Luận văn Tăng cường huy động vốn tín dụng nhà nước cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển qua việc phát hành trái phiếu chính phủ

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BIỂU ĐỒ VÀ PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU1

CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TDNN VÀ TPCP 5

1.1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TDNN 5

1.1.1. Khái niệm về TDNN 5

1.1.2. Bản chất của TDNN 6

1.1.3. Đặc điểm của TDNN 6

1.1.4. Chức năng của TDNN8

1.2 – TPCP - CÔNG CỤ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT10

1.2.1. Khái niệm về TPCP 10

1.2.2. Phân loại TPCP 10

1.2.3. Các yếu tố cơ bản của TPCP 14

1.2.4. Các phương thức phát hành TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT15

1.2.5. Vai trò của TPCP 18

1.3 – KINH NGHIỆM PHÁT HÀNH TPCP Ở MỘT SỐ QUỐC GIA:21

1.3.1. Phát hành TPCP ở Mỹ 21

1.3.2. Phát hành TPCP ở Nhật Bản 22

1.3.3. Phát hành TPCP ở Trung Quốc 23

1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm về phát hành TPCP ở các nước 24

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO

ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 27

2.1- THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT QUA

VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 28

2.1.1. Phát hành tín phiếu Kho bạc28

2.1.2. Phát hành trái phiếu Kho bạc32

2.1.3. Phát hành công trái xây dựng tổ quốc39

2.1.4. Phát hành trái phiếu công trình41

2.1.5. Phát hành trái phiếu ngoại tệ 43

2.2- ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO

ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 45

2.2.1. Những ưu điểm và thành tựu đạt được 45

2.2.2. Những tồn tại và hạn chế 49

2.2.3. Các nguyên chủyếu của tồn tại và hạn chế

49

CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO

NSNN VÀ ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP TRONG GIAI ĐOẠN TỚI55

3.1 – MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NHIỆM VỤ HUY ĐỘNG VỐN

CHO NSNN VÀ ĐTPT GIAI ĐOẠN 2001 - 201055

3.2 – GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ

ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 56

3.2.1 – Đa dạng hóa TPCP phát hành 57

3.2.1 –Tiêu chuẩn hóa TPCP phát hành 58

3.2.3 – Xây dựng lãi suất TPCP phù hợp với nguyên tắc thị trường 59

3.2.4 – Củng cố và hoàn thiện các phương thức phát hành TPCP 60

3.2.5 – Phát triển thị trường thứ cấp TPCP 63

3.2.6 – Cải tiến công tác kế hoạch hoá phát hành TPCP 66

3.2.7 – Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phát hành, quản lý và thanh toán TPCP 66

