MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, sơ đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Vai trò của thu NSNN và tổ chức hệ thống quản lý thu ngân sách cấp tỉnh 3
1.1. Những vấn đề chung về thu NSNN 3
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thu NSNN 3
1.1.2. Nội dung thu NSNN và phân loại thu NSNN 4
1.1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN 5
1.2. Sự cần thiết phải tổ chức thu ngân sách cấp tỉnh 7
1.2.1. Các khoản thu cố định 8
1.2.2. Các khoản thu phân định giữa các cấp ngân sách 8
1.2.3. Các khoản thu bổ sung từ NSTW 11
1.2.4. Mối quan hệ giữa ngân sách cấp tỉnh với các cấp ngân sách khác 12
1.3. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN 13
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế 13
1.3.2. Hệ thống thuế ở Việt Nam và phân loại thuế 14
1.3.3. Tổ chức bộ máy thu thuế 16
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu ngân sách nhà nước ở cộng hoà dân chủ nhân dân Lào (ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn) 26
2.1. Những đặc điểm cơ bản về tình hình kinh tế – xã hội và yếu tố chi phối đến công tác quản lý thu NSNN của Lào trong thời gian qua 26
2.1.1. Đặc điểm chung 26
2.1.2. Tình hình kinh tế Lào 30
2.1.3. Tình hình xã hội 31
2.2. Tổng quan về thực trạng quản lý thu NSNN Lào và thu NSĐP (ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn) 31
2.2.1. Tình hình thu Ngân sách Nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 31
2.2.2. Thực trạng thu ngân sách ở tỉnh Viêng Chăn 33
2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy ngành thuế trong thời gian qua 48
2.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thuế Trung ương 48
2.3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan thuế ở tỉnh Viêng Chăn 52
2.3.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thuế địa phương cấp huyện 53
2.4. Những vấn đề đang đặt ra trong công tác quản lý thu NSNN 55
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý thu NSNN ở CHDCND Lào (ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn) 58
3.1. Mục đích nhiệm vụ của công cuộc cải cách tăng cường quản lý thu thuế giai đoạn hiện nay. 58
3.1.1. Những đòi hỏi khách quan tiếp tục công cuộc cải cách tăng cường quản lý thu thuế trong giai đoạn hiện nay của Lào 58
3.1.2. Những mục tiêu định hướng trong công cuộc cải cách tăng cường quản lý thu thuế 59
3.1.3. Nhiệm vụ chủ yếu của tăng cường quản lý thu thuế 60
3.2. Các giải pháp cụ thể của ngành thuế 61
3.2.1. Hoàn thiện quá trình ban hành luật, chính sách thuế hợp lý 61
3.2.2. Tăng cường quản lý thu thuế 64
3.2.3. Cải tiến tổ chức bộ máy thuế 78
3.2.4. Cải tiến cơ sở vật chất kỹ thuật, con người thực thi công tác hành chính thuế 82
Kết luận 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
86 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1661 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (Ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến đổi tình hình kinh tế trong nước và khu vực. Từ đó làm cho luật thuế trở thành lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn trên 20% cán bộ thu thuế là chưa được đào tạo chuyên môn.
Do việc quy định về miễn giảm thuế còn thiếu, chưa phân tích một cách toàn diện, việc quy định thuế suất đối với một số mặt hàng còn chung chung, thiếu sự rõ ràng, cụ thể.
2.2.2.2 Quy trình quản lý thu thuế
Theo quy định tại các văn bản hướng dẫn hiện hành với mô hình tổ chức bộ máy, quá trình quản lý thu thuế được mô tả như sau:
Cơ quan thuế
Các phòng chức năng
Phòng trực tiếp quản lý
Phòng thanh tra và xử lý tố tụng về thuế
Đăng ký thuế
Kê khai thuế
Thông báo thuế
Thu thuế và quyết toán
Miễn giảm và xử lý các vấn đề
Thanh tra kiểm tra thuế
Đối tượng nộp thuế
Sơ đồ 2.1: Quy trình quản lý thu thuế
Ghi chú:
Trực tiếp
Gián tiếp
- Cơ quan thuế là cấp quản lý thu thuế theo một địa bàn.
- Phòng trực tiếp quản lý thu được tổ chức theo đối tượng nộp thuế.
Các chức năng: Phòng kế hoạch, ấn chỉ, máy tính.
