MỤC LỤC 
PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đềtài nghiên cứu.1 
2. Lịch sửnghiên cứu vấn đề.1 
3. Mục đích, nhiệm vụnghiên cứu.4 
4. Đối tượng nghiên cứu .4 
5. Phạm vi, nội dung nghiên cứu .4 
6. Phương pháp nghiên cứu.4 
7. Đóng góp mới của đềtài .5 
8. Dàn ý của khóa luận.5 
PHẦN NỘI DUNG 
CHƯƠNG I: TRẦN ĐĂNG KHOA - “THẦN ĐỒNG” CỦA THI CA 
VIỆT NAM. 
1. Đôi nét vềTrần Đăng Khoa và tập thơ Góc sân và khoảng trời.6 
1.1. VềTrần Đăng Khoa .6 
1.2.Vềtập Góc sân và khoảng trời.7 
2. Những yếu tốhình thành và phát triển hồn thơTrần Đăng Khoa .8 
2.1. Dòng sữa văn học dân gian của quê hương .8 
2.2. Truyền thống gia đình.8 
2.3. Ảnh hưởng từcác nhà thơ, nhà văn bậc thầy .9 
2.4. Sự động viên, giúp đỡcủa gia đình và thầy cô, bạn bè .9 
2.5. Thời đại kháng chiến chống Mĩ.10 
CHƯƠNG II: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI - NHỮNG NGUỒN CẢM 
HỨNG DÀO DẠT 
1. Cảm hứng từcảnh vật thiên nhiên và hình ảnh người nông dân 
1.1.Cảnh vật thiên nhiên .11 
1.2.Hình ảnh người nông dân.19 
2. Cảm hứng từnhững người thân yêu .22 
3.Cảm hứng từhoàn cảnh lịch sửcủa đất nước.25 
3.1.Sốphận của những em bé Việt Nam trong chiến tranh .25 
3.2.Lòng căm thù giặc Mĩsâu sắc.31 
3.3.Tình cảm đối với Bác Hồkính yêu .34 
3.4.Tình cảm dành cho các chú bộ đội .38 
3.5.Tình cảm đối với những miền quê trên đất nước .44 
CHƯƠNG III: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI– MỘT SỐHÌNH THỨC BIỂU 
HIỆN NỔI BẬT 
1. Giọng điệu .48
1.1. Hồn nhiên, trong sáng, thiết tha.48 
1.2. Triết lí, suy tư.50 
2.Trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú .55 
3.Ngôn ngữchính xác, sáng tạo, biểu cảm và giàu nhạc điệu .57 
4. Biện pháp tu từ.59 
4.1. Nhân hóa .59 
4.2. So sánh .62 
PHẦN KẾT LUẬN.65
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 70 trang
70 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7612 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
con vật nuôi trong nhà khi không còn ai 
khác. 
Ngoài tình cảm dành cho những người thân trong gia đình, Trần Đăng Khoa còn 
có những bài thơ viết tặng cho các nhà thơ, nhà văn - những người thầy đã dạy bảo, dẫn dắt 
 25 
Trần Đăng Khoa từ những bước đi đầu tiên trên con đường nghệ thuật chông gai: Nếu chú 
ý một chút ta sẽ thấy rằng những bài thơ em viết tặng mỗi người rất phù hợp với phong 
cách sáng tác của người đó. Nhà văn Tô Hoài chuyên viết truyện về thế giới loài vật thì 
Trần Đăng Khoa tặng chú bài Ò ó o… với các sự vật đang háo hức đón chào ngày mới, 
Huy Cận sáng tác với “nỗi sầu vạn cổ” thì Trần Đăng Khoa tặng bài Nửa đêm tỉnh giấc 
bằng tất cả sự rung cảm, tinh tế trước những vận động, rất khẽ khàng của đất trời,… Hơn 
thế, Trần Đăng Khoa còn lẫy cả tên bài thơ, câu thơ, ý thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu để viết 
Kính tặng chú Tố Hữu, Ở nhà chú Xuân Diệu với vốn hiểu biết không trẻ con chút nào về 
quê hương và sự nghiệp sáng tác của hai nhà thơ này. Trần Đăng Khoa còn viết tặng cho 
bác P. Nê-ru-đa (nhà thơ Chi-lê) trong niềm xúc động khi nghe tin bác bị sát hại trong vụ 
đảo chính năm 1973. Trần Đăng Khoa nói lên tiếng lòng của một dân tộc Việt Nam - dân 
tộc liên tục bị ngoại xâm rất khao khát hòa bình. Trần Đăng Khoa đã thay mặt thiếu nhi 
Việt Nam để trả lời với thiếu nhi quốc tế qua bài Gửi bạn Chi-lê: 
