MỞ ĐẦU . 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THANH HÓA THẾ KỶ XIII - XIV . 9
1.1. Khái quát vị trí địa lý và địa hình Thanh Hóa . 9
1.2. Diên cách hành chính Thanh Hóa thời Trần (Lộ, Trấn). 11
1.3. Đặc điểm dân cư Thanh Hóa . 14
1.4. Truyền thống yêu nước và đấu tranh của nhân dân. 15
Chương 2. THANH HÓA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
NGUYÊN - MÔNG THẾ KỶ XIII - XIV . 22
2.1. Tình hình Đại Việt cuối thế kỷ XII đến thế kỷ XIII. 22
2.2. Sự lớn mạnh và âm mưu xâm lược Đại Việt của đế quốc Mông Cổ. 24
2.3. Khái quát cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược của nhà
Trần thế kỷ XIII . 26
2.4. Nhân dân Thanh Hóa kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược . 37
Chương 3. THANH HÓA TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG CHIÊM
THÀNH THẾ KỶ XIII - XIV . 54
3.1. Sự suy thoái của nhà Trần và sự lớn mạnh của Chiêm Thành ở cuối thế
kỷ XIV . 54
3.2. Mối quan hệ giữa Đại Việt với Chiêm Thành thế kỷ XIII - XIV. 55
3.3. Các cuộc xung đột giữa Đại Việt với Chiêm Thành cuối thế kỷ XIV . 57
3.4. Cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành của nhà Trần trên địa bàn
Thanh Hóa. 60
KẾT LUẬN . 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 73
96 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông và chống chiêm thành (thế kỷXIII – XIV), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át Hoan chỉ huy gồm 30 vạn
quân cả bộ binh lẫn thủy binh, mang theo lương thực đầy đủ. Chúng tiến vào
nước ta chia làm 3 đạo: Đạo quân do Thoát Hoan chỉ huy từ Quảng Tây theo
đường Lạng Sơn tiến vào. Đạo quân do Ái Lỗ chỉ huy từ Vân Nam theo sông
Hồng tiến xuống. Đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy với 500
chiến thuyền từ Quảng Đông vào vịnh Hạ Long theo sông Bạch Đằng tiến vào
hội quân ở Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương). Ngoài ra, có một đoàn thuyền
vận tải do Trương Văn Hổ cầm đầu chở 70 vạn thạch lương theo sau. Khác
với lần trước, lần này chúng chú ý đến thủy binh.
Trần Quốc Tuấn lại được cử làm tổng chỉ huy các lực lượng. Ông đề ra
kế hoạch: Lúc đầu thế giặc mạnh, quân ta rút về vùng ven biển để bảo toàn
lực lượng. Nhân dân trên đường tiến quân của địch và trong vùng chiếm đóng
có nhiệm vụ cất giấu lương thực, kiên quyết triệt nguồn lương thực của địch,
đồng thời cùng với dân binh đẩy mạnh hoạt động đánh địch làm tiêu hao sinh
lực của chúng, đẩy chúng vào thế bị động.
Được tin giặc sắp tràn vào biên giới, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc
Tuấn “giặc tới, liệu tình hình thế nào?”, Trần Quốc Tuấn trả lời “năm nay
đánh giặc nhàn”. Lần này, Trần Quốc Tuấn chú trọng đến chiến trường biển
32
Đông Bắc - đường tiến quân lương của địch. Trần Khánh Dư chịu trách nhiệm
về biên thùy ven biển và Trần Toàn có nhiệm vụ ngăn chặn thủy quân giặc.
Trận Ngọc Sơn, do tương quan lực lượng của Ô Mã Nhi mạnh hơn nên
Trần Toàn có nhiệm vụ tiêu diệt đội thuyền đi sau của chúng và đã thu được
thắng lợi. Nhưng do lực lượng giặc quá mạnh nên chúng vẫn vượt qua vùng
biển Hạ Long và An Bang (Quảng Ninh), gặp quân của Trần Khánh Dư, trận
chiến xảy ra ác liệt. Quân của Trần Khánh Dư không sao cản được đạo quân
của của giặc, chúng ngược sông Bạch Đằng kéo vào Vạn Kiếp hội quân với
Thoát Hoan.
Trận Vân Đồn - Cửa Lục, dưới sự chỉ huy của Trần Khánh Dư, quân ta
tiêu diệt sạch đoàn thuyền lương của giặc. Tạo điều kiện cho quân dân ta
nhanh chóng chuyển lên chiến lược phản công. Ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan cố
xây dựng thành căn cứ quân sự. Y để lại một số quân ở đây, còn lại tiếp tục
tiến về Thăng Long. Quân dân ta tạm thời rút khỏi kinh thành.