3.2.8 – Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và đẩy

mạnh tuyên truyền về TPCP và thị trường TPCP67

3.2.9 – Tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định68

3.2.10 – Hoàn thiện khung pháp lý phát hành TPCP để huy động vốn cho

NSNN và cho ĐTPT69

KẾT LUẬN 71

PHỤ LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf85 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1877 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường huy động vốn tín dụng nhà nước cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển qua việc phát hành trái phiếu chính phủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
000 - 2004 Nhìn chung hoạt động đấu thầu trái phiếu kho bạc qua TTGDCK kém khả quan. Kết quả đấu thầu còn thấp là vì số lượng thành viên tham gia đấu thầu còn ít, bình quân mỗi phiên chỉ có từ 3 - 4 thành viên tham gia, khối lượng đặt thầu không đạt mức gọi thầu, lãi suất của các thành viên tham gia đấu thầu đưa ra thường cao hơn khung lãi suất chỉ đạo của Bộ Tài chính quy định. Ngoài ra còn có nguyên nhân là thiếu một thị trường thứ cấp cho hoạt động giao dịch trái phiếu trong điều kiện thị trường chứng khoán ở nước ta mới thành lập. Ngay ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển thì đa số các trái phiếu đều được giao dịch trên thị trường giao dịch phi tập trung (OTC). Đồng thời việc thiếu thông tin về kế hoạch khối lượng, thời hạn TPCP phát hành qua kênh này hàng năm cũng ảnh hưởng đến việc các nhà đầu tư chuẩn bị nguồn vốn tham gia đấu thầu, dẫn tình trạng chênh lệch quá lớn giữa khối lượng gọi thầu và khối lượng trúng thầu TPCP, làm hạn chế đến kết quả đấu thầu trong thời gian qua. 37 2.1.2.3 Trái phiếu Kho bạc phát hành theo phương thức bảo lãnh và đại lý phát hành Nhằm mở ra nhiều kênh huy động vốn trung và dài cho NSNN và cho ĐTPT với phương thức linh hoạt, đa dạng, phong phú, đồng thời cung cấp thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Bên cạnh việc tổ chức đấu thầu qua TTGDCK, Bộ Tài chính đã thực hiện phát hành trái phiếu kho bạc theo phương thức bảo lãnh phát hành. Trái phiếu kho bạc phát hành theo phương thức này được thực hiện theo Thông tư 68/2000/TT-BTC ngày 13/7/2000 và Thông tư 29/2004/TT-BTC ngày 06/4/2004 của Bộ Tài chính về việc bảo lãnh và đại lý phát hành TPCP, với những đặc điểm sau đây: - Đối tượng tham gia bảo lãnh gồm : Các Công ty chứng khoán, các Quỹ đầu tư, các Công ty tài chính, các tổ chức ngân hàng hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam và phải đảm bảo các điều kiện sau: có vốn pháp định từ 22 tỷ đồng trở lên, có tài khoản tiền đồng Việt nam mở tại ngân hàng, hoạt động kinh doanh có lãi. - Trái phiếu được phát hành theo hai hình thức : chiết khấu hoặc ngang mệnh gia, dưới dạng ghi sổ hoặc chứng chỉ. Chứng chỉ trái phiếu không ghi tên và in sẵn mệnh giá. - Trái phiếu kho bạc phát hành theo phương thức này đủ điều kiện niêm yết và giao dịch tại TTGDCK. Kể từ lần phát hành thí điểm đầu tiên (15/9/2000) đã huy động được 500 tỷ đồng trái phiếu kho bạc với thời hạn 5 năm, lãi suất 6,6%/năm, với 3 đơn vị tham gia theo phương thức bảo lãnh trọn gói. Trên cơ sở kinh nghiệm của đợt phát hành đầu tiên, trong những năm tiếp theo Bộ Tài chính tiếp tục tổ chức phát hành trái phiếu kho bạc theo phương thức bảo lãnh phát hành qua TTGDCK. Cụ thể, năm 2001 Bộ Tài chính đã tổ chức được 2 đợt bảo lãnh phát hành trái phiếu kỳ hạn 5 năm, với khối lượng là 200 tỷ đồng, lãi suất 7%/năm và 50 tỷ đồng với lãi suất 7,35%/. Năm 2003 phát hành 6 đợt với khối lượng là 1.650 tỷ đồng (trong đó trái phiếu kho bạc là 220 tỷ đồng và trái phiếu giao thông thuỷ lợi là 1.430 tỷ đồng). Đặc biệt, trong năm 2004 đã tổ chức thực hiện được 21 phiên bảo lãnh phát hành, huy động 