Hóa thân vào cảnh ngộchịKhóa, Á Nam diễn tả được một cách tinh tếdiễn
biến tâm trạng chịtừlúc tiễn đưa anh ra đến bến tàu., tàu kéo còi., tàu nổmáy.,
rồi tàu chạy, kẻ ởngười đi. Nhớthương, buồn tủi, lưu luyến, xót xa,. Có giọt lệ
chạy quanh, có cảnh “ngậm ngùi mà đứng trông nhau”, có cái giật mình thảng thốt
của chịKhóa khi nghe tiếng còi tàu. Rồi con tàu chạy, chịKhóa đứng trông theo,
lòng tan nát. Không chỉlà tâm trạng cảm thông với khách thểtrữtình, ở đây chủthể
trữtình đã hòa với khách thể, nỗi đau của khách thểcũng là chính nỗi đau đứt ruột
của chủthể. Có điều, đứt ruột vì một nỗi niềm lớn lao hơn: Nỗi niềm về đất nước
99 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1989 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thế giới nghệ thuật thơ á nam Trần Tuấn Khải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không tránh được nào
Hoàng oanh, mi nghĩ làm sao?”
Ở một bài khác, bộ mặt xấu xa của những kẻ Việt gian bán nước lại được ví với
con mèo:
“Đã thua chó ngựa lòng trung nghĩa
Còn học sói hùm lối ngoắt ngoeo
Rõ chuột không hay, hay đánh vụng
Giờ hồn!!! Không nữa chết cò queo”.
(“Con mèo”)
Giọng đả kích của Á Nam ở bài này đạt đến mức cay độc.
Cũng vẫn giọng ngụ ngôn như thế, bài “Chuột tranh ăn” lại nói đến cảnh “Bóc
lột lẫn nhau quen thói chuột” – nhằm vào những kẻ chuyên sống trên mồ hôi nước
mắt của chính nhân dân mình, không biết rằng mình cũng chỉ là quân cờ trong tay kẻ
khác. Á Nam mắng chúng:
“Liệu hồn! Mèo nó vẫn rình kìa.”
41
Ở nông thôn xưa người ta thường làm bù nhìn rơm đóng giả người đứng ở bờ
ruộng để xua đuổi chim chóc phá hoại hoa màu. Từ “bù nhìn” vì thế được dùng
theo nghĩa bóng, ám chỉ những kẻ tay sai cho giặc. Á Nam Trần Tuấn Khải có bài
“Mắng bù nhìn” mỉa mai cái bộ dạng thảm hại, cái tư cách hèn hạ của chúng và
cảnh tỉnh:
“Nữa một mai mưa gió tan tành,
Giống vô ích yên lành sao được mãi?
Đời như thế phỏng khôn hay dại?
Kiếp đười ươi nghĩ lại thử xem sao?
Ăn không, ai có ưa nào!”
Có lúc, giọng Á Nam như khuyên nhủ, thức tỉnh kẻ lầm đường lạc lối trở về
với chính nghĩa:
“Thôi, về gánh nước anh thuê;
Đừng đi bán nước mà rê rếu đời:
Hỡi cô hàng nước kia ơi!!!”
(“Hỡi cô bán nước”)
Giọng điệu bài “Xem hội Tây” của Á Nam lại mang màu sắc khác: Châm biếm
mà đau đớn ra nước mắt, giống như bài “Hội Tây” của Nguyễn Khuyến:
“Nô nức đua nhau hội với hè
Văn minh Nam Việt tiến mau ghê!
Nhảy đầm ăn tiệc ông Tây sướng
Liếm chảo, leo đu, đứa trẻ mê.
Giời nắng, lợi riêng phường bán nước
Bụi lầm, khổ chết lũ buôn xe.
Anh mù nỏ biết trò chi cả
Cứ bập bùng bung, cứ cò ke...”
Châm biếm, đả kích kẻ thù một cách kín đáo, gián tiếp là tất yếu để tránh sự
kiểm duyệt của thực dân Pháp, đó là xu thế chung của văn học hợp pháp yêu nước.