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu 
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng 
3. Cảm hứng từ hoàn cảnh lịch sử của đất nước 
3.1. Số phận của những em bé Việt Nam trong chiến tranh 
Càng yêu quê hương, đất nước Việt Nam bao nhiêu thì con người Việt Nam càng 
căm thù giặc Mĩ bấy nhiêu. Không chỉ có người lớn mới biết yêu thương và căm thù mà trẻ 
con cũng thế. Lẽ ra, trong tâm hồn ngây thơ, trong trắng của những trẻ em ở lứa tuổi Trần 
Đăng Khoa lúc bấy giờ chỉ nên có lòng yêu thương chứ không có lòng thù hận. Khi Trần 
Đăng Khoa lên bảy, lên tám thì bè lũ Nhà Trắng bắt đầu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. 
Trong hoàn cảnh chiến tranh, chứng kiến những hoang tàn, đổ nát, chết chóc do chiến 
tranh gây ra như thế làm sao có thể không đau xót? Tập thơ Góc sân và khoảng trời của 
Trần Đăng Khoa là những lời đồng cảm sâu sắc giúp chúng ta thấu hiểu được số phận và 
tâm hồn của những em bé Việt Nam trong chiến tranh. 
Đáng lí ra, những em bé - mầm non của một đất nước - phải được nâng niu, chăm 
sóc và tạo mọi điều kiện để phát triển, để các em được hưởng mọi ưu ái như lời Tố Hữu 
luôn căn dặn những nhà văn, nhà thơ khi sáng tác cho thiếu nhi phải luôn tâm niệm một 
điều: “Cái gì càng ngon, càng hay, càng đẹp, càng vui thì chúng ta để dành cho các em”. 
 Đằng này, các em lại là những nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp phải gánh chịu 
những hậu quả của khói lửa, đạn bom. Hậu quả trực tiếp: có biết bao sinh mạng của những 
người thân của các em bị bị chiến tranh cướp đi và chính các em cũng bị chiến tranh giết 
hại “nó thiêu cả bé chưa và được cơm” (Gửi bạn Chi-Lê). Hậu quả gián tiếp: Người lớn 
(ông bà, cha mẹ…) không có nhiều thời gian để chăm sóc cho con em của mình, bởi vì họ 
bận sản xuất, chiến đấu và nuôi bộ đội hay bất kì công việc gì góp phần bảo vệ đất nước. 
Thế nên, các em phải tự chăm sóc bản thân mình là chính. Cũng là một em nhỏ như bao 
em nhỏ khác, Trần Đăng Khoa đã nhìn thấy và xót xa về điều đó qua nhiều bài thơ trong 
 26 
tập Góc sân và khoảng trời mà hình ảnh gần gũi và được nhắc khá nhiều là em gái của 
mình - bé Thúy Giang. Thường là mọi người trong nhà đi vắng hết, bé Giang phải ở nhà 
một mình. Ta có thể hình dung khuôn mặt tiu nghỉu thật tội nghiệp khi em nhìn trước, ngó 
sau chẳng thấy ai khác ngoài chú mèo: 
Cả nhà vắng hết 
Chỉ còn bé Giang 
Bé đánh tam cúc 
Với con mèo hoang 
 (Đánh tam cúc) 
Bé đã nảy ra một trò chơi với người bạn nhỏ này. Đối với mọi người, bé Giang chỉ 
là một em bé 4, 5 tuổi, vẫn còn rất nhỏ. Vậy mà, khi chơi với chú mèo khoang, bé lại trở 
thành người lớn. Bé rất biết nhường nhịn chú mèo khi nó tỏ ra nũng nịu: 
À thôi mày được 
Bé Giang dỗ dành 
Mèo lè lưỡi đỏ 
Liếm vào răng nanh… 
Trần Đăng Khoa rất thương, rất thấu hiểu và thông cảm với bé Giang. Bản thân 
Trần Đăng Khoa mới ít tuổi đầu cũng đã tỏ ra là người lớn qua những lời dặn dò em: 
 Dặn em đừng có chơi xa 
Máy bay Mĩ bắn không ra kịp hầm 
Đừng ra ao cá trước sân 
Đuổi con bươm bướm trượt chân ngã nhào 
Đừng đi bêu nắng nhức đầu 
Đừng vầy nghịch đất, mắt đau, lấm người 
(Dặn em) 
Những “đừng” trong lời dặn dò thể hiện thái độ quan tâm, chăm sóc của một người 
anh dành cho em và cũng chứng tỏ Trần Đăng Khoa phải người lớn so với tuổi của mình. 