Hậu cần bao giờ cũng là một vấn đề then chốt của bất cứ một quân đội
nào. Quân Nguyên trông chờ vào thuyền lương của Trần Văn Hổ, giờ này
mấy chục vạn quân Nguyên ở Thăng Long lâm vào tình trạng thiếu lương
thực nghiêm trọng. Thoát Hoan sai quân đi tìm đoàn thuyền lương nhưng đều
bị ta đánh bại. Sau khi biết được tin báo thuyền lương nằm trong tay ta, Thoát
Hoan hoang mang lo sợ. Đầu tháng 3, Thoát Hoan buộc phải quyết định bỏ
Thăng Long về Vạn Kiếp tổ chức phòng thủ, sau đó quyết định chia đạo quân
làm hai theo đường thủy bộ rút về nước.
Biết được ý đồ và đường hành quân của giặc, Trần Quốc Tuấn chuẩn bị
một cuộc phản công chu đáo. Sông Bạch Đằng được chọn làm điểm quyết
chiến tiêu diệt đạo quân Ô Mã Nhi. Để bảo đảm cho thế trận bao vây địch thật
hoàn hảo, ngoài việc dựa vào địa thế thiên nhiên hiểm yếu và lợi dụng Gềnh
Cốc như một chướng ngại tự nhiên, Trần Quốc Tuấn còn xây dựng ở ở các
33
cửa sông những trận địa cọc vững vàng, quy mô lớn chỉ trong vòng không quá
20 ngày. Đây là một trong những công tác quan trọng trong việc chuẩn bị
chiến trường, thể hiện rõ tư tưởng chủ động tích cực tiêu diệt giặc của quân
dân thời Trần.
Nhờ sự chuẩn bị chu đáo, quân dân ta lần lượt đánh bại quân giặc trên
đường rút lui. Trận quyết chiến đúng như dự định xảy ra trên sông Bạch
Đằng. Sau chiến thắng Bạch Đằng, ngày 18 tháng 4, hai vua Trần Thánh
Tông và Trần Nhân Tông đem bọn tù binh Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ và các tên
thiên hộ,vạn hộ về phủ Long Hưng (Thái Bình) làm lễ mừng thắng trận trước
lăng mộ vua Thái Tông, Trần Nhân Tông đọc:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Giang sơn mãi mãi vững âu vàng”.
Như vậy, ba lần xâm lược nước ta là ba lần thất bại thảm hại của quân
Nguyên - Mông. Điều này đã chứng minh một chân lí: Một dân tộc nhỏ bé
nếu biết đoàn kết sức mạnh của cả dân tộc thì bất kì một kẻ thù xâm lược nào,
dù có mạnh đến đâu cũng phải khuất phục. Ba lần kháng chiến chống Nguyên
Mông là ba lần vệ quốc vĩ đại của ông cha ta, như được thổi lại từ thuở Vua
Hùng dựng nước, bà Trưng, bà Triệu đánh giặc giữ nước. Đồng thời đây cũng
là một cuộc chiến tranh nhân dân, bởi có sự kết hợp bền chặt giữa một bên là
triều Trần và một bên là nhân dân yêu nước. Trong thắng lợi to lớn của cuộc
đấu tranh đó có đóng góp không nhỏ của quân dân Thanh Hóa. Nhờ sự hi
sinh, tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân và dân Thanh Hóa đã cùng với
nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần làm nên thắng lợi
vang dội. Thắng lợi đó ghi vào lịch sử dân tộc như những trang chói lọi nhất.
Trong cuộc khánh chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba, danh
tướng xứ Thanh có công lao đặc biệt to lớn, đó là Đỗ Hành.
34
Đỗ Hành năm sinh và năm mất không rõ, tài liệu Gia phả cho biết ông
thuộc dòng dõi Đỗ Cảnh Thạc - một trong 12 sứ quân, đóng ở Đỗ Động Giang
(Thanh Oai - Hà Nội). Quê gốc dòng họ Đỗ này ở Hải Dương. Đầu thế kỷ
XIII một chi họ Đỗ đã dời đến cư trú tại làng Ngọc Mỹ nay là Nhân Ngọc -
Hoằng Ngọc, Hoằng Hoá, Thanh Hoá.
Tại nhà thờ chi họ Đỗ ở làng Lương Hà nay là thôn Đại Long xã Hoằng
Thanh (Hoằng Hoá), các cụ cao niên còn nhớ đôi câu đối ghi:
洋 義 侯 世 德 明 來 家 祥 長 發
“Dương nghĩa hầu thế đức minh lai, gia tường trường phát.