Theo mô hình tổ chức như trên, mọi vấn đề liên quan đến đối tượng nộp thuế chủ yếu thông qua phòng nghiệp vụ trực tiếp quản lý thu. Trong mỗi phòng nghiệp vụ, mỗi cán bộ thuế trực tiếp chuyên quản một số đối tượng thuế nhất định. Việc phân chia đối tượng nộp thuế cho từng cán bộ chuyên quản có thể căn cứ vào địa bàn hoặc theo từng ngành nghề kinh doanh tùy theo từng địa phương.
Trong cơ quan thuế, phòng quản lý đối tượng nộp thuế mà trực tiếp là cán bộ chuyên quản đảm nhiệm toàn bộ quá trình thu thuế từ khâu kê khai, đăng ký thuế, tính thuế và ra thông báo thuế, trực tiếp quản lý thu thuế quyết toán với từng đối tượng nộp thuế.
Các phòng chức năng như phòng kế hoạch, kế toán, phòng ấn chỉ thuế… có nhiệm vụ giúp lãnh đạo trong việc quản lý thuế trên địa bàn như: xây dựng kế hoạch, báo cáo số thu, tổng hợp số liệu hay cung cấp toàn bộ sổ sách hóa đơn và toàn bộ ẩn chỉ thuế.
Phòng thanh tra và số lượng tố tụng về thuế trực tiếp kiểm tra đối tượng nộp thuế khi có đơn thư khiếu tố, khiếu nại, hoặc kiểm tra theo một chương trình đã định sẵn. Thông thường, việc kiểm tra thuế được tiến hành sau khi các bộ phận trực tiếp quản lý đối tượng nộp thuế đã thanh quyết toán trong kỳ.
Việc quản lý thuế theo mô hình như trên có một số ưu điểm sau:
- Gắn chặt trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc quản lý đối tượng nộp thuế, nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức trong công việc của cán bộ thuế.
- Đảm bảo cho cán bộ thuế đi sâu, đi sát, nắm chắc tình hình đối tượng nộp thuế, đảm bảo cơ sở cho việc quản lý đối tượng nộp thuế.
- Đảm bảo thông tin giữa cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế được thực hiện nhanh nhất. Xử lý kịp thời các vấn đề vướng mắc về thuế, tạo điều kiện đối tượng nộp thuế thực hiện tốt yêu cầu của luật.
Quá trình quản lý thuế như trên phù hợp với nền kinh tế ở trình độ nhất định, nhận thức của đối tượng nộp thuế còn hạn chế, số lượng đối tượng nộp thuế còn ít.
Tuy nhiên, toàn bộ quá trình quản lý thu thuế được thực hiện bởi một phòng (bộ phận) hay trực tiếp một cán bộ chuyên quản của mỗi đối tượng nộp thuế như vậy rất dễ dẫn đến một số nhược điểm như:
+ Do thiếu sự kiểm tra giám sát chéo thường xuyên lẫn nhau nên dễ xảy ra một số hiện tượng như thiếu khách quan, trung thực trong việc xử lý các vấn đề về thuế hoặc một số sai phạm trong lĩnh vực thuế.
+ Do trao quá nhiều quyền vào trong tay một số các cán bộ chuyên quản hoặc một phòng quản lý thu thuế, rất dễ xảy ra tình trạng quan liêu cửa quyền trong quản lý thuế và là cơ sở phát sinh hiện tượng tích cực về thuế.
+ Việc quản lý đối tượng theo dạng cơ quan thuế tính thuế và ra thông báo thuế dẫn đến trách nhiệm pháp lý của cơ quan thuế, cán bộ thuế quá cao, không khuyến khích được đối tượng nộp thuế, nâng cao được ý thức trách nhiệm pháp lý của mình trong việc thực hiện luật thuế.
+ Việc quản lý như trên chỉ phù hợp khi số lượng nộp thuế còn ở mức hạn chế, với sự gia tăng về số lượng nhanh chóng như hiện nay một cán bộ thuế không thể đảm nhiệm được một khối lượng đối tượng nộp thuế với khối lượng công việc như trên.
Quy trình quản lý thuế cụ thể ở CHDCND Lào trong thời gian qua được thực hiện qua các bước cụ thể sau:
* Quản lý đối tượng nộp thuế
Xuất phát từ những đặc điểm tổ chức bộ máy ngành thuế của Lào đó là:
- Tổ chức bộ máy theo loại hình đối tượng nộp thuế hay sắc thuế.