2.390 tỷ đồng, trong đó huy động vốn cho NSNN là 1.755 tỷ đồng, và cho các các công trình giao thông thủy lợi là 635 tỷ đồng. Tính đến ngày 31/12/2004 Bộ Tài chính (KBNN) đã tổ chức được 31 phiên bảo lãnh, với các đơn vị tham gia bảo 38 lãnh là các NHTM Nhà nước và công ty Chứng khoán, số vốn huy động được là 4.790 tỷ đồng (loại trái phiếu có kỳ hạn 5 năm), trong đó huy động vốn cho NSNN là 2.725 tỷ đồng và huy động vốn để đầu tư cho các công trình giao thông thuỷ lợi quan trọng của đất nước là 2.065 tỷ đồng. Đến nay đã có 23 đơn vị được công nhận là thành viên bảo lãnh phát hành TPCP bao gồm các NHTM và các công ty Chứng khoán. Chi tiết phát hành TPCP theo phương thức bảo lãnh phát hành giai đoạn 2000 - 2004 theo phụ lục số 5 đính kèm Đơn vị : tỷ đồng 1.650 250500 2.390 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2003 năm 2004 Biểu đồ 5 : Trái phiếu kho bạc bảo lãnh phát hành giai đoạn 2000 – 2004 Thông qua kênh bảo lãnh phát hành, Chính phủ đã huy động hàng ngàn tỷ đồng nguồn vốn dài hạn cho NSNN và cho ĐTPT. Đồng thời đã góp phần bổ sung một lượng hàng hoá lớn cho thị trường chứng khoán trong quá trình xây dựng và mở rộng quy mô hoạt động. Thị trường bảo lãnh phát hành ngày càng được hoàn thiện và phát triển, trở thành điểm hẹn hấp dẫn giữa nhà phát hành với nhà đầu tư. Tuy nhiên do các tổ chức bảo lãnh, đặc biệt là các công ty Chứng khoán, chưa có nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực kinh doanh chứng khoán, tiềm lực tài chính còn hạn chế, thị trường thứ cấp chưa phát triển nên các tổ chức tham gia đều với tư cách đồng bảo lãnh chính, chưa hình thành hiệp hội các nhà đầu tư và tổ chức chức phân phối lại trái phiếu theo đúng thông lệ quốc tế. 39 2.1.3. Phát hành công trái xây dựng tổ quốc - Công trái xây dựng tổ quốc năm 1999 : Để phát huy nội lực, huy động nguồn vốn trong dân nhằm xây dựng các công trình quan trọng của quốc gia phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước. Ngày 27/4/1999 Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh số 12/1999/PL-UBTVQH10 về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/1999/NĐ-CP ngày 12/5/1999 quy định về việc phát hành công trái xây dựng Tổ quốc năm 1999. Mục đích là để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn. Đối tượng vận động là các tổ chức, cá nhân làm việc, sinh sống hợp pháp Việt Nam. Công trái có kỳ hạn 5 năm, lãi suất 10%/năm (trong đó chỉ số trượt giá là 8,5% và lãi suất thực là 1,5%), tiền gốc và lãi được thanh toán một lần khi đến hạn. Trường hợp mức lạm phát 5 năm vượt quá 42,5% thì lãi suất công trái được điều chỉnh theo mức trượt giá và vẫn đảm bảo mức lãi suất thực là 1,5%/năm, còn nếu mức trượt giá cộng với lãi suất thực dưới 50% thì người sở hữu công trái vẫn được hưởng mức lãi suất 50%/5 năm. Qua gần 2 tháng phát hành (từ 19/5 đến 15/7/1999), tổng số vốn đã huy động được là 4.496 tỷ đồng, đạt 112,4% chỉ tiêu Quốc hội giao. - Công trái giáo dục năm 2003 : Với mục tiêu phát triển nền giáo dục nước nhà, tiến tới thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi, Quốc hội khóa 11 đã ban hành Nghị quyết số 09/2002/QH11 ngày 28/11/2002, nhằm huy động vốn để hổ trợ các tỉnh miền núi, Tây nguyên và các tỉnh có nhiều khó khăn thực hiện mục tiêu xoá phòng học 3 ca, xoá phòng học tranh tre nứa lá, kiên cố hoá trường học. Trên cơ sở đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP-NĐ ngày 31/3/2003 về việc phát hành công trái xây dựng Tổ quốc năm 2003 - công trái giáo dục. Công trái được phát hành dưới 2 hình thức: không ghi tên in trước mệnh giá (có 11 loại mệnh giá, thấp nhất là 50 ngàn đồng và cao nhất là 100 triệu đồng) và công trái có ghi tên không in trước mệnh giá. Đối tượng huy động là công dân Việt nam ở