杜 德 性 家 姜 天 錫 福 履 永 綏
Đỗ Đức tính gia khương, thiên tích, phúc lý vĩnh tuy”.
Đây là đôi câu đối nói về chi họ Đỗ Hành ở Nhân Ngọc (Hoằng Ngọc).
Làng Ngọc Mỹ, thế kỉ XIII ở cạnh sông Cung, một con sông như hình cánh
cung do thuỷ triều lên xuống ở 2 cửa Lạch Trường và Lạch Trào tổng Ngọc
Chuế mà thành. Sông Cung giao thoa với hạ lưu sông Mã, nơi giao thủy ở
khúc giữa thuộc làng Ngọc Mỹ. Bởi vậy, sông Cung là vùng nước lợ có nhiều
thuỷ tức sinh sống và cũng từ đó mà làng Ngọc Mỹ hình thành nghề khai thác
thủy tức từ rất sớm.
Sinh trưởng trong gia đình nghèo, bố mất sớm, Đỗ Hành làm nghề đánh
giắt, bắt cua, lạch tại sông Cung. Chính trong hoàn cảnh sống đó, tài năng bơi
lội của ông được phát triển.
Lớn lên ông đi kiếm sống ở Hải Dương và được tuyển vào làm gia nô
của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp.
Là người có sức khoẻ, lại có tài bơi lặn nên ông đã được Trần Hưng Đạo
cho vào đội thuỷ binh cùng với Yết Kiêu, Dã Tượng, những gia nô đương
thời.
35
Sau đó ông được sung vào đội quân túc vệ hầu vua Trần tại kinh đô
Thăng Long trong thời kì kháng chiến chống quân Nguyên.
Ông được vua Trần tin dùng và đã phát huy được tài năng giữ gìn an
ninh ở nội cung, bảo vệ vua một cách an toàn.
Sau hai lần xâm lược Đại Việt không thành, kẻ địch vô cùng tức giận và
nhục nhã. Chúng lại tiếp tục cuộc tiến đánh lần thứ ba từ giữa tháng 11 năm
Đinh Hợi (1287).
Dưới sự chỉ huy tài giỏi của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, vua
tôi nhà Trần chuẩn bị sẵn sàng đón đánh quân Nguyên với tư thế chủ động, tự
tin sẽ thắng giặc như Hưng Đạo Vương trả lời vua Trần Nhân Tông “năm nay
đánh giặc nhàn”. Khi hai cánh quân thủy, bộ của giặc kéo đến chúng đã bị
chặn đánh ở nhiều nơi. Lần này thuỷ quân của giặc rất mạnh do Thoát Hoan,
Ô Mã Nhi và một số tướng lĩnh nổi tiếng chỉ huy, chúng hội quân ở Vạn Kiếp
đông tới 30 vạn. Nhưng khi thuyền vận tải lương thực và khí giới của chúng
bị quân ta do Trần Khánh Dư chỉ huy đánh bại tại Vân Đồn (Quảng Ninh)
“bắt được quân lương, khí giới của giặc nhiều không kể xiết tù binh cũng rất
nhiều”. Thảm bại đó buộc quân Nguyên phải rút lui. Trần Hưng Đạo dự đoán:
chắc chắn binh thuyền của chúng sẽ qua cửa Bạch Đằng, vì thế như Đại Việt
sử ký toàn thư cho biết: “Trước đó Vương đã đóng cọc ở cửa sông Bạch Đằng
phủ cỏ lên trên” và trận giao chiến lớn nhất trong lần kháng chiến thứ ba của
quân dân Đại Việt chống quân xâm lược Nguyên Mông, có sự tham gia của
Đỗ Hành, diễn ra ngày 8 tháng ba năm Mậu Tý (1288): “Hôm ấy, nhân lúc
nước triều lên, Vương cho quân khiêu chiến và giả cách thua chạy, bọn giặc
đuổi theo, quân ta cố sức đánh lại. Nước triều xuống, thuyền giặc vướng cọc
hết Hai vua (tức Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông) đem quân tiếp đến,
quân Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu cả
Bắt được 400 thuyền. Nội Minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ
36
Cơ Vương dâng lên Thượng Hoàng”. Lập tức, một cảnh tượng hiếm thấy diễn
ra giữa người chiến thắng và kẻ chiến bại bị bắt làm tù binh. “Thượng hoàng
sai dẫn (Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Vương) lên thuyền ngự, cùng ngồi nói
chuyện với chúng và uống rượu vui vẻ”[25, tr.62]
Đỗ Hành lập một chiến công lẫy lừng bắt sống những viên tướng nắm
quyền chỉ huy đại quân Nguyên Mông, thiện chíên, võ nghệ cao cường. Vua
Trần Nhân Tông cho đem các tướng giặc bị bắt cùng các vạn hộ, thiên hộ làm
lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng.