Điều này khiến cho bút pháp đả kích của Trần Tuấn Khải khác với Tú Xương giai
42
đoạn trước và khác với văn học cách mạng (bất hợp pháp) của Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh... đầu thế kỷ XX. Cũng phải thấy rằng ngòi bút đả kích của Á Nam tuy
nhiều khi rất sắc nhọn, nhưng chủ yếu nhằm vào bè lũ tay sai ôm chân đế quốc, còn
kẻ thù chính của dân tộc thì ít được đề cập đến. Có lẽ đó cũng là phần hạn chế của
thơ Á Nam. Tuy nhiên qua những gì đã ghi nhận được về phương diện này trong thơ
ông, đặt trong hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh cá nhân cụ thể, chúng ta thấy được tấm
lòng đáng quý của nhà thơ đối với đất nước.
c) Bồn chồn, tha thiết với khát vọng về đất nước, dân tộc
Đau xót trước hiện tình đất nước và có phần bất lực nhưng nhìn chung hình
tượng cái tôi trữ tình trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải không rơi vào bi lụy mà luôn
biết hướng tới tương lai. Một số bài thơ thể hiện khát vọng canh tân đất nước bằng
con đường học thuật văn chương, nhưng về cơ bản, bao trùm cả sự nghiệp sáng tác
của Á Nam vẫn là khái niệm độc lập tự do cho dân tộc. Khát vọng ấy trước hết biểu
hiện niềm khao khát, mong mỏi bồn chồn “Hỏi vừng đông đến bao giờ” (“Đêm đi
tìm bạn”). Nhiều khi niềm mong mỏi ấy được gửi gắm kín đáo vào tâm trạng chị
Khóa mong anh Khóa, những người vợ khác mong chồng... Mong mỏi bao giờ cũng
gắn với niềm tin, điều đó cho thấy chất lạc quan một phẩm chất đẹp toát lên từ hình
tượng chủ thể. Trăn trở, đau xót trước cảnh nước mất nhà tan, có lúc Á Nam như tự
động viên, an ủi mình:
“Nữa mai con tạo xoay vần
Còn xuân, ta lại gặp xuân lo gì?”
(“Xem hoa nhớ người”)
Trong “Nỗi chị khuyên em”, vấn đề tồn vong của dân tộc được coi là trách
nhiệm của mỗi người:
“Này hỡi em ơi! Giời còn đây, nòi giống vẫn còn đây
Còn em, còn chị, cũng còn ngày ta được vẻ vang
Xếp phấn son ta xung đột chốn nhung trường
Moi gan quân tàn bạo để làm gương cho bọn đàn bà...”
43
Niềm tin vào tương lai độc lập dân tộc như thế trở đi trở lại trong nhiều bài thơ,
gắn liền với lời kêu gọi quyết tâm hành động. Có lúc là giọng khẩu khí:
“Bể đông khi quyết ra tay tát
Lấp hết nhân gian nỗi bất bình”
(“Gửi bạn”)
Có khi lại là lời thức tỉnh tha thiết với những ai còn đắm chìm trong u mê mà
thờ ơ với vận mệnh đất nước:
“Nghe tiếng pháo ai ơi mau tỉnh lại
Kìa chúa xuân chờ đợi những ai kia
Yêu nhau, xin quyết mọi bề”
(“Nhắn xuân”)
Khi là lời thúc giục:
“Trong thiên hạ vần xoay
Mau mau cơ hội này”
(“Non sông gánh nặng”)
Con đường tranh đấu “Vì non sông cướp lại tự do quyền” đầy chông gai, thử
thách. Xác định rõ như vậy nên không chỉ kêu gọi tranh đấu, Á Nam còn kêu gọi
mọi người bền gan vững chí trên con đường khó khăn hiểm nguy ấy:
“Anh hùng càng trải cơn chìm nổi
Càng vững gan xoay há chịu đời!”
(“Thuyền đánh cá”)
Tương tự như vậy còn thấy ở nhiều bài thơ khác: “Cái thuyền”, “Lên núi Ba
Vì”, “Tổng vịnh bộ tiểu thuyết”, “Gương dâu bể”, “Chim bằng lại bay”,... Khẩu
khí bài “Chim bằng lại bay” phần nào mang dáng dấp những câu thơ “Tặng Lý
Ung” của Lý Bạch đời Đường, tuy có kém hào sảng hơn. Một số bài thơ có giọng bi
hùng, ca ngợi các anh hùng hào kiệt trong quá khứ như “Giọt lệ anh hùng”, “Tráng
sĩ hành”,...
Năm 1932, sau khi cho xuất bản cuốn sách “Chơi xuân năm Nhâm Thân”, Á
Nam Trần Tuấn Khải bị nhà cầm quyền bắt giam ít lâu. Ở trong tù, ông viết “Ngục
44
trung vịnh” bày tỏ tâm trạng buồn tủi, thất vọng về hoàn cảnh của bản thân nhưng
vẫn không nguôi hi vọng vào một ngày mai tươi sáng của dân tộc:
“Lạy trời mau rạng đêm tăm,
Mà xem thiên hạ: ai lầm, ai không?