Cơ quan thuế địa phương thường gắn với chính quyền hành chính địa phương theo địa bàn hành chính theo 03 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện.
- Ngoài chức năng tổ chức quản lý thu, cơ quan thuế còn đảm nhiệm một số chức năng khác như phân bổ nguồn thu, kiểm tra giám sát hoạt động của hệ thống các doanh nghiệp quốc doanh.
Do vậy mỗi đối tượng nộp thuế đều do một bộ phận hay một cá nhân chuyên trách và hoàn toàn chịu trách nhiệm từ việc kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế của cơ sở.
Kê khai đăng ký thuế là khâu đầu tiên trong công tác quản lý thu thuế, tạo điều kiện cho cơ quan thuế nắm được cơ bản các thông tin về các cơ sở kinh doanh trên địa bàn để có căn cứ lập sổ danh bạ thuế, kiểm tra quản lý thu thuế theo đúng luật định.
Việc kê khai đăng ký thuế được tiến hành ở địa bàn và hồ sơ được lưu trữ lại tại cơ quan thuế nơi trực tiếp quản lý đối tượng.
Để đảm bảo thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên lãnh thổ và phù hợp với yêu cầu quản lý hiện tại thì UBND các cấp là cơ quan cấp giấy phép đăng ký kinh doanh. UBND các cấp thường giao cho cơ quan chuyên môn (thường là cơ quan tài chính, quản lý thị trường hay sở kế hoạch đầu tư) xem xét hồ sơ và trình ủy ban xét duyệt ra quyết định.
Hàng tháng cơ quan thuế phải lấy danh sách các cơ sở kinh doanh hoặc đối chiếu với cơ quan ra quyết định cấp đăng ký kinh doanh hay quyết định thành lập để xác định những đối tượng nộp thuế mới chưa đăng ký nộp thuế, những cơ sở giải thể, tạm dừng hoặc thu hồi giấy phép đầu tư để trên cơ sở có thể quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế.
Trong thời gian qua, việc quản lý đối tượng nộp thuế theo cơ chế như trên đã cho chúng ta những thành công nhất định, số cơ sở kinh doanh tăng lên nhanh chóng, việc quản lý đối tượng cũng được cơ quan thuế địa phương tăng cường chặt chẽ và hiệu quả. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế hiện nay với sự gia tăng quá nhanh của các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là số hộ cá thể trong đó chỉ có một số hộ có đăng ký kinh doanh. Chính vì vậy theo phương pháp cơ quan thuế kê khai quản lý đối tượng như trên làm quá tải khối lượng công việc của cơ quan thuế. Con số thất thu về đối tượng nộp thuế ngày một tăng lên. Quá trình lập sổ bộ phận quản lý theo đối tượng thông qua sổ sách giấy tờ và việc lưu trữ hồ sơ dễ bị thất thoát, rất khó tra cứu. Việc kê khai cấp sổ đăng ký thuế như trên mang tính chất manh mún theo từng địa phương, không có sự đồng bộ trên toàn quốc vậy sẽ rất khó kiểm tra, kiểm soát, quản lý trên phạm vi rộng. Việc đăng ký quản lý đối tượng nộp thuế được thực hiện một cách thủ công hoàn toàn dễ dẫn đến sự sai sót hoặc dễ phát sinh tích cực trong công tác quản lý.
Việc cơ quan thuế không trực tiếp xem xét cấp đăng ký kinh doanh gây một số khó khăn nhất định trong công tác quản lý đối tượng nộp thuế. Do không đối chiếu thường xuyên giữa cơ quan cấp đăng ký kinh doanh với cơ quan thuế gây tình trạng thất thu lớn về số hộ kinh doanh và đối tượng nộp thuế đồng thời gây khó khăn trong việc quản lý thuế.
* Việc kê khai thuế và nộp thuế
Cơ sở kinh doanh phải thực hiện lập và nộp tờ kê khai thuế theo từng sắc thuế với cơ quan thuế địa phương nơi mà cơ sở trực tiếp sản xuất kinh doanh.
Cơ quan thuế có trách nhiệm kiểm tra tính thuế và ra thông báo thuế số thuế phải nộp (các sắc thuế) của kỳ trước theo luật.
Trong trường hợp cơ sở sản xuất kinh doanh không gửi tờ kê khai thuế hoặc kê khai không đúng, không đầy đủ theo đúng quyết định, cơ quan thuế có quyền ấn định số thuế phải nộp của cơ sở kinh doanh theo luật định.