Trong không khí ca khúc khải hoàn, vua Trần phong tước cho nhiều
công thần trong đó Đỗ Hành được phong tước Quan nội hầu, thấp hơn tầm
vóc chiến công mà Đỗ Hành giành được, vì khi bắt được Ô Mã Nhi không
dâng lên nhà vua mà dâng lên Thượng hoàng.
Cao tuổi, Đỗ Hành được hưu quan và mất ở quê nhà, mộ ông táng tại
cồn Mả Nghè, thôn Nhân Ngọc. Giỗ ông vào ngày 17/2 âm lịch. Nhà thờ
ông được xây dựng khang trang từ thời Lê có đủ long ngai, đối trướng,
gươm dàn, giáo dựng, có bia đá, bát hương đá nhưng một lần thắp hương
vào ban đêm, các đồ thờ bị cháy âm ĩ. Đến sáng thì chỉ còn một chiếc kiệu
Long đình, sau dòng họ đem cung tiến cho đền thời đức Thánh cả Đại
Giang (nay thuộc xã Hoằng Tiến).
Rất tiếc là sử liệu về Đỗ Hành không có nhiều. Nhưng chiến công mà
ông lập được đã trở thành một chiến tích kỳ diệu trong lịch sử chống ngoại
xâm của dân tộc ta, góp phần nâng cao thêm tầm oanh liệt, rạng rỡ của
chiến công mà quân dân Đại Việt giành được trong cuộc kháng chiến chống
cuộc xâm lược của đế chế Mông - Nguyên hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ.
Tên ông đã được đặt cho một đường phố ở Hà Nội và Thanh Hoá.
37
2.4. Nhân dân Thanh Hóa kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm
lược
2.4.1. Quá trình chuẩn bị, xây dựng lực lượng tại Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh có sông núi lớn bao bọc hai đầu, đồng bằng ở
giữa rộng lớn, phì nhiêu, dân cư đông đúc. Trải qua bao thời đại, Thanh Hóa
luôn là hậu phương, điểm tựa cho các phong trào đấu tranh giành và bảo vệ
độc lập dân tộc. Vùng địa bàn chiến lược Thanh Hóa từng góp phần cho các
triều Ngô, Đinh, TiềnLê làm nên cơ nghiệp và đặc biệt, Thanh Hoá đã được
sự quan tâm chú ý của vua Trần trong kế sách đánh giặc, giữ nước.
Năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý, trên cơ sở kế thừa và nâng cao
những thành quả của vương triều Lý trước đó, triều Trần đã tiếp tục củng cố
chế độ trung ương tập quyền và quốc gia thống nhất. Về chính trị, triều Trần
xây dựng bộ máy hành chính từ Trung ương xuống đến các địa phương chặt
chẽ, vững vàng, năng động, đưa đất nước vào thế thống nhất ổn định sau thời
gian dài rối loạn , khủng hoảng của nhà Lý. Ở Thanh Hóa, nhà Trần đặt các
chức An phủ, Trấn phủ, hai viên Chánh phó để cai trị. Đặc biệt hơn, năm
1234, vua Trần đã cử Trần Thủ Độ - một nhà chính trị xuất sắc, người có
công sáng lập và củng cố vương triều Trần giữ chức “Thống quốc Thái sư Tri
Thanh Hóa phủ sự” [25, tr. 12-15] và năm 1238 “duyệt số đinh Thanh Hóa”.
Về kinh tế, nhà Trần đã thực thi nhiều biện pháp tiến bộ để phát triển kinh tế
như mở mang phát triển thủ công nghiệp, xây dựng mạng lưới thương nghiệp
với các hệ thống chợ búa, cảng sông, cảng biển. xây dựng đê điều, nạo vét
mương máng, tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước. Đặc biệt, quy định
chặt chẽ các hình thức ruộng đất từ ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước đến
ruộng đất tư nhân (bao gồm cả các thái ấp - đất phong điền trang cho quý tộc
Trần, ruộng đất tư hữu của địa chủ, tiểu nông tư hữu). Riêng về chế độ điền
trang thì vào “mùa đông tháng 10 năm 1226, xuống chiếu cho Vương hầu,
38
công chúa, phò mã, cung tần, chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp
làm nô tì để khai khẩn ruộng bỏ hoang, lập thành điền trang” [25, tr.36]. Cũng
vào thời gian này, Trần Nhật Duật được phong làm Chiêu Văn vương và sau
đó được lập điền trang ở vùng phía Nam Thanh Hóa và Tĩnh Quốc đại vương
Trần Quốc Khang ở Diễn Châu (Nghệ An).