Phải chăng, kìa cái vầng đông?”
Cũng từ đây trở đi, hình tượng cái tôi trong thơ Á Nam tỏ ra ít sinh khí hơn, nói
như nhà phê bình văn học Lữ Huy Nguyên thì đó là cái tôi “nhuốm mùi bi lụy”.
Điều đó cũng dễ hiểu vì mặc dầu có tấm lòng thiết tha yêu nước nhưng Á Nam còn
đứng ngoài các phong trào cách mạng. Cái cần ghi nhận và rất đáng trân trọng là
trong điều kiện xã hội Việt Nam phức tạp, đầy biến động đầu thế kỷ XX, có một nhà
nho tuy không trực tiếp tham gia cách mạng nhưng luôn gắn mọi nỗi buồn vui của
mình với đất nước, dân tộc.
2.2.2. Hình tượng cái tôi đạo lí
Nhiều nghiên cứu đã đánh giá cao nội dung đạo lí trong thơ Á Nam, thậm chí
Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” còn coi đó là nội dung chủ yếu bao trùm
thơ ca Á Nam. Quả thật đọc thơ Trần Tuấn Khải, chúng tôi thấy có hình tượng một
cái tôi đạo lí khá đậm nét, biểu hiện ở thái độ quan tâm chung đến vấn đề đạo lí
truyền thống và nỗi đau xót trước thực trạng suy đồi của những đạo lí ấy.
2.2.2.1. Hình tượng một cái tôi luôn quan tâm vun đắp cho đạo lí truyền
thống
Thơ Á Nam Trần Tuấn Khải nói nhiều đến tình cha con, nghĩa vợ chồng,
tình làng nghĩa nước, nghĩa đồng chủng đồng bào, lòng thủy chung nhân ái,... Đó là
nếp sống, là đạo đức truyền thống của dân tộc mà ở phần trên, khi phân tích hình
tượng cái tôi yêu nước chúng tôi đã đề cập đến phần nào. “Thiết tha với những giá
trị đạo đức truyền thống, Á Nam tìm đến ca dao để được hoàn toàn chìm vào môi
trường tinh thần của dân tộc” [22, tr. 206]. Hòa vào quần chúng lao động để nói lên
tiếng lòng quần chúng, ca dao Á Nam thể hiện cảm xúc chân chất, bình dị, trong trẻo
mà sâu sắc. Đó là những lời bộc bạch về tình nghĩa của đôi lứa yêu nhau:
“Thân hươu lẩn khuất bóng tùng
45
Biết nhau thương lấy nhau cùng ai ơi!
Quản chi non nước xa khơi
Yêu nhau góc bể chân trời có nhau”.
Ở tất cả các bài, chữ “tình” đều gắn liền với chữ “nghĩa” như thế: “Đôi ta ân
ngãi biết ngày nào quên”; “Thương nhau lặn suối qua đèo có nhau”; “Trăm năm
nghĩa nặng ân dài”; “Người ta tham cảnh phong lưu / Em đây tham lúc hiểm nghèo
có nhau”...
Tình yêu gắn với nỗi nhớ niềm đau khi xa cách:
“Vành giăng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?
Đưa nhau một bước lên đàng,
Cỏ xanh hai dẫy, mấy hàng châu sa!”
Có niềm mong mỏi khắc khoải, vời vợi trong không gian và thời gian:
“Chiều chiều em đứng em trông,
Trông non non biếc, trông sông sông dài.
Trông mây, mây kéo ngang giời,
Trông giăng giăng khuất, trông người người xa”.
Đó còn là lòng biết ơn công sinh thành của cha mẹ:
“Nặng nề chín chữ cù lao,
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”
Mở rộng ra là lòng biết ơn tông tổ sâu nặng: “Nhớ công tôn tổ sinh thành
chăng ai?”; là tình cảm thiêng liêng với non sông đất nước tươi đẹp do ông cha
muôn đời xây dựng:
“Rủ nhau thăm cảnh Kiếm Hồ,
Thăm câu Thê Húc, thăm chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai tô điểm nên non nước này?”
Trong đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”, đó là niềm tự hào về truyền thống đánh
giặc giữ nước của cha ông:
46
“Đường đi Kiếp Bạc bao xa?