Cơ chế quản lý tu nộp như trên được gọi là phương pháp cơ quan thuế tính thuế. Phương pháp này trong chừng mực nào đó phù hợp với một số nước có mô hình chủ yếu là thành phần kinh tế quốc doanh đã được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Theo cơ chế này trước khi ra thông báo, cơ quan thuế phải kiểm tra tờ khai, tính thuế và xác nhận vào tờ khai thuế, đồng thời ra thông báo gửi đối tượng nộp thuế. Trong thông báo thuế phải ghi rõ số thuế phải nộp, nơi nộp thuế và thời hạn nộp thuế.
Hàng tháng căn cứ vào số thuế phải nộp và ngày ấn định mà ghi trên thông báo thuế, cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện việc nộp tiền thuế vào KBNN hoặc trực tiếp cho cơ quan thuế sau đó cơ quan thuế có trách nhiệm nộp vào KBNN.
Theo phương pháp cơ quan thuế tính thuế này cơ quan thuế phải chịu trách nhiệm về việc kiểm tra tính toán của mình, do vậy trách nhiệm pháp lý đối với mỗi cán bộ chuyên quản là rất lớn. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay. Số lượng đối tượng nộp thuế tăng lên nhanh chóng. Như vậy cơ quan thuế phải kiểm tra xử lý nhiều đối tượng nộp thuế trong một thời gian ngắn, do đó trách nhiệm pháp lý không được đảm bảo, độ chính xác không cao, không kịp thời theo yêu cầu quản lý.
Việc nộp thuế ở tỉnh Viêng Chăn trong thời gian qua được thực hiện dưới nhiều hình thức: Nộp thẳng cho cơ quan thuế, nộp qua tài khoản ngân hàng hoặc nộp thẳng vào kho bạc Nhà nước tỉnh. Tuy nhiên nộp theo hình thức nào thì cuối cùng số tiền thuế đó vẫn phải vào đến KBNN. Nhưng vấn đề khó khăn là chứng từ nộp thuế được luân chuyển như thế nào và làm sao để quản lý việc nộp thuế một cách chặt chẽ nhất, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đối tượng nộp thuế.
Đối tượng nộp thuế
Nộp tờ khai định kỳ
Tính thuế và ra thông báo
(2)
(5)
Nộp thuế
Cơ quan thuế
Kho bạc Nhà nước
(6)
(3)
Nộp thuế
Chứng từ thu
Trả biên lai chứng từ
(4)
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ nộp thuế trực tiếp cho cơ quan thuế
1. Đối tượng nộp thuế nộp tờ khai hay phiếu điều tra, cơ quan thuế lập sổ bộ thuế.
2. Căn cứ vào tờ khai, sổ bộ cơ quan thuế ra thông báo thuế.
3. Đối tượng nộp thuế nộp trực tiếp tiền thuế cho cơ quan thuế.
4. Cơ quan thuế xuất trả biên lai, chứng từ thu.
5. Cơ quan thuế tổng hợp số tiền, định kỳ nộp kho bạc.
6. Kho bạc xuất trả chứng từ thu làm căn cứ báo cáo và thanh quyết toán biên lai.
Cơ quan thuế phải xuất biên lai do Bộ Tài chính phát hành cho người nộp thuế để chứng minh số thuế đã nộp. Sau đó trách nhiệm nộp thuế vào kho bạc còn lại do cơ quan thuế đảm nhiệm.
Phương pháp thu trực tiếp thường được áp dụng đối với các đối tượng nộp thuế là các hộ kinh doanh nhỏ không có tài khoản ngân hàng hay ở cách xa kho bạc Nhà nước hoặc thường được áp dụng đối với các đối tượng không tự giác đến nộp, nộp thuế mà phải do cán bộ thuế trực tiếp thu. Phương pháp thu này có thể thuận tiện cho người nộp thuế. Tuy nhiên do trực tiếp tiếp xúc với tiền nên dễ nảy sinh tiêu cực trong lĩnh vực thuế như: Xâm tiêu tiền thuế, thu thuế không có chứng từ, biên lai hay thông đồng với đối tượng nộp thuế để tham ô tiền thuế.