Không chỉ thương mỗi bé Giang, Trần Đăng Khoa còn nhận ra xung quanh mình còn có 
những số phận trẻ em đồng trang lứa với mình phải chịu những bất hạnh của cuộc chiến 
tranh xâm lược của kẻ thù: 
Em biết lúc này giặc Mĩ đang đốt giết 
Những bé thơ cùng với các đồ chơi 
Những mái nhà cùng với tiếng chim vui 
Những cánh rừng cùng với vầng trăng bạc 
(Thư thơ) 
Và ngay cả các con vật đồng thời là người bạn nhỏ mà các em yêu thương cũng bị 
bom đạn làm cho khiếp sợ mà chạy tán loạn (Sao không về Vàng ơi) 
 27 
Lớn hơn tuổi không chỉ có việc nhận thức đó, Trần Đăng Khoa ý thức được nỗi cực 
nhọc của mẹ. Ý thức đó được thể hiện bằng hành động cụ thể, Trần Đăng Khoa đã giúp mẹ 
làm rất nhiều công việc: Chống hạn, bắt sâu, chọc ếch, đưa em ngủ (trong “Tiếng võng 
kêu”), kéo xe chở phân lót ruộng (trong “Cánh đồng làng Điền Trì”) … Khi mẹ vắng nhà, 
Trần Đăng Khoa giống như một cô Tấm hiền lành, đảm đang trong cổ tích bà từng kể : 
Khi mẹ vắng nhà, em luộc Trần Đăng Khoai 
Khi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạo 
Khi mẹ vắng nhà, em thổi cơm 
Khi mẹ vắng nhà, em nhổ cỏ vườn 
Khi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng 
Những gì Trần Đăng Khoa làm giúp cha mẹ thì có lẽ những em bé khác cũng thế, 
tất cả các em phải làm lụng vất vả và bớt phần vô tư đùa nghịch. Các em chăm ngoan như 
thế, nhưng khi được mẹ khen ngợi thì chẳng chịu nhận mà cứ một mực “con chưa ngoan, 
chưa ngoan!”. Trong những đầu óc ngây thơ ấy đã biết nghĩ rằng việc của mình làm chỉ là 
cỏn con, chưa thể bù đắp được những vất vả, gian lao của mẹ: 
Áo mẹ mưa bạc màu 
Đầu mẹ nắng cháy tóc 
Mẹ ngày đêm khó nhọc 
Một em bé mới 9 tuổi đầu đã biết quan sát hiện tượng (áo mẹ bạc màu, tóc mẹ cháy 
nắng) để nhìn ra bản chất (mẹ ngày đêm khó nhọc). Vì đâu mà các em phải sớm già dặn 
như thế nếu không phải vì cuộc xâm lược phục vụ cho lòng tham lam, độc ác của bọn đế 
quốc Mĩ? Hiện thực cuộc sống đòi hỏi các em phải như thế. Chính các em cũng hiểu được 
sự già dặn, khôn ngoan của mình là do đâu mà có: 
Anh chớ bảo em là khôn trước tuổi 
Cái gì cần nhớ trước thì nhớ trước 
Cái gì không cần thì tạm nhớ sau 
 (Bọn trẻ xóm em – Hoàng Hiếu Nhân) 
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh, phải tự chăm sóc bản thân khiến các 
em sớm có ý thức hơn nhưng không vì thế mà mất đi nét hồn nhiên, ngây thơ vốn có của 
trẻ nhỏ. Tập thơ của Trần Đăng Khoa đã miêu tả rất sinh động những trò chơi mà chỉ có 
những em thiếu nhi ở vùng nông thôn mới có được. Đó là các trò chơi rất đậm chất dân 
gian: xỉa cá mè, mèo đuổi chuột, thả diều,… Tất cả những trò chơi ấy thường diễn ra dưới 
ánh trăng vàng - người bạn thân thiết của Trần Đăng Khoa. 