Một con sông rộng, mấy tòa non cao.
Đêm đêm gươm thét sóng gào
Nhớ ai đánh đuổi quân Tầu khi xưa”.
Tình yêu quê hương đất nước trong thơ lục bát (ca dao) của Á Nam cũng như ở
ca dao dân gian, gắn liền với tình cảm gắn bó cộng đồng dân tộc. Đây là những lời
khuyên nhủ vừa giản dị chân thành, vừa đậm màu sắc triết lí lại thấp thoáng bóng
dáng thời thế:
“Chó khôn không cắn người quen,
Người khôn không hại anh em cùng loài.
Hay gì ganh sức đua hơi,
Để mang cái vạ rước voi giày mồ!”
Nhiều khía cạnh tình cảm đạo đức khác được nhà thơ tôn vinh như: tình bạn,
tình anh em, tình yêu lao động. Chung qui lại, đó là nếp sống thủy chung, ân nghĩa
đã thành cốt cách của dân tộc: “Trăm năm nghĩa nặng ân dài”, “Ở đời có thủy có
chung” dù cuộc đời có xoay vần dâu bể. Thái độ nâng niu vun đắp cho nền đạo đức
truyền thống là một nét đẹp rất đáng trân trọng ở cái tôi nghệ thuật Á Nam, nhất là
trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX “cũ mới tranh nhau”, “Á Âu xáo
lộn” đang làm những đường mối đạo đức bị lung lay.
2.2.2.2. Hình tượng cái tôi đau xót trước thực trạng đạo lý suy đồi
Nhưng Á Nam không chỉ hướng về đạo lí truyền thống như một niềm cảm
hoài. Sống trong lòng xã hội Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX đầy biến
động, phải chứng kiến hàng ngày những cảnh chướng tai gai mắt đi ngược lại thuần
phong mỹ tục, ông không khỏi xót xa. Ở bài văn tế “Chiêu hồn” (“Duyên nợ phù
sinh” – quyển thứ nhất), ông đã đau đớn thốt lên:
“Trên bảo tọa khói hương lạnh ngắt
Cửa thiên đường đạo đức vắng tanh”
Quan hệ tư bản khiến đồng tiền thành kẻ lật lọng đổi trắng thay đen. Trong tập
“Duyên nợ phù sinh”, nếu “Trách đồng bạc” như lời kết án thói bạc bẽo của đồng
47
tiền thì bài “Bạc giấy” lại là lời thanh minh cho nỗi oan khuất ấy: Đâu phải đồng
tiền bạc bẽo mà vì “nhân thế họ đen lòng”, tham vàng bỏ ngãi. Giọng thơ chua chát,
ngậm ngùi thể hiện nỗi đau của nhà thơ trước quan hệ tư bản khiến đạo đức suy đồi.
Có lúc, Á Nam vạch trần thực trạng xã hội:
“Năm người quen cũ, ba người nghiện
Mười trẻ sinh sau, chín đứa hư”
Hoặc:
“Cửa chiền đủng đỉnh vài cô thõa
Đám hát ra vào mất bác sư”
(“Cảm hoài”)
Ngay trong bộ phận ca dao của Á Nam, bên cạnh phần lớn các lời khuyên nhủ
về đạo lí với giọng đôn hậu, có những bài, những câu đậm chất thời thế với nhiều
sắc thái tình cảm khác nhau. Lúc xót xa thâm trầm thì:
“Hỏi cô hàng sách ngày xưa
Năm xe kinh sử bây giờ đáng bao?”
(“Duyên nợ phù sinh”)
Khi lại chua chát mỉa mai:
“Sáo ơi, ta bảo sáo này
Ấy ai uốn lưỡi cho mày véo von?
Bây giờ gạo trắng lồng son,
Tổ xưa, cây cũ, hỏi còn nhớ chăng?”
(“Bút quan hoài”, quyển thứ nhất)
Cũng ở phần ca dao của “Bút quan hoài”, có lúc ta thấy một Á Nam mà nỗi
đau nhân thế dồn nén đã đến lúc bùng phá:
“Bực mình muốn phá cung trăng
Muốn vo quả đất ném phăng cho rồi
Đa mang chi lắm chuyện đời,
Biết bao nhiêu lại ngậm ngùi bấy nhiêu.”