Nộp trực tiếp cho Kho bạc Nhà nước
Kho bạc Nhà nước
Đối tượng nộp thuế
Cơ quan thuế
Tờ khai phiếu điều tra
Thông báo
Báo cáo
Nộp thuế
Chứng từ thuế
(4)
(3)
(1)
(2)
(5)
Đối chiếu số thu
Sơ đồ 2.3: Quy trình nộp thuế trực tiếp cho Kho bạc Nhà nước
Đây là phương pháp nộp đang khuyến khích đối với một số đối tượng kinh doanh nhỏ, không có tài khoản ở ngân hàng, nộp theo phương pháp này có khắc phục được các nhược điểm của phương pháp nộp trên tránh được một số hiện tượng tiêu cực. Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp này có sự chuẩn bị của cả hệ thống Kho bạc vì đối tượng nộp thuế quá nhiều và ngày nộp thuế thường dồn vào cuối tháng, do vậy việc nộp thuế thường gây mất nhiều thời gian cho đối tượng nộp thuế, phiền phức cho cơ sở. Do vậy phương pháp này trong thời gian qua không được ủng hộ của đối tượng nộp thuế.
áp dụng kinh nghiệm một số nước, đặc biệt là kinh nghiệm của Việt Nam, trong những năm gần đây, ngành thuế của Lào đã cho thí điểm đối tượng nộp thuế trực tiếp nộp qua ngân hàng được thể hiện bằng mô hình như sau:
Kiểm tra đối triếu
Đối tượng
nộp thuế
Cơ quan thuế
Tờ khai, bảng kê
Thông báo
(1)
Séc UNC
ĐCT
Giấy
báo nợ
Ngân hàng uỷ quyền
C.từ giấy báo có
Đối
chiếu
Kho bạc Nhà nước
Giấy báo có
Chuyển tiền
(5)
(6)
(7)
(8)
(8)
(3)
(4)
Sơ đồ 2.4: Quy trình nộp thuế qua ngân hàng
1. Đối tượng nộp thuế nộp tờ kê khai, phiếu điều tra danh số.
2. Cơ quan thuế ra thông báo thuế.
3. Đối tượng nộp thuế cắt tiền trả ngân hàng (séc, ủy nhiệm chi, điện chuyển tiền).
4. Ngân hàng thông báo số tiền đã chuyển đi (Giấy báo nợ).
5. Tiền đang thực hiện chuyển về Kho bạc (thông qua hệ thống ngân hàng).
6. Kho bạc nhận tiền (thông báo cho ngân hàng).
7. Gửi chứng từ cho cơ quan thuế (cùng cấp).
8. Nghiệp vụ đối chiếu định kỳ.
Đây là phương pháp nộp tiên tiến, nhanh gọn, đảm bảo tính chính xác, tránh được một số hiện tượng tiêu cực. Tuy nhiên, nộp thuế theo phương pháp này chỉ áp dụng với các cơ sở có tài khoản mở tại ngân hàng. Căn cứ vào thông báo thuế, đối tượng nộp thuế có thể chuyển tiền vào KBNN bằng giấy nộp tiền, bằng chuyển khoản, ủy nhiệm chi hay chuyển tiền theo mục lục ngân sách đã quy định. Sau khi nhận được tiền KBNN chuyển trả cho cơ quan thuế cùng cấp một chứng từ xác nhận số thuế vào ngân sách. Tuy nhiên, theo phương pháp này hiện nay đối tượng nộp thuế sau khi chuyển tiền không có chứng từ chứng minh số tiền đã nộp vào ngân sách mà muốn có phải sao in từ cơ quan thuế nơi trực tiếp quản lý. Tuy vậy, phương pháp này vẫn là phương pháp nộp tiên tiến nhất và trong tương lai ngành thuế nên hướng dẫn cho các đối tượng nộp thuế nộp theo phương pháp này.
* Công tác thanh tra kiểm tra thuế
Thanh tra thuế là một mặt của hoạt động kiểm tra nói chung. Tuy nhiên, thanh tra thuế là hoạt động giám sát kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ quan thuế, là loại kiểm tra ở giai đoạn sau khi các hoạt động có liên quan đến thuế đã phát sinh, nhằm tìm ra bản chất của vấn đề và truy cứu trách nhiệm nếu thấy cần thiết. Kết quả của thanh tra là một trong nước cơ sở pháp lý có hiệu lực trong hoạt động xét xử của tòa án đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy thanh tra, thực chất là hoạt động đánh giá có tính chất công quyền, là hoạt động của cơ quan giám sát thực hiện pháp luật.
