy trình sản xuất. Về chất lượng sản phẩm có tới gần 40% doanh nghiệp thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm hơn hẳn so với trước cổ phần hoá. Thứ ba: Thay đổi cơ chế điều hành doanh nghiệp: Cơ chế quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp cổ phần hoá đã có sự thay đổi. Trước cổ phần hoá, thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp là từ bên ngoài. Sau cổ phần hoá, thẩm quyền này thuộc về doanh nghiệp. Vì thế, các quyết định này gắn với lợi ích của doanh nghiệp nhiều hơn và tập trung vào các mục tiêu kinh tế hơn. 2.2.2. Năng lực tài chính của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá Năng lực tài chính là một nhân tố quan trọng tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Rõ ràng các doanh nghiệp sau cổ phần hoá có khả năng tài chính tốt thì năng lực cạnh tranh cao. Đánh giá khả năng tài chính thông qua các chỉ tiêu: cơ cấu vốn, khả năng thanh toán, tỷ suất sinh lời và cổ tức (trước cổ phần hoá và năm 2006) Bảng 2.4: Phân tích một số chỉ tiêu tài chính TT Chỉ tiêu ĐVT Trước CPH Năm 2006 % 1 Vốn kinh doanh Trong đó: - Vốn nhà nước - Vốn cổ đông doanh nghiệp - Vốn ngoài doanh nghiệp Triệu đồng - - - - 1.357.861 390.964 178.700 202.631 9.620 46,00 51,83 2,46 2 Lợi nhuận trước thuế % 8,3 9,4 1,1 3 Lợi nhuận sau thuế % 3,63 4,67 1,04 4 Nợ phải thu triệu 81.687 44.100 5 Nợ phải trả triệu 104.100 28.300 6 Cổ tức bình quân 7% - 20% 7 Tỷ suất LN sau thuế/Dthu 11% Nguồn: Cục Thống kê Nghệ An. - Cơ cấu vốn: Đến thời điểm 31/12/2006, tổng số vốn điều lệ khi mới thành lập của công ty cổ phần được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là 390.964 triệu đồng, cơ cấu vốn bình quân của các doanh nghiệp 4.600 triệu đồng chiếm 1,2%. Cơ cấu phần vốn nhà nước bình quân các doanh nghiệp 2.102 triệu đồng chiếm 46% tiền vốn điều lệ bình quân của các doanh nghiệp, cơ cấu vốn bình quân người lao động trong doanh nghiệp Mức vốn bình quân của từng doanh nghiệp: 2.384 triệu cơ cấu chiếm 52% trên vốn điều lệ từng doanh nghiệp; chiếm 1,2% trên tổng số vốn của người lao động tại thời điểm cổ phần hoá. - Số nợ phải thu trước cổ phần hoá cao, trong năm 2006 đã giảm nhưng vẫn ở mức cao, nguyên nhân do quá trình giải ngân của tỉnh chậm 78% chủ yếu ở các doanh nghiệp giao thông, xây dựng, tư vấn thiết kế... - Số nợ phải trả năm 2006 chủ yếu là nợ ngắn hạn và lãi suất tiền vay của các công ty và phải trả cho người bán. - Chỉ tiêu hiệu suất sinh lời có xu hướng tăng lên sau cổ phần hoá, cổ tức cao hơn lãi suất ngân hàng, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tăng thể hiện sự minh bạch, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động. Với thực trạng tài chính của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đã cải thiện rất nhiều so với doanh nghiệp nhà nước, các khoản nợ xấu trước cổ phần hoá đã được nhà nước xử lý góp phần làm lành mạnh hoá tình hình tài chính, và do vậy cũng làm tăng kết quả hoạt động, đặc biệt là những doanh nghiệp được hưởng lợi từ các chính sách xoá nợ, khoanh nợ, giản nợ để tái cấu trúc lại vốn doanh nghiệp. 2.2.3. Thực trạng nguồn nhân lực, cơ chế điều hành, hệ thống quản lý 2.2.3.1. Về nguồn nhân lực (cán bộ, công nhân viên chức) Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ, kỹ sư, lực lượng công nhân có tay nghề, có kinh nghiệm là nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự thành công của các doanh nghiệp trên thị trường. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá, mặc dù đã được tổ chức sắp xếp lại, nhưng có thể chia thành hai nhóm: Nhóm 1: Là những người đã làm việc lâu năm, có kinh nghiệm, có kiến thức, nhưng hạn chế về sức khoẻ, tiếp cận các kỹ thuật, công nghệ, nghiệp vụ mới... có phần hạn chế, thiếu tinh thông trong việc sử dụng các phương tiện quản lý hiện đại (máy vi tính, thiết bị điện tử, tin học) phục vụ cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Mặt khác, họ có phần thiếu năng động và thụ động với yêu cầu của kinh tế thị trường. Nhóm 2: Những cán bộ, công nhân trẻ, mới được đào tạo, nắm chắc kỹ thuật, công nghệ mới, có kiến thức và khả năng sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, dễ hoà nhập với cơ chế thị trường, năng động nhiệt tình, sáng tạo nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tế, chưa qua thực tiễn, thường hay chủ quan, nóng vội. Nhìn chung đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh, đội ngũ công nhân kỹ thuật, ma ket tinh... thiếu cả về số lượng và chất lượng, trong khi đó nhu cầu về thị trường, nhu cầu người tiêu dùng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng hàng hoá, dịch vụ, tính cạnh tranh nguồn nhân lực diễn ra ngày càng quyết liệt. Ý thức được điều này, trong những năm qua các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đã có nhiều cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, cặp nhật kiến thức quản lý, quản trị kinh doanh, từ trung cấp đến đại học nhằm bổ sung, nâng cao trình độ kiến thức. Tổng số cán bộ công nhân viên có tên trong danh sách tại thời điểm 31/12/2006 là 20.800 Tiến sỹ: 1 người Thạc sỹ: 43 người Đại học các loại: 3.359 người Cao đẳng: 685 người Trung cấp: 1.047 người Công nhân bậc cao bậc 5 trở lên: 2.921 người Chưa qua đào tạo: 2.246 người Trong đó: Chủ tịch HĐQT: 85 người Giám đốc công ty: 25 người (Không kiêm chủ tịch HĐQT) 85/85 Chủ tịch HĐQT và Giám đốc điều hành được chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang, về lao động thời vụ các ngành nghề bình quân hàng năm 3000 - 4000 theo nhu cầu của các doanh nghiệp. Từ đó ta có thể nhận thấy rằng: Lực lượng nguồn nhân lực chất lượng cao trong các doanh nghiệp còn mỏng, trình độ chưa ngan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN.doc
  • docbia ngoai.doc 1.doc
Tài liệu liên quan