trong và ngoài nước, người Việt Nam định cư ơ nước ngoài, người nước ngoài cư trú và làm việc ở Việt Nam, các tổ chức nghề nghiệp, kinh tế, chính trị, xã hội, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các tổ chức nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Công trái có kỳ hạn 5 năm, lãi suất 8%/năm (bao gồm cả mức trượt giá hàng năm và tỷ lệ lãi suất thực là 1,5%/năm). Tiền gốc và lãi được thanh toán một lần khi đến hạn, trường hợp nếu có khó khăn đặc biệt hoặc rủi ro bất khả kháng sẽ được 40 giải quyết thanh toán trước hạn và được hưởng lãi tùy theo thời gian mua công trái. Để bảo vệ lợi ích của người mua công trái, trường hợp mức trượt giá cộng với lãi suất thực trong 5 năm lớn hơn 40% thì Nhà nước bù chênh lệch, ngược lại thì Nhà nước vẫn thanh toán theo mức lãi suất 40%/5 năm. Với việc đa dạng hình thức, mệnh giá công trái và cách thức thanh toán linh hoạt, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong việc lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính. Vì vậy, chỉ trong 15 ngày phát hành (từ 05/5/2003 đến 18/5/2003) đã huy động được 2.580 tỷ đồng, đạt 129% chỉ tiêu Quốc hội giao. 4.000 4.496 2.000 2.580 0 500 1.000 1.500 2.000 2.500 3.000 3.500 4.000 4.500 Công trái năm 1999 Công trái năm 2003 Tỷ đồng Kế hoạch Thực hiện Biểu đồ 6 : Công trái xây dựng tổ quốc phát hành giai đoạn 1990 – 2004 Qua cả hai đợt phát hành công trái bán lẻ qua hệ thống KBNN, Nhà nước đã huy động dược 7.076 tỷ đồng đạt 117,93% kế hoạch cho mục tiêu phát triển kinh tế và đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Chi tiết phát hành công trái xây dựng Tổ quốc giai đoạn 1990 – 2004 theo phụ lục số 6 đính kèm. Công trái xây dựng Tổ quốc phát hành năm 1999 và năm 2003 đã nhận được được sự hưởng ứng nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, đơn vị và tổ chức trên cả nước. Thành công của cả hai đợt phát hành là đã huy động vượt mức kế hoạch đã đề ra, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn để đầu tư cho các mục tiêu chương trình quốc gia; đồng thời cũng là một bước tiến mới trong công tác phát hành TPCP, từng bước tạo điều kiện cho người dân làm quen với hình thức đầu tư trung hạn. 41 2.1.4. Phát hành trái phiếu công trình Để huy động vốn phục vụ xây dựng đường dây tải điện Bắc - Nam 500 KV, ngày 20/4/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 134/HĐBT về việc phát hành tín phiếu đường dây 500 KV, đây là lần đầu tiên Nhà nước phát hành trái phiếu công trình. Tín phiếu đường dây 500 KV có kỳ hạn là 1 năm, 2 năm và 3 năm; lãi suất tương ứng là 4,2%/năm, 4,5%/năm và 5%/năm (từ ngày 01/7/1993 được điều chỉnh lên tương ứng là 6%/năm, 6,5%/năm và 7%/năm). Tín phiếu đường dây 500 KV được bảo đảm theo giá trị vàng, được ghi thu và chi bằng đồng Việt Nam, không bắt buộc đối với các tầng lớp dân cư, nhưng là chỉ tiêu và nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp. Người dân có thể lựa chọn mua mua tín phiếu bằng vàng hoặc USD (chỉ áp dụng cho các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu và Nam Hà) trên cơ sở giá quy đổi do Bộ Tài chính công bố tại thời điểm phát hành. Đợt phát hành kéo dài hơn 2 năm (từ 7/1992 đến 12/1994) nhưng chỉ huy động được 334 tỷ đồng, đạt gần 28% tổng số vốn cần huy động (1.213 tỷ đồng). Nguyên nhân chủ yếu là do lãi suất thấp hơn lãi suất của các loại tín phiếu kho bạc phát hành cùng thời kỳ, nên không hấp dẫn đối với người mua. Ngoài ra giá vàng trên thị trường tuy có biến động lớn trong năm 1992, nhưng đã giảm dần và tương đối ổn định trong những năm 1993 và 1994, do đó việc đảm bảo giá trị theo giá vàng đã không khuyến khích việc mua tín phiếu. Tín phiếu đường dây 500 KV, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, còn mang tính chính