Trần Nhật Duật đã chọn vùng sông Lý, núi Ngọc thuộc hương Ngọc Sơn
(xã Văn Trinh xưa) để xây dựng phủ đệ theo quy định “kiến ấp phong vương”
của nhà Trần. Hương Ngọc Sơn là vùng đất được bao bọc bởi bốn con sông:
Sông Lăng ở phía Bắc, sông Hoàng (còn gọi là sông Vạy) ở phía Tây, sông
Yên (thượng lưu sông Ghép) ở phía Nam và sông Lý ở phía Đông. Núi Ngọc
Sơn nằm ở giữa. Vị trí này, núi không cao nhưng dài tựa trường thành. Dựng
đồn canh trên đỉnh có thể quan sát đường thượng đạo, hạ đạo và hải đạo. Cách
núi này về phía Đông Nam lại có dãy núi Hiệp Thạch (còn gọi là núi Chẹt) là
một cửa đi đường bộ hiểm trở. Sông Lý tuy không sâu rộng nhưng là đường
thủy huyết mạch vào Nam ra Bắc. Có thể khẳng định hương Ngọc Sơn là một
vùng có vị trí quân sự hết sức thuận lợi.
Từ những sự kiện nêu trên cho thấy, triều Trần đã có những bước chuẩn
bị cần thiết về địa bàn chiến lược cũng như nhân tài, vật lực và định ra
phương hướng chiến lược, sách lược cho một cuộc kháng chiến lâu dài chống
lại một kẻ thù thiện chiến và hung hãn nhất đương thời đang đến gần.
Trong thế kỷ XIII, quốc gia Đại Việt dưới sự trị vì của triều Trần phải
đương đầu với họa xâm lược của đế quốc Nguyên Mông. Từ 1258 - 1288,
triều Trần đã ba lần chống lại sự xâm lược của quân Nguyên - Mông, lần thứ
nhất vào năm 1258, lần hai vào năm 1285 và lần ba vào năm 1288. Trong ba
lần kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược của triều Trần thì lần một và
lần ba địa bàn Thanh Hóa là một hậu phương vững chắc, nơi cung cấp sức
người, sức của và là căn cứ quân sự để củng cố lực lượng của quân triều đình.
39
Lần hai, địa bàn Thanh Hóa trở thành chiến trường ác liệt trong cuộc chiến
chống xâm lược của quân Nguyên Mông. Cùng với nhân dân cả nước, nhân
dân Thanh Hóa đã tích cực chuẩn bị lược lượng, sắm sửa vũ khí, sẳn sàng
trong tư thế quyết chiến, quyết thắng.
Với khí thế và tinh thần chống giặc khẩn trương của quân dân Đại Việt,
tháng 12 năm Giáp Thân (tháng 1 - 1285), Thượng hoàng Trần Thánh Tông
đã triệu tập phụ lão trong cả nước về kinh đô Thăng Long, đặt tiệc ở thềm
điện Diên Hồng hỏi kế đánh giặc. Quê hương Thanh Hóa có nhiều bô lão
được vinh dự tham gia hội nghị Diên Hồng lịch sử. Theo nguồn tài liệu gia
phả được biết, ở Thanh Hóa có Chu Văn Lương (người làng Nam Ngạn,
Thành phố Thanh Hóa), Mai Phúc Trường, người làng Dầu (nay thuộc xã
Quang Lộc, huyện Hậu Lộc) tham dự Hội nghị Diên Hồng. Tinh thần quyết
chiến của hội nghị Diên Hồng đã thông qua các bậc phụ lão về với nhân dân
Thanh Hóa. Khắp nơi trên địa bàn đã tổ chức các đội dân binh sẵn sàng chiến
đấu và phối hợp cùng với quân triều đình đánh giặc, thực hiện lệnh của vua
Trần: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến phải liều chết
mà đánh, nếu sức không địch nỗi thì cho phép lẫn tránh vào rừng núi, không
được đầu hàng” [23, tr. 202].