Trong nghĩa vụ thi hành luật thuế của các đối tượng có sự khác nhau. Thanh tra thuế có nhiệm vụ thanh tra cả đối tượng thi hành luật thuế trực tiếp và cả đối tượng được Nhà nước giao quyền thu thuế.
Nội dung của thanh tra thuế đối với các tổ chức cá nhân thực hiện nghĩa vụ nộp thuế tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
- Thanh tra việc chấp hành những quy định về đăng ký kê khai nộp thuế.
- Thanh tra việc chấp hành những quy định về sổ sách chứng từ hóa đơn kế toán của các đơn vị, cá nhân làm nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước.
- Thanh tra việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế theo luật định.
Đối với đối tượng được giao nhiệm vụ thu thuế và quản lý thuế, thanh tra thuế tập trung vào một số nhiệm vụ sau:
- Thanh tra việc thực hiện và hướng dẫn đối tượng nộp thuế trong việc áp dụng luật thuế và thực hiện các quy định của Nhà nước.
- Thanh tra việc sử dụng các quỹ, tài sản trong nội bộ ngành thuế.
- Thanh tra trực tiếp giải quyết các đơn thư khiếu tố của công dân.
Trong thời gian qua, thanh tra thuế đã góp phần quan trọng nâng cao kết quả quản lý thu thuế, khai thác nguồn thu, chống thất thu, thất thoát ngân sách Nhà nước. Điều quan trọng nhất là thông qua hoạt động thanh tra kiểm tra luật thuế và các văn bản dưới luật được thực hiện nghiêm chỉnh hơn, nâng cao tính nghiêm minh của luật. Đảm bảo công bằng, hợp lý trong nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế đồng thời làm trong sạch hóa đội ngũ cán bộ thuế.
Tuy nhiên, trong thời gian qua thanh tra thuế ở nước ta chưa được quan tâm đúng mức cả về con người, cơ sở vật chất và đặc biệt là quy chế hoạt động.
Với cơ chế cơ quan thuế tính thuế, do tổ chức bộ máy ngành thuế theo sắc thuế và đối tượng nộp thuế, do vậy chức năng thanh tra kiểm tra và xử lý tố tụng về thuế được thực hiện do một bộ phận thanh tra trong bộ máy ngành thuế đảm nhiệm. Do cơ chế quản lý thuế như vậy nên việc phân định chức năng trong quy trình quản lý thuế không rõ ràng, tất cả các bộ phận trực tiếp quản lý thu thuế đều có quyền kiểm tra đối tượng nộp thuế, do vậy công việc hết sức chồng chéo, thanh tra thường tiến hành việc kiểm tra đối tượng nộp thuế sau khi bộ phận chuyên quản đã trực tiếp thanh quyết toán tiền thuế do vậy việc xử lý các vi phạm về thuế chưa được thực hiện triệt để, công việc thanh tra hàng ngày chủ yếu là xử lý các trường hợp có tố tụng về thuế.
* Cưỡng chế thuế và xử lý tố tụng thuế
Trong thời gian qua, trong các chế tài cụ thể của luật thuế đều quy định quyền thi hành pháp luật và cưỡng chế thi hành pháp luật. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế là hành vi do tổ chức, cá nhân vi phạm những quy định của luật thuế, pháp lệnh thuế và các văn bản dưới luật.
Các trường hợp vi phạm cụ thể xử lý theo luật thường được quy định trong phần "xử lý vi phạm" trong các thông tư hướng dẫn. Các trường hợp buộc phải xử lý theo luật định, thường là do vi phạm lặp đi lặp lại nhiều lần vi phạm có chú ý hay cố tình, những vi phạm mang tính chất nghiêm trọng tùy theo từng trường hợp cụ thể được quy định trong luật thuế mà xử lý theo các mức độ từ nhắc nhở, cảnh cáo, phạt hành chính, ấn định số thuế, truy thu thuế hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc xử lý các vi phạm và cưỡng chế thuế nhằm mục đích ngăn chặn kịp thời hành vi không chấp hành luật, tuy nhiên trong thời gian qua, việc xử lý các trường hợp vi phạm chưa thật nghiêm minh, quyền hành của cơ quan thuế trong việc xử lý và cưỡng chế chưa cao chính vì vậy hoạt động này chưa thực sự phát huy tác dụng.