Vẻ ngây thơ đáng yêu của các em được thể hiện qua cái nhìn hết sức ngộ nghĩnh mà 
người lớn không thể nào có được: 
Ông trăng cười những lợi 
Răng chẳng chiếc nào còn 
 (Trăng đầu tháng) 
 28 
Trăng đầu tháng khuyết và nếu từ dưới đất nhìn lên thì thấy một vài vệt đen nhô lên 
làm cho bé thơ liên tưởng đến lợi của con người và sau đó lại thắc mắc rất ngây ngô nhưng 
có lí: 
Chú ơi trăng già thế 
Sao bà bảo trăng non? 
(Trăng đầu tháng) 
Có lí bởi vì mọi người gọi trăng đầu tháng là trăng non nhưng trong mắt trẻ thơ thì 
trăng lúc ấy trông giống như một cụ già đã rụng hết răng, chỉ còn trơ lợi mà thôi. Câu thơ 
hồn nhiên và nói rất đúng tâm lí của trẻ thơ. Chúng có vô số thắc mắc và mong muốn được 
giải đáp. 
Ngoài việc thắc mắc, chúng rất hay bắt chước những hình ảnh, hành động của ai đó 
mà chúng trông thấy hàng ngày và đặc biệt là có cảm tình với hình ảnh, hành động đó. 
Hoàng Hiếu Nhân, nhà thơ trẻ cùng trang lứa với Trần Đăng Khoa, đã diễn tả lại hình ảnh 
chú bộ đội lúc hành quân làm cho cả nhà vô cùng thích thú vì em đã gọi lại những kỉ niệm 
chiến đấu một thời. Cháu bé Minh Hà thì khác. Cháu đã làm điệu bộ y hệt bà của mình 
khiến cho mọi người vừa ngạc nhiên vừa xúc động: 
Cái chân thì khệnh khạng 
Tay vắt vẻo lưng cong 
Đầu vấp va vấp vểnh 
Cháu bỗng hóa bà còng 
(Cháu làm bà còng) 
Trần Đăng Khoa đã miêu tả chính xác hình dáng và điệu bộ của người bà qua các từ 
láy giàu sức gợi hình: khệnh khạng, vắt vẻo, vấp va vấp vểnh. Hình ảnh người bà được 
khắc họa mang dấu ấn của thời gian và chứa đựng niềm yêu thương tha thiết của tác giả. 
Ở một bài thơ khác cháu bé lại tạo rất nhiều dáng điệu đáng yêu như đang được 
chụp ảnh: 
- Nón che kín đầu 
Cháu thành con ốc 
- Khăn bay mái tóc 
Cháu hoá bướm hồng 
- Váy hoa quay tít 
Cháu thành con ong 
 - Nằm giữa lòng ông 
Cháu là hạt thóc… 
(Chụp ảnh) 
Và đây nữa, sự vô tư của em nhỏ tội nghiệp, mới vài tuổi đầu đã biết thế nào là bom 
đạn: 
- Chú này buồn cười lắm nhé 
 29 
Bom rùng. Cháu lại ngủ mê 
Cứ tưởng tay bà đưa võng 
Như ngày ru cháu ở quê.. 