trị sâu sắc, do đó đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến cơ sở. Song do điều kiện kinh tế - xã hội chưa phát triển, đời sống của các tầng lớp dân cư trong thời kỳ này còn nhiều khó khăn, nên việc mua tín phiếu tự nguyện thấp (chưa đạt 10% tổng số thu), còn các doanh nghiệp đang tập trung vốn đầu tư trong quá trình đổi mới theo cơ chế thị trường. Do vậy số vốn huy động được chỉ đạt gần 7% tổng số vốn để đầu tư cho công trình . Kể từ khi Nghị định số 72/CP của Chính phủ về quy chế phát hành TPCP ra đời, tiếp theo là Nghị định số 01/2000/NĐ-CP và Nghị định số 141/2003/NĐ-CP việc phát hành trái phiếu công trình trung ương và địa phương đã được tăng cường. Bộ Tài chính phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố, các Bộ, ngành xây dựng đề án huy động vốn để đầu tư cho các công trình, dự án thuộc nhiều lãnh vực. Từ đó nhiều công trình đã ra đời bằng nguồn huy động từ trái phiếu công trình như: các 42 công trình Trung ương (thủy điện Yaly, khu đô thị mới Bắc Linh Đàm, khu đô thị mới Định Công, khu đô thị mới Chí Linh…); các công trình địa phương (xi măng Phúc Sơn, các công trình cơ sở hạ tầng của các tỉnh, thành phố : Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Tiền Giang, Cà Mau, Khánh Hoà…). Đơn vị : tỷ đồng Biểu đồ 7 Công trình trung ương Công trình địa phương 9.175,212 2.302,400 0 2.000 4.000 6.000 8.000 10.000 : Phát hành trái phiếu công trình giai đoạn 1996 – 2004 Từ năm 2000 trở về trước, trái phiếu công trình được phát hành theo phương và 2004, hệ thống KBNN đã phát hành một khối thức đấu thầu qua NHNN, thời hạn trái phiếu là 1 năm, lãi suất được hình thành qua kết quả đấu thầu. Đến hạn thanh toán mà ngân sách tỉnh có khó khăn, chưa bố trí được nguồn thì Bộ Tài chính tiếp tục phát hành trái phiếu mới để đáo nợ củ. Sau năm 2000, theo Nghị định số 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 của Chính phủ, trái phiếu công trình được phát hành qua các kênh: đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành. Do vậy, các công trình có điều kiện huy động vốn nhanh hơn, với thời hạn dài hơn và chi phí thấp hơn. Đặc biệt trong 2 năm 2003 lượng lớn TPCP để huy động vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia thuộc lãnh vực giao thông thủy lợi. TPCP giao thông thuỷ lợi được phát hành dưới 3 hình thức: bán lẻ, đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành, với kỳ hạn là 5 năm. Kết quả trong 2 năm phát hành đã thu được 8.828,4 tỷ đồng (trong đó bán lẻ qua hệ thống KBNN: 5.641,4 tỷ đồng, đấu thầu qua TTGDCK:1.122 tỷ đồng và bảo lãnh 43 phát hành là: 2.065 tỷ đồng) chưa kể số thu bằng ngoại tệ. Đây là đợt phát hành trái phiếu công trình có quy mô lớn nhất từ trước đến nay và có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định quan điểm sử dụng công cụ TPCP để huy động vốn trong nước cho ĐTPT. Cụ thể, kết quả phát hành trái phiếu công trình giai đoạn 1996 - 2004 theo phụ lục số 7 đính kèm Phát hành trái phiếu công trình trong thời gian qua đả đạt được những kết quả nh dự án còn nhiều phức tạp. N ư tưởng trong chờ từ nguồn vốn cấp phát từ NSNN ới nhà đầu tư trái ph ngoại tệ n hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP đã mở ất định: đây là một kênh huy động vốn ĐTPT cho các công trình, dự án quan trọng qua đó làm phong phú và đa dạng hoá các loại hình trái phiếu trên thị trường; góp phần nâng cao khả năng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, thông qua việc cung cấp trái phiếu công trình trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở; đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, sớm đưa các công trình vào khai thác qua đó đảm bảo khả năng thanh toán của trái phiếu khi đến hạn, tạo thuận lợi cho các đợt phát hành trái phiếu công trình sau này. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu công trình trong thời gian qua cũng còn một số hạn chế là: - Cơ chế, thủ tục hành chính thẩm định và xét duyệt ên chưa tạo điều kiện khích lệ các chủ đầu tư trong việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu công trình. - Các chủ dự án thường có t hơn là huy động từ nguồn vốn phát hành trái phiếu công trình. - Kỳ hạn và lãi suất trái phiếu cũng chưa thật sự hấp dẫn đối v iếu, do đó khối lượng huy động vốn qua kênh này vẫn còn khiêm tốn, chỉ có ý nghĩa bổ sung thêm nguồn vốn thanh toán mang tính ngắn hạn (ngoại trừ trái phiếu giao thông thuỷ lợi). 2.1.5. Phát hành trái phiếu Ngày 20/11/2003 Chính phủ ba ra một kênh huy động vốn bằng ngoại tệ để ĐTPT các công trình trọng điểm của đất nước theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ. Trong 2 năm 2003 và 2004 Bộ Tài chính (KBNN) đã phát hành TPCP có mệnh giá bằng USD dưới hình thức bán lẻ và đấu thầu qua NHNN, kết quả huy động trái phiếu có mệnh giá bằng ngoại tệ (USD) trong giai đoạn 2003-2004 theo phụ lục số 8 đính kèm. 44 Đơn vị : ngàn USD 23.794 9.000 32.794 38.858 5.500 44.358 Năm 2003 Năm 2004 Tổng số Đấu thầu qua NHNN Bán lẻ Biểu đồ 8 : Phát hành trái phiếu ngoại tệ giai đoạn 2000 – 2004 Phát hành TPCP có mệnh giá bằng ngoại tệ là một bước phát triển mới trong công tác huy động vốn TDNN cho ĐTPT, tạo cơ hội đầu tư mới, giúp người dân làm quen với hình thức đầu tư trái phiếu bằng ngoại tệ. Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc huy động vốn cho ĐTPT, thì công tác phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ vẫn còn một số khó khăn nhất định, đó là : - Khối lượng huy động trái phiếu có mệnh giá bằng ngoại tệ chưa cao là do lãi suất trái phiếu ngoại tệ thấp hơn nhiều so với mức lãi suất trái phiếu bằng đồng Việt Nam (năm 2003 lãi suất là 8,3%/năm và năm 2004 lãi suất là 8,5%/năm) trong cùng thời điểm phát hành, có cùng kỳ hạn. - Rủi ro về tỷ giá trong việc đầu tư TPCP bằng ngoại tệ luôn là mối nguy hiểm đối với các nhà đầu tư, nhất là trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay. Vì vậy, làm cho các nhà đầu tư thiếu an tâm trong việc đầu tư TPCP bằng ngoại tệ, điều này hoàn toàn mâu thuẩn với đặc điểm của TPCP phát hành bằng đồng Việt Nam là có độ an toàn cao nhất. Vì vậy Bộ Tài chính cần quan tâm đến mối liên hệ lãi suất huy động giữa TPCP phát hành bằng đồng Việt Nam với phát hành bằng ngoại tệ, về tỷ giá, về cơ chế thanh toán lãi, chuyển nhượng trái phiếu… Chỉ có kết hợp tốt các yếu tố trên 45 mới tạo ra được sức hút đối với các nhà đầu tư tham gia mua trái phiếu, tạo nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu ĐTPT kinh tế - xã hội. 2.2 – ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 2.2.1. Những ưu điểm và thành tựu đạt được Thực tế công tác huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP trong giai đoạn 1991 - 2004 có thể tổng quát ghi nhận những ưu điểm và thành tựu sau đây - Thông qua phát hành TPCP đã huy động một khối lượng vốn lớn cho NSNN và cho ĐTPT Từ năm 1991 đến năm 2004 dưới hình thức phát hành TPCP đã huy động được trên 145 ngàn tỷ đồng. Khối lượng phát hành TPCP ngày càng tăng qua các năm và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn bù đắp thiếu hụt NSNN : + Thời kỳ 1991-1995 huy động từ TPCP đạt bình quân là 1,2% GDP, chiếm khoảng 30% tổng nguồn bù đắp bội chi NSNN. + Thời kỳ 1996-2000 huy động từ TPCP đạt bình quân là 2,5% GDP, chiếm khoảng 55% tổng nguồn bù đắp bội chi NSNN. + Thời kỳ từ năm 2001 đến nay huy động từ TPCP đạt bình quân 3,9% GDP, chiếm khoảng 75% tổng nguồn bù đắp bội chi NSNN. Kết quả trên đã khẳng định, TPCP trở thành công cụ đặc biệt quan trọng và có hiệu quả để huy động vốn cho