Cùng với việc xử lý và cưỡng chế các vi phạm về thuế, việc khiếu nại và xử lý tố tụng về thuế cũng bị hạn chế. Theo quy định của luật, đối tượng nộp thuế khi không chấp nhận số thuế được tính hay các quyết định của cơ quan thuế thì có thể không chấp nhận số thuế được tính hay các quyết định của cơ quan thuế thì có thể khiếu nại lên ba cấp.
- Cấp cơ quan thuế địa phương trực tiếp quản lý.
- Cấp cơ quan thuế cấp tỉnh.
- Cấp cơ quan thuế Trung ương.
Và thông thường người ra quyết định cuối cùng là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tất cả các cấp đều do hệ thống hành pháp trực tiếp xử lý trong khi đó ngành thuế là người tham mưu các văn bản về thuế, ngành thuế là người thực hiện luật và các pháp lệnh về thuế đồng thời khi có sự tranh chấp giữa người nộp thuế và cơ quan thuế thì vẫn là ngành thuế đứng ra xử lý. Việc quy định như trên làm cho đối tượng nộp thuế có cách nhìn không khách quan trong việc thực thi luật và xử lý vi phạm, thiếu sự bình đẳng.
Trong tương lai việc cải cách hành chính thuế không chỉ dừng lại ở khâu hành pháp mà còn phải mở rộng sang khâu tư pháp, việc phân sử các vấn đề về thuế có thể được tiến hành ở hai cấp, cấp hành chính và cấp tòa án độc lập, chỉ khi đó đối tượng nộp thuế mới thực sự nhìn nhận sự công bằng và độ tín nhiệm trong công tác quản lý hành chính thuế.
2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy ngành thuế trong thời gian qua
2.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thuế Trung ương
Sau khi đất nước đã giải phóng và thành lập nước CHDCND Lào, ngành thuế và ngành Hải quan đã nằm trong một vụ và được gọi là vụ Hải quan – Thuế. Dù là nằm trong cùng một vụ nhưng chức năng và nhiệm vụ của mỗi ngành vẫn là khác nhau. Ngành thuế đảm nhiệm việc quản lý thu thuế trong nội địa, còn ngành Hải quan đảm nhiệm việc quản lý về ngoại thương. Đến ngày 13/8/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã thống nhất xây dựng lại vụ Hải quan – Thuế, từ đó vụ Thuế và vụ Hải quan đã trở thành hai vụ độc lập.
Vụ thuế là một bộ máy trong hệ thống thu của NSNN và trực thuộc Bộ Tài chính, có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Làm tham mưu cho Bộ Tài chính trong việc nghiên cứu, soạn thảo các văn bản về thuế để Bộ Tài chính, trình Chính phủ và Quốc hội, tổ chức phổ biến các luật thuế đã được ban hành ra phạm vi toàn quốc.
- Chỉ đạo hệ thống thuế Nhà nước quản lý công tác thu thuế và thu khác, thống nhất trong cả nước theo các văn bản quy định và kiểm tra giám sát việc chấp hành các luật Thuế.
Việc thành lập hệ thống thuế trong thời gian qua là theo ngành dọc tập trung nguồn lực Trung ương đến cơ sở nhằm đạt mục tiêu tối ưu và tập trung nguồn lực vào trong tay cơ quan thuế Trung ương để tăng cường khả năng chỉ đạo thống nhất công tác quản lý theo pháp luật. Bộ Tài chính hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hoạt động của bộ máy theo ngành dọc này.
Tổ chức cơ quan thuế Trung ương được tiến hành theo nguyên tắc cá nhân lãnh đạo. Cơ quan thuế Trung ương có một định chế vụ trưởng. Do Bộ trưởng Bộ Tài chính đề nghị Chính phủ bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính và Chính phủ về công tác quản lý thuế.
Những năm qua ở CHDCND Lào mô hình tổ chức bộ máy ngành thuế được tổ chức theo loại hình đối tượng nộp thuế và theo sắc thuế. Tại cơ quan thuế Trung ương Vụ trưởng chịu trách nhiệm trước Bộ Tài chính và Nhà nước về toàn bộ hoạt động của ngành, giúp việc cho Vụ trưởng có hai Phó vụ trưởng phụ trách các mảng khác nhau trong công việc.
Để giúp cho Vụ trưởng, Vụ thuế còn có 5 phòng ban trực thuộc bao gồm: phòng ấn chỉ, chính sách và tuyên truyền; phòng kế toán, thống kê, kế hoạch và tổng hợp; phòng kiểm toán và thanh tra thuế; phòng tổ chức và hành chính; phòng quản lý thu thuế.