Nhưng cái tôi Á Nam là cái tôi bất lực. Nỗi niềm thời thế ở ông có nặng nề bao
48
nhiêu thì cũng khó lòng được giải tỏa. Ông cũng không thể giải tỏa nó bằng cái
“ngông” như Tản Đà. Bởi vậy nỗi đau dồn nén trong ông thành một bệnh. Trong bài
“Bệnh trung tác” (“Bút quan hoài”), Á Nam viết:
“Nóng lạnh xoay chi lắm nỗi phiền?
Luống thân hồ hải cảm bao phen!
Mắt lòe thế sự trông nhường chán,
Óc choáng nhân tình nghĩ chẳng yên.”
Đôi khi Trần Tuấn Khải như muốn buông xuôi, trốn đời, tìm đến “thú lâm
tuyền”, “thú làm vườn” để “chẳng lụy chi ai cũng chẳng cầu” (Các bài: “Ở nhà
quê”, “Thú lâm tuyền”, “Thăm thú làm vườn”, “Mùa xuân nhà quê”); cũng có lúc
ông mơ tưởng đến một thế giới không có thực để đối lập với thực tại (“Lên chợ
giời”). Nhưng cuối cùng chất “lụy giả” trong ông vẫn chiến thắng. Tuy bế tắc, bất
lực nhưng cái tôi trữ tình Á Nam không thoát li cõi thực. “Ông tuy chua chát với
đời, nhưng ông thật là người mến đời” [57, tr. 391]. Bởi mến đời, nên ông luôn trăn
trở với đời luôn hướng về luân lí giá trị truyền thống như một niềm mong mỏi, khát
khao thức tỉnh con người thóat khỏi u mê lầm lạc trở về cái thiện. Tình cảm đạo đức
trong thơ Trần Tuấn Khải xét về bản chất, xuất phát từ tấm lòng thiết tha yêu nước
và ý thức thách nhiệm trước đất nước, dân tộc của nhà thơ.
Như vậy, chung qui lại, quán xuyến trong cả đời thơ Á Nam là hình tượng một
cái tôi yêu nước chân thành sâu sắc, tuy có phần bất lực. Cách biểu hiện cái tôi ấy có
thể khác nhau, với nhiều giọng điệu phong phú nhưng tính khuôn khổ, mực thước là
nét chung nổi bật tạo nên bản sắc riêng của hình tượng Á Nam so với các nhà thơ
cùng thời. Mặt khác, cái nhìn nghệ thuật ngả dần về hướng ngoại: lấy thực tế khách
quan làm trung tâm cảm xúc thay cho giáo huấn đạo lí cương thường, trên nền cảm
xúc mang tính trung dung của Nho gia đã thoáng chút lay động của chủ nghĩa lãng
mạn,... là những nét tiêu biểu của hình tượng cái tôi trữ tình buổi giao thời.
Hình tượng cái tôi trữ tình nói trên chi phối sâu sắc sự hình thành không gian
và thời gian nghệ thuật, chi phối các phương thức, phương tiện trữ tình trong thơ
Trần Tuấn Khải.
49
Chương 3:
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ
Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI.
3.1. Không gian nghệ thuật
3.1.1. Không gian nghệ thuật – hình thức tồn tại chủ quan của hình tượng
Không gian nghệ thuật (cũng như thời gian nghệ thuật) là hình thức tồn tại của
thế giới nghệ thuật. Không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian.
Không có một nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó. Nhà thơ trữ tình cũng
nhìn sự vật ở một khoảng cách, một góc nhìn nhất định. Nhờ điểm nhìn đó mà
không gian có chiều cao thấp, rộng hẹp, sâu cạn, xa gần,... Tuy nhiên, khác với
không gian địa lý hay không gian vật lý, vật chất, không gian nghệ thuật là sản phẩm
sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định
về cuộc sống. Không gian nghệ thuật là không gian có tính chủ quan và tượng trưng.
Bởi vậy khó mà hiểu hết đặc điểm trong quan niệm về thế giới và con người của một
nhà thơ nếu không tìm hiểu không gian nghệ thuật trong sáng tác của nhà thơ đó.