NSNN, góp phần tạo thế chủ động trong công tác quản lý và điều hành NSNN, hạn chế và đi đến chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt NSNN. Ngoài bù đắp thiếu hụt NSNN, TPCP còn được sử dụng để huy động vốn cho các công trình kinh tế - xã hội của trung ương và địa phương như đường dây 500 KV, thuỷ điện Yaly, khu đô thị Chí Linh, các công trình cơ sở hạ tầng ở các địa phương: thành phố Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Khánh Hoà, Cà Mau… Các công trình này đã được đưa vào sử dụng và đang phát huy hiệu quả tốt. Riêng trong 2 năm 2003 và 2004, Chính phủ đã huy động được trên 10.000 tỷ đồng (bao gồm cả huy động bằng ngoại tệ) đạt gần 107% kế hoạch huy động vốn từ việc phát hành 46 trái phiếu giao thông thuỷ lợi để đầu tư cho các công trình giao thông thuỷ lợi của đất nước, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - TPCP ngày càng đa dạng về kỳ hạn, phong phú về chủng loại và phương thức phát hành ngày càng được cải tiến, tạo khả năng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn Gắn liền với quá trình ra đời, hoạt động và phát triển của hệ thống KBNN, công tác huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT dưới hình thức TPCP ngày càng đa dạng và phong phú. Cụ thể từ năm 1990 - 1995 chủ yếu là phát hành tín phiếu bán lẻ qua hệ thống KBNN, đến cuối năm 1995 bắt đầu áp dụng hình thức đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN. Từ năm 1996 - 2004 có các loại trái phiếu mới như trái phiếu công trình, trái phiếu kho bạc, công trái xây dựng Tổ quốc, trái phiếu chính quyền địa phương… Từ năm 2000 đã áp dụng và tổ chức đấu thầu trái phiếu kho bạc (loại kỳ hạn 5 năm) và nghiệp vụ bảo lãnh phát hành qua TTGDCK, với kết quả 3.134,7 tỷ đồng qua kênh đấu thầu và 4.790 tỷ đồng qua kênh bảo lãnh phát hành huy động vốn cho NSNN và cho mục tiêu ĐTPT. Đặc biệt trong 2 năm 2003 và 2004, hệ thống KBNN đã phát hành một khối lượng lớn TPCP để huy động vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia thuộc lãnh vực giao thông thủy lợi, trong đó đấu thầu qua TTGDCK: 1.122 tỷ đồng và bảo lãnh phát hành là: 2.065 tỷ đồng. Kỳ hạn của TPCP được thay đổi cho phù hợp, đáp ứng nhu cầu đầu tư của công chúng và nhu cầu huy động vốn trung hạn và dài hạn của Nhà nước: trước năm 1999 TPCP chủ yếu có 2 loại kỳ hạn là 1 năm và 2 năm; từ cuối năm 1999 đến nay có thêm nhiều loại TPCP có kỳ hạn 5 năm; từ năm 2003 trở đi loại TPCP có kỳ hạn 5 năm trở lên chiếm trên 55% tổng dư nợ của TPCP với các mức lãi suất hợp lý, hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Hình thức phát hành TPCP cũng đa dạng hơn, có loại chứng chỉ, có loại ghi sổ, loại có ghi tên và loại không ghi tên với nhiều mức mệnh giá khác nhau… tạo ra nhiều cơ hội cho công chúng đầu tư có nhiều sự lựa chọn, đồng thời giảm tối đa chi phí phát hành. - TPCP góp phần cung cấp công cụ thực hiện chính sách tiền tệ TPCP không chỉ là công cụ để bù đắp thiếu hụt NSNN, bổ sung nguồn vốn đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trọng điểm của Nhà nước, mà TPCP còn tạo ra các công cụ nợ ngắn hạn để NHNN duy trì hoạt động thị trường tiền tệ. 47 Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc không chỉ là kênh huy động vốn cho NSNN mà còn là kênh cung cấp công cụ hoạt động cho thị trường tiền tệ. Từ tháng 6/1995 đến tháng 12/2004 Bộ Tài chính đã phối hợp với NHNN tổ chức được 388 phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc với doanh số phát hành là 59.449,8 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc đấu thầu qua NHNN là hình thức huy động vốn ngắn hạn, có độ rủi ro không đáng kể, do đó nó là hàng hoá có chất lượng cao trên thị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf44071.pdf
Tài liệu liên quan