Các đội quân chống giặc đã được tập hợp và luyện tập hăng hái như:
Chu Văn Lương đã tập hợp một đội quân gồm những trai tráng khỏe mạnh,
thạo nghề sông nước tập luyện hăng say, lên đường ra bắc phối hợp với quân
đội triều Trần đánh giặc giữ nước. Mai Phúc Trường ở làng Dầu, Đại toát Lê
Mạnh ở hương Yên Duyên (Quảng Xương) đã tổ chức dân binh ở Hương,
Giáp luyện tập võ nghệ, tích trữ lương thảo sẵn sàng chống giặc.
Từ những cứ liệu trên cho thấy, cùng với quá trình chuẩn bị chống giặc
chung của cả nước, trên địa bàn Thanh Hóa việc chuẩn bị nhân tài, vật lực,
căn cứ cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông diễn ra rất sôi nổi, khẩn
40
trương. Đồng thời cũng thấy được tinh thần yêu nước, ý chí bảo vệ dân tộc
của dân nhân Thanh Hóa hết sức sục sôi.
2.4.2. Nhân dân Thanh Hóa trực tiếp tổ chức kháng chiến chống
Nguyên -Mông xâm lược lần thứ hai (1285)
Nhìn lại lịch sử thế kỷ XIII cho thấy, trong vòng 30 năm (1258 - 1288),
đế quốc Nguyên - Mông đã ba lần đưa quân sang xâm lược Đại Việt. Triều
Trần cùng với nhân dân cả nước đã đoàn kết, quyết tâm đến cùng chống giặc
giữ nước. Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông đó thì cuộc
kháng chiến lần thứ hai diễn ra vào năm 1285 là cuộc kháng chiến quyết liệt
và đầy thử thách nhất.
Ngày 24 tháng 8 năm 1284, 50 vạn quân xâm lược của nhà Nguyên do
Thoát Hoan chỉ huy tiến vào nước ta theo hai hướng: Phía Bắc từ Trung Quốc
tràn xuống, phía Nam từ Chiêm Thành đánh ra. Để đảm bảo chắc thắng cho
cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai, ngoài việc sử dụng đạo quân chủ yếu
gồm 40 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy tiến đánh từ phía Bắc xuống, năm
1282, nhà Nguyên còn tổ chức thêm một đạo quân khác do Toa Đô chỉ huy
đem 10 vạn quân từ Quảng Châu đi hải đạo sang đánh Chiêm Thành, làm
cánh quân vu hồi chiến lược đánh thốc từ phía Nam lên, hình thành thế trận
“hai gọng kìm” hòng kẹp chặt quân đội nhà Trần vào giữa để tiêu diệt. Để
thực hiện kế hoạch “hai gọng kìm” Toa Đô dẫn quân vượt biển sang xâm lược
Chiêm Thành, rồi từ đó củng cố lực lượng, tích lũy thêm lương thảolàm
bàn đạp tiến đánh Đại Việt từ phía Nam. Song ý đồ đó đã không đạt được, khi
quân và dân Chiêm Thành chiếm giữ được những đường hiểm yếu chống trả
quyết liệt, buộc chúng phải chuyển thực hiện mục đích chính làm đạo quân vu
hồi từ phía Nam tiến đánh Đại Việt trong điều kiện lương thảo dự trữ không
được bổ sung, lực lượng cũng bị tổn thất sau các cuộc giao chiến với quân
nước Chiêm. Từ Quảng Bình, Toa Đô kéo quân ra kết hợp với quân tiếp viện
41
của Ô Mã Nhi từ ngoài biển tiến vào đánh chiếm Nghệ An. Ý định nhanh
chóng chiếm Nghệ An không xong, Toa Đô kéo quân ra Thanh Hóa. Nhằm
tránh sức mạnh ban đầu của địch và thực hiện kế “thanh dã” nhân dân và toàn
bộ tôn thất nhà Trần trong thành Thăng Long đã dược lệnh sơ tán. Khi đại
quân của Thoát Hoan tiến vào nội địa đã gặp phải sự chống trả quyết liệt của
quân và dân ta.
Ở Thanh Hóa, vua Trần đã cử Thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện
đóng giữ, chặn đánh quân Nguyên Mông do Toa Đô chỉ huy từ phía Nam ra.
Và cũng chính trong thời khắc lịch sử này vua Trần Thánh Tông đã tuyên bố:
“Cối Kê cựu sự quân tu kí, Hoan Ái do tồn thập vạn binh” (Cối Kê chuyện cũ
người nên nhớ, Hoan Ái còn kia chục vạn quân), nghĩa là vùng đất Thanh -
Nghệ đã trở thành vùng đất chiến lược quan trọng trong kế sách chống giặc,
giữ nước của các vua nhà Trần.