Không gian này có mô hình như thế nào? Mô hình ấy nhằm biểu đạt quan niệm gì
của chủ thể trữ tình? Chẳng hạn cũng là không gian điểm nhưng không gian quảng
trường thì biểu đạt tính công cộng, còn không gian ngôi nhà thể hiện nơi sinh họat
riêng tư; không gian quê nhà yên ấm, an toàn; không gian tha hương lạnh lẽo nguy
hiểm;...Nàng Kiều của Nguyễn Du luôn thấy mình ở nơi góc biển chân trời, ở nơi xa
xôi cách trở. Không gian ấy có tác dụng cực tả thân phận con người bị đày ải, bơ vơ,
đơn chiếc. Con người trong thơ Tố Hữu kể từ tập Việt Bắc luôn thấy mình đi trên
con đường tràn đầy ánh sáng, hơi ấm và không khí ngày hội. Đó là con đường cách
mạng dẫn tới hạnh phúc tương lai;... Như vậy, điều quan trọng là “phải xem xét
không gian nghệ thuật như một quan niệm về thế giới và con người, như một
50
phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư
tưởng – thẩm mỹ...” [63, tr. 211].
Cùng với sự phát triển của tư duy nghệ thuật, trình độ chiếm lĩnh thế giới của
thơ cũng có nhiều thay đổi. Từ thời trung đại đến hiện đại là một quá trình hạ dần
của không gian thơ bác học, từ không gian vũ trụ cao siêu xuống không gian sinh
hoạt đời thường. Không gian nghệ thuật trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải vì thế
vừa phản ảnh tình cảm, tư tưởng nhà thơ vừa cho thấy kiểu mô hình không gian một
giai đoạn văn học giàu ý nghĩa.
3.1.2. Không gian nghệ thuật trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải
3.1.2.1. Không gian vật đổi sao dời của thời cuộc, của nhân tình thế thái
Hình tượng trữ tình trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải là cái tôi của thế sự,
tất yếu dẫn đến hình tượng không gian nghệ thuật trong thơ Á Nam cũng mang tầm
khái quát rộng lớn. Đó là không gian của “đất Việt”, “nước non”, “đường trần”,
“non sông”, “cõi đời”, “cõi giời Nam”, “cảnh đời”, “vòng nhân thế”, “kiếp trần”,
của “mây nước muôn trùng” và mở rộng phạm vi không gian là “năm châu”, là
“giời Âu bể Á”,... Mô hình không gian trong thơ Á Nam nhìn chung vẫn xây dựng
theo cách con người cảm thụ là trung tâm, với điểm nhìn “siêu cá thể” (nhìn thế giới
và con người trong hoàn cảnh thế giới) của văn học trung đại. Mặt khác, Á Nam
thiên về “gợi” hơn là “tả” không gian nên hình tượng không gian toàn vẹn trong
thơ Á Nam chủ yếu được hình dung qua những chi tiết “gợi” đó. Hình tượng
“không gian non nước” này gắn với nhiều địa danh nổi tiếng: Hồ Gươm, Cổ Loa,
Lạng Sơn thành, nhà Giám, đền Hùng Vương, Sài Sơn, núi Ngọc, phủ Chanh, Bạch
Đằng, Kiếp Bạc, hồ Tây,... Trong cuốn “Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải” có
25/184 bài thơ lấy cảm hứng từ các di tích lịch sử, các danh thắng nổi tiếng tượng
trưng cho linh hồn của non sông đất Việt. Điều này phù hợp với hình tượng cái tôi
luôn quan tâm đến những vấn đề chung của dân tộc, đất nước.
Với tấm lòng yêu nước thiết tha nhưng có phần bất lực, Á Nam gởi nỗi buồn
man mác vào cảnh vật, tạo nên một không gian mênh mông, quanh vắng, biển dịch
51
tang thương. Không gian vũ trụ với trời mây non nước đậm mầu sắc cổ điển như cái
khung nền chung của bức tranh thế giới trong thơ Á Nam:
“Trên biển Á bao la nước bạc
Cõi giời Nam man mác mây cao...”
(“Duyệt văn hữu cảm”)
“Sông Vị mênh mông ngọn nước tràn
Non Côi man mác bóng mây tan...”
(“Nhớ bạn”)
Không gian ước lệ được nhấn mạnh ở cao độ, độ rộng và sự hoang vắng rợn
ngợp. Càng rợn ngợp hơn với đêm đen, mây mù ảm đạm, gió tuyết lạnh lùng:
“Ngàn mây tía che kín non sông bao la mù mịt”, “Tuyết lạnh giời đông” (Hành vân
– “Duyên nợ phù sinh”); “con đường xa tít”; “con sông mù mịt”; “sông rộng trời
khuya” (“Gánh nước đêm”);... Con người trở nên bé nhỏ, cô độc trước không gian.