Vụ thuế là một tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Bộ Tài chính và Chính phủ về việc triển khai thực hiện hệ thống chính sách thuế, tổ chức việc thu ngân sách do vậy, mối quan hệ giữa Bộ Tài chính và Vụ Thuế là mối quan hệ chỉ đạo. Bộ Tài chính tham gia điều hành cả tổ chức bộ máy và các hoạt động của vụ thuế trong đó đặc biệt là hệ thống chính sách thuế và quy trình quản lý thu thuế. Việc cơ cấu tổ chức như trên nhằm đảm bảo tính thống nhất cao giữa chính sách thuế và hệ thống chính sách tài khóa nói chung giúp Bộ Tài chính điều hành một cách đồng bộ thống nhất hệ thống chính sách tài khóa, thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Đứng trên phương diện về tổ chức, nhiều chuyên gia cho rằng trong bối cảnh hiện nay việc đặt Vụ thuế dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Tài chính là thích hợp và đây cũng là mô hình tổ chức mà nhiều nước được áp dụng.
Tuy nhiên, vấn đề này quan trọng là tạo ra một cơ chế lãnh đạo sao cho đảm bảo nguyên tắc vừa tập trung cao vừa phát huy đầy đủ dân chủ trong chỉ đạo.
Trong việc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, Vụ Thuế có mối quan hệ đặc biệt với các địa phương trong công tác thuế, đảm bảo sự song trùng lãnh đạo của ngành thuế và UBND các cấp trong công tác thuế, cụ thể là:
Về mặt tổ chức: Trước khi ra quyết định để bầu lãnh đạo cơ quan thuế địa phương, Vụ thuế phải trao đổi thống nhất và được sự nhất trí bằng văn bản của chính quyền địa phương.
Về mặt hoạt động nghiệp vụ: Cơ quan thuế phải có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương trong việc tổ chức thu thuế, giúp địa phương trong việc hoạch định ngân sách hàng năm, đề xuất các biện pháp quản lý thu thuế trên địa bàn, tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan trong việc chống thất thu thuế.
Trong thời gian qua, quan hệ giữa ngành thuế và chính quyền địa phương được củng cố và phát triển, ngành thuế đã tranh thủ triệt để sự ủng hộ của các cấp chính quyền địa phương, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Tuy nhiên ở một số địa phương sự can thiệp quá sâu của chính quyền địa phương vào công tác thuế đặc biệt là việc miễn giảm, để lại tiền thuế không đúng thẩm quyền; việc quy định hoặc điều tiết tiền thuế không đúng quy định đã làm ảnh hưởng không ít đến việc thực hiện luật thuế.
Ngoài ra, mối quan hệ trong nội bộ ngành thuế là các mối quan hệ mang tính chất chỉ đạo nghiệp vụ hay hành chính đơn thuần. Đối với cơ quan thuế cấp trên trong thời gian qua tuy đã bám sát cơ sở để chỉ đạo song trong chỉ đạo chưa có chương trình kế hoạch cụ thể trên tất cả các mặt hoạt động hướng dẫn giải đáp chính sách nghiệp vụ quản lý chưa kịp thời để đảm bảo việc thực hiện nghiêm chỉnh các luật thuế, đồng thời chưa tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý những vi phạm thiếu sót, khen thưởng kỷ luật nghiêm minh với các trường hợp vi phạm.
Ngoài ra trong mối quan hệ phối hợp trên khía cạnh quản lý thu thuế xuất nhập khẩu, Vụ thuế cũng có mối quan hệ khăng khít với Vụ hải quan. Mặc dù là một tổ chức độc lập với cơ quan thuế, song Vụ Hải quan lại đảm nhiệm một phần quan trọng trong việc thu thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trong công việc này cũng gây khó khăn không ít cho việc điều hành chính sách thu thuế đồng thời gây khó khăn cho cả đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Ngoài các mối quan hệ trên, cơ quan thuế cần phải có mối quan hệ mật thiết với các cơ quan khác như: Công an, kiểm soát, thanh tra, tài chính, quản lý thị trường. Để phối hợp trong công tác thu thuế và cưỡng chế thuế; phối hợp mật thiết với các cơ quan tuyên truyền, báo chí, các tổ chức quần chúng để làm tốt công tác tuyên truyền vận động các đối tượng nộp thuế chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách của Đả