Ngược dòng lịch sử về lại với thời kỳ chống giặc Nguyên - Mông của
quân dân triều Trần chúng ta biết được, mặc dù phải đương đầu với một thế
lực giặc mạnh, lực lượng chiến đấu chênh lệch nhiều, nhiều vùng biên cương
phía Bắc của Tổ quốc lần lượt rơi vào tay quân thù. Nhưng niềm tin sắt đá
vào sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc quân và dân - vua tôi nhà Trần vẫn
kiên cường chống giặc. Điều này được thể hiện qua câu nói của Trần Hưng
Đạo “Xin bệ hạ chém đầu thần trước rồi sẽ đầu hàng”, Trần Bình Trọng “Ta
thà làm làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” [25, tr. 51].
Hòa vào tinh thần đấu tranh chống giặc chung của cả nước, cuộc chiến
đấu chống giặc của quân dân Thanh Hóa cũng diễn ra hết sức sôi nổi và mạnh
mẽ và kiên cường.
Theo sử sách, nhiều trận đánh lớn đã diễn ra trên đất Thanh Hóa:
- Thứ nhất: Cuộc chiến đấu của nhân dân hương Yên Duyên (nay thuộc
huyện Quảng Xương).
42
Khi quân của Toa Đô tiến vào đến Thanh Hóa đã gặp phải sự kháng cự
mạnh mẽ của nhân dân Thanh Hóa và quân đội triều đình. Đặc biệt, nhân dân
hương Yên Duyên đã tiến hành tổ chức đánh giặc ngay khi chúng đặt chân lên
quê hương. Sự kiện lịch sử này được Văn bia chùa Hưng Phúc ghi lại:
“khoảng năm Thiệu Bảo (1279 - 1285), quân giặc Hồ (quân Nguyên) tiến
xuống phía Nam, Hữu tướng giặc là Toa Đô chỉnh đốn quân ngũ tiến theo
đường biển. Quân giặc đi tắt đường Cổ Khê dẫn vào trong hương (Yên
Duyên), ông Lê Công (tức Lê Mạnh) đốc xuất mọi người trong hương ra
phòng ngự ở bến Cổ Bút đánh nhau với quân giặc. Quân giặc bị đánh hầu như
không còn đường rút chạy. Ngặt vì trong hương có kẻ gian giảo đầu hàng giặc
nhân đó dẫn đường cho giặc, cho nên tất cả nhà cửa, của cải đều bị đốt phá,
cướp bóc. Bởi thế công việc không thành. Kịp khi quân giặc rút lui nhà vua
xuống chiếu bắt kẻ phản bội trị tội, bắt phải bồi thường của cải trong hương
cho ông, để làm điều khuyến khích cho những người trung thành và chăm chỉ
đánh giặc, thực là nhờ công của ông vậy” [7, tr. 64].
Theo những ghi chép trên bia Hưng Phúc cuộc chiến chống Nguyên -
Mông của nhân dân Thanh Hóa như đang diễn ra cùng với sự giúp sức của
quân đội triều Trần thời bấy giờ. Toa Đô sau khi chiếm được Nghệ An, tiến
đánh Thanh Hóa nhưng thuyền binh không dám đi thẳng thủy đạo Kênh Than,
sợ quân Trần chặn đường phục kích, mà theo hải đạo vào Cổ Khê. Tại đây, Đại
toát Lê Mạnh đem hương binh phục kích một trận, quân Nguyên thua, Toa Đô
rút chạy ra biển. Cũng lúc này, Hưng Đạo vương đã kịp thời tăng cường chi
viện cho các đạo quân ở Thanh Hóa và kiên quyết giữ vững Thanh Hóa. Các
tướng lĩnh, vương hầu kiệt xuất đã được triều đình điều động vào Thanh Hóa
như: Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, Văn Túc vương Trần Đạo Tái,
Chiêu Hiếu vương Trần Học, Chương Hiến hầu Trần Kiệntrấn giữ các huyện
miền biển và vùng phụ cận (nay thuộc các huyện Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Nga
43
Sơn, Hà Trung, Vĩnh Lộc)Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang thất thủ Nghệ
An, lui giữ vùng đất giáp ranh từ khe Nước Lạnh (Lãnh Thuỷ) đến sông Lạch
Bạng (nay thuộc huyện Tĩnh Gia), Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật phòng thủ
các hương Yên Duyên, Ngọc Sơn, huyện Vĩnh Xương (nay thuộc huyện
Quảng Xương).