Cụ thể hơn, không gian nghệ thuật trong thơ Á Nam hiện lên như là hệ quả
của một cuộc bể dâu chuyển vận. Những gì tươi đẹp, huy hoàng của quá khứ bây giờ
chỉ còn lại dấu tích. Những danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử thành hoang
phế trước sự thờ ơ của người đời. Đền Hùng Vương, nhà Giám, Thăng Long, Cổ
Loa, Hoa Lư, thành Sơn,... là những địa danh gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ
nước, gắn liền với nền văn hiến xiết bao tự hào của dân tộc thì nay lạnh lẽo, cô
quạnh, hóa “cảnh thương tâm”. Dấu tích còn đó như những chứng nhân lịch sử gợi
về một thời hoàng kim đã qua đối lập với thực tại. Hình tượng những di tích này
hiện lên trong cảm xúc tiếc nuối xen lẫn hổ thẹn của chủ thể trữ tình, con người
nặng lòng vì đất nước. Các danh lam thắng cảnh cũng không phải đối tượng để Á
Nam ngâm vịnh, thù tạc mà để gởi gắm nỗi niềm thế sự của mình. Chùa Hương,
“Nam thiên đệ nhất động” từng được hết lời ngợi ca về cảnh đẹp của non nước hữu
tình, không khí thần tiên thanh khiết chốn cửa Phật thì với Á Nam:
“Non suối le te ròng thẳng tuột
Cửa hang tom hỏm khói đen mò
52
Chim kêu mõ niệm nghe xao xác
Kẻ đứng người quỳ bóng nhấp nhô”
(“Vào chùa Hương”)
Cảnh hóa trần tục tang thương đến trớ trêu.
Động Tam Thanh, danh thắng của thành Lạng Sơn không được nhắc tới như
một vẻ đẹp kỳ thú mà là một chứng tích của cuộc xoay vần dâu bể:
“Hưng vong hoa chán cười anh Mạc,
Tang hải xuân buồn khóc chị Tô”
(“Đề động Tam Thanh”)
Không gian hiện tại trở thành một “không gian xa lạ” với con người, thường
gợi niềm cảm hoài về quá khứ: “Lối ngựa đường xe khác dấu xưa” (“Cảm hoài”);
“Lối cũ trông về dạ ngẩn ngơ!” (“Qua chốn ở cũ”); “Viện cũ xuân về cảnh vắng
tanh” (“Xuân nữ thán”),... Tất cả thể hiện sự bất hòa sâu sắc với thực tại của Á
Nam.
Với một cách thể hiện khác, Á Nam xây dựng một không gian tha hương thực
sự để giãi bày tâm trạng. Đó là một đêm xuân mưa nơi đất khách (“Đất khách đêm
xuân mưa”), là không gian tha hương của anh Khóa: “Trông bốn phương non nước
những mông mênh / Giời Âu bể Á, một chiếc thuyền tình anh biết ghé nơi nao?”
(“Gửi thư cho anh Khóa”). Không gian tha hương với tính chất lạnh lẽo, xa lạ vẫn
thống nhất với cảm thức về không gian hiện tại nói trên, đồng thời có giá trị nhấn
mạnh thêm cảm thức ấy. Nước mất nhà tan và con người trở nên xa lạ ngay chính tại quê
hương mình.
3.1.2.2. Không gian lịch sử với tính chất bi tráng
Đau xót trước hiện trạng đất nước, Á Nam tìm đến đề tài lịch sử để gửi gắm
khát vọng, tạo nên một không gian lịch sử giàu ý nghĩa thẩm mỹ. Đó là không gian
xã hội trong thời điểm, giai đoạn có sự biến lớn lao đã được lưu danh sử sách, để
lại ấn tượng sâu đậm trong lòng hậu thế.
53
Nét tương đồng của không gian lịch sử này với nền cảnh chung của xã hội
Việt Nam đầu thế kỷ XX là màu sắc ảm đạm, tang thương của buổi loạn li. Vũ trụ
tối tăm mù mịt trước thảm họa diệt vong:
“Lò vũ trụ đêm mù hiu hắt...”