Quân Toa Đô bị nhân dân hương Yên Duyên đánh bật ra biển, nhưng
tướng Giảo Kỳ đã lọt vào Lễ Môn, đánh phá vùng Đông Sơn, Hoằng Hóa.
Đội quân Toa Đô từ đường biển tìm đường đánh vào đông bắc Thanh Hóa để
phối hợp với Giảo Kỳ, tạo thành gọng kìm hòng bóp nát quân Trần. Hoảng sợ
trước sức mạnh của kẻ thù, Trần Kiện hoang mang sợ hãi đầu hàng Toa Đô.
Tháng hai, ngày giáp thìn mồng 1 (8-3-1258) con thứ của Tĩnh Quốc Đại
vương Quốc Khang là Thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện và liêu thuộc
là bọn Lê Trắc đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên” [25, tr. 51].
Từ cuộc đấu tranh trên cho thấy, cuộc đấu tranh chống giặc của nhân dân
hương Yên Duyên diễn ra hết sức sôi nổi, quyết liệt. Thể hiện rõ ý chí quyết
tâm bảo vệ quê hương và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Từng tên xóm, tên
làng đã ghi dấu tích chiến công với những con người quả cảm góp sức cùng
triều Trần chống lại cuộc tấn công của quân Nguyên - Mông.
- Thứ hai: Trận đánh trên sông Bố Vệ.
Vệ Bố kinh hay còn gọi là kênh Bố Vệ, là con kênh đào nối sông Hải
Hán từ làng Bảng Nguyên (Đông Lĩnh, Đông Sơn) qua Đông Khối, làng
Vinh, Đông Sơn xuống gặp sông Hoàng ở Mỹ Cảnh. Kênh Bố Vệ được khởi
đầu từ khu vực Mật Sơn. Từ đây có thể xuôi sông Hải Hán ra cửa Lễ Môn
hoặc theo sông Bồn xuống gặp sông Hoàng. Như vậy khu vực kênh Bố Vệ
phần lớn thuộc phạm vi thành phố Thanh Hóa ngày nay.
Sau khi Trần Kiện đầu hàng quân Nguyên, Giảo Kỳ muốn đánh chiếm
thủ phủ Ngọc Sơn, nhưng khi vừa mới đưa quân đến kênh Bố Vệ Giảo Kỳ đã
44
vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân đội triều đình do Trần Nhật Duật bố
phòng. Hai bên giáp chiến ác liệt, quân đội triều đình bị tổn thất lớn, hai
tướng Đinh Xa và Nguyễn Tất Thống hi sinh nhưng vẫn không ngăn cản được
bước tiến của quân địch. Trước thế giặc mạnh, Trần Nhật Duật phải tạm thời
tổ chức rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị cho những trận
đánh cản địch tiếp theo.
Để ngăn cản sự phối hợp giữa hai đội quân của Thoát Hoan và Toa Đô và
tránh bị kìm kẹp giữa hai gọng kìm trong âm mưu của địch, vua Trần và Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quyết định cử Thượng tướng Trần Quang Khải
tăng cường lực lượng cho mặt trận phía Nam. Để đối phó với chiến sự đang
diễn ra ác liệt ở phía Nam Thanh Hóa, đồng thời tăng cường lực lượng cho
Trần Nhật Duật và sau khi quân Toa Đô đã tràn qua kênh Bố Vệ, Trần Quang
Khải quyết định lập tuyến phòng thủ ở Phú Tân để cản giặc.
Phú Tân là một địa điểm trọng yếu của khu vực sông Nga từ ngã ba Lèn
đến cửa Bạch Câu (nay thuộc các xã Hà Toại - Hà Trung; Nga Lĩnh đến Nga
Bạch - Nga Sơn; Quang Lộc, Liên Lộc - Hậu Lộc). Khu vực này có địa thế tự
nhiên rất thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở phòng thủ chặn giặc bởi vì: “Hai
bờ sông đều là núi, qua bến Đại Lý (Lèn) thì có vụng Chiếu Bạch chảy vào,
chuyển sang phía đông, bên tả có huyện Nga Sơn, bên hữu có huyện Hậu Lộc,
nước chảy vòng quanh ven núi rồi đổ ra cửa biển Bạch Câu” [44, tr. 236]. Khi
sông Nga chảy đến khu vực Hà Toại (phía bắc), Quang Lộc (phía nam), tạo
thành một vũng nước sâu xoáy, vì thế nhân dân gọi là Vũng Chế. Ngày nay ở
xã Hà Toại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thanh_hoa_trong_cuoc_chong_nguyen_mong_va_chong_chi.pdf