(“Nga quốc tam nữ cách mệnh đề từ”)
Gió, mây được nói tới là “gió thảm”, “mây sầu” của thời cuộc. Trời nước thì
bao la, man mác nỗi buồn,... Cách thể hiện này thường thấy ở thơ Á Nam, chúng tôi
đã đề cập ở phần trước. Tuy nhiên, vì nói về lịch sử, không cần phải bóng gió xa xôi
nên ở các bài thơ thuộc đề tài lịch sử, Á Nam dựng lại không gian nước mất nhà tan
bằng những nét trực tiếp, cụ thể hơn. Nghệ thuật đối lập ở từng cặp câu giúp Á Nam
chỉ bằng số câu chữ rất hạn chế vẫn dựng lên bức tranh thời cuộc có tính khái quát
cao:
“Đất Tổ làm hang nuôi hổ báo
Con Tiên lộn kiếp hóa trâu lừa...
Mất mẹ, gà con ngơ ngẩn bóng,
Gặp thì, chó dại nguẩy ngoe đuôi.
Đỉnh non vắng tiếng chim thương tổ,
Đáy nước sôi tăm cá đớp mồi...”
(“Trường thán thi”)
Có lúc, thảm họa ngoại xâm được vẽ bằng những nét trực tiếp:
“Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con...”
(“Hai chữ nước nhà”)
Điểm nổi bật của không gian lịch sử là nét dữ dội của nó được thể hiện qua
ngôn từ, qua chi tiết miêu tả. Bộ mặt kẻ thù hiện diện qua hình dong thú dữ: “hổ
báo”, “chó dại nguẩy ngoe đuôi”, lũ cá đói tranh mồi. Thảm họa chúng gây ra là
máu sông xương núi. Cảnh tượng thì khói lửa mịt mù, thành quách thì tan tành, con
54
người thì li tán. Không gian nơi ải Bắc buổi cha con Nguyễn Phi Khanh chia tay
không chỉ có “mây sầu ảm đạm”, “gió thảm đìu hiu” mà còn có “bốn bề hổ thét
chim kêu” dữ dội (“Hai chữ nước nhà”). Lòng căm thù giặc, nỗi đau sánh với “giời
nước bao la”, “nước bạc mênh mông” là “lệ thảm đầm đìa rơi” (“Lâm giang
khúc”). Đó là không gian âm u trước một cơn bão tố được vẽ bằng những nét vẽ
khỏe khoắn của Á Nam.
Sinh khí của không gian lịch sử trong thơ Á Nam còn được tạo bởi sự đồng
hiện hào khí cha ông. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng của dân tộc, hơn lúc nào
hết truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông được khơi dậy. Giữa không gian
mịt mù buổi giặc Minh xâm lược, đất nước có bóng dáng bà Trưng, Hưng Đạo
Vương với chiến công lừng lẫy (“Hai chữ nước nhà”). Hơn sáu trăm năm mà âm
hưởng hào hùng của chiến công đời Trần còn hiển hiện:
“Sông Đằng tưởng tượng quân Nguyên chạy,
Đất Kiếp mơ màng tiếng kiếm reo.”
(“Kỷ niệm Đức Hưng Đạo Đại Vương”)
Truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên đã thành khí thiêng sông núi khiến
không gian thời cuộc bớt phần ảm đạm.
Có lúc phạm vi không gian nghệ thuật được mở ra ở cả hai chiều đồng đại và
lịch đại. Chẳng hạn ở “Nga quốc tam nữ cách mệnh đề từ”:
“Mở lịch sử đông tây coi thử,
Kìa anh hùng hiệp nữ là ai?
Mấy phen động đất kinh giời,
Máu hồng lai láng muôn đời còn in.”
Với đồng đại, ngoài phạm vi quốc gia thì không gian mang đậm chất sử thi
“Mặt biển nọ nước reo chính khí / Đỉnh non kia mây hé tự do”. Phần mở ra của
không gian đậm chất sử thi.
Nếu như ở không gian biến dịch của thời cuộc đã nói trên đây, con người hình
như đứng ở ngoài không gian mà quan sát, chiêm nghiệm, đau xót cảm thấy bơ vơ
lạc lõng trước cuộc thế đổi thay thì với không gian lịch sử con người được đặt ở vị
55
trí trang trọng làm trung tâm. Đó thực sự là không gian của con người, những anh
hùng dân tộc, những tấm gương nghĩa khí. Họ là những nhân vật hành động. Nữ anh
hùng Trưng Trắc trước thù nhà nợ nước không chỉ biết uất hận mà còn dám đứng
lên “xé yếm may cờ” báo thù nhà, đền nợ nước. Đó là Hưng Đạo Vương mà tên tuổi
gắn liền với ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Bà Bùi Khuê (“Lâm giang
khúc”), bà Nguyễn Thị Hòa (“Trầm hoa khúc”) kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN001.pdf