 (Cháu về) 
Lời kể của cháu nhỏ nghe “líu ríu như là tiếng chim” nhưng nội dung lời kể lại chứa 
đựng cả một sự thật lịch sử đang diễn ra trên đất nước ta. Chiến tranh đã dạy cho bé biết: 
 - Chú ơi, nếu còn bom Mĩ 
 Chú phải bịt tai thế này 
 Cháu bỗng xoay người ngang ghế 
Như vừa có tiếng máy bay 
(Cháu về) 
Ngoài bản tính hồn nhiên, ngây thơ vốn có của trẻ thơ các em thiếu nhi của Việt 
Nam trong chiến tranh còn có những điểm khác với trẻ em thế giới là luôn tự tin, rắn rỏi 
trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt: 
Và các bạn thiếu niên 
Bằng tuổi em 
 Trong tầm ngắm súng thù 
 Vẫn treo cao cờ đỏ 
 (Điều anh quên không kể) 
 Chúng tôi đến lớp ngày ngày 
 Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men 
 Ao trường vẫn nở hoa sen 
 Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu 
(Gửi bạn Chi-Lê) 
Và rất hiên ngang qua lời khẳng định : 
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu 
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng 
(Gửi bạn Chi-Lê) 
Đó là những dòng thơ mà Trần Đăng Khoa đáp lại với bạn bè thế giới và cũng để 
đính chính lại ý nghĩ : 
 Người bạn nhỏ Việt Nam 
Vắng nụ cười trên môi 
(“Bức thư ngỏ Việt Nam” của Miraga Hilimét- thiếu nhi nước Chi-lê) 
Đúng là thiếu nhi Việt nam có đói cơm, khát nước, có vất vả vì phải tự chăm sóc 
bạn thân, phải lao động trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh nhưng không vì thế 
mà “vắng nụ cười trên môi”. Trái lại, các em “vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng”. Đó là 
một đặc điểm không thể thiếu của lứa tuổi thiếu nhi. Và đó cũng thể hiện niềm tin của các 
em vào tương lai tươi sáng của đất nước. Niềm tin ấy là có cơ sở thực tiễn. Khi Trần Đăng 
 30 
Khoa làm bài thơ “Gửi bạn Chi-lê” thì đất nước ta đang có nhiều thắng lợi trên các chiến 
trường cả nước: 
Miền Nam thắng trận Đông Xuân 
Miền Bắc bắn rụng hàng ngàn máy bay 
Lạc quan, tin tưởng vào tương lai của đất nước, các em thiếu nhi Việt Nam rất 
muốn đóng góp công sức của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngày 
ngày, các em làm những công việc vừa sức của mình như lời Bác Hồ dạy “tuổi nhỏ làm 
việc nhỏ” và không lúc nào thôi mơ ước cho tương lai: 
 Nếu còn thằng giặc Mĩ 
Hay bất cứ giặc nào 
 Tớ sẽ đi bộ đội 
Giọng Tư nghe tự hào 
 (Bắt ông Rừng nộp củi) 
“Nếu các thằng giặc thua”- lời tiên đoán của một đứa trẻ mà lại tràn đầy niềm tin 
tưởng mang tính cách của con người Việt Nam: lạc quan trong mọi hoàn cảnh. Sau lời tiên 
đoán ấy thì các em chia nhau các công việc góp phần xây dựng đất nước: em thì làm nhà 
du hành vũ trụ, em thì vào văn công, em thì sẽ bắc chiếc cầu dài qua sông. Mơ ước bắc 
chiếc cầu “dài hàng trăm ngàn thước” của các bạn Trần Đăng Khoa thật trùng hợp với lời 
của Đỗ Thị Đoan Trang tâm tình với cây gạo: 
Cây nhủ em: chóng lớn 
Học giỏi thành công nhân 
Bắc cầu trên sông rộng 
Cho đò khỏi sang ngang. 
Trẻ con nào chẳng mơ ước. Có những mơ ước thật cao xa và cũng có nhưng mơ ước 
thật giản dị nhưng tất cả đều xuất phát từ ý muốn làm giàu đẹp cho quê hương đất nước. 
Riêng Trần Đăng Khoa thì mơ ước “suốt đời làm thơ”. “Cái ước mơ thành nghệ sĩ này quả 
là một nét mới” [17a; 48]. 
Những câu thơ như thế đã trả lời cho câu hỏi mà bao năm nay thế giới đã dày công 
đi tìm đáp án: Tại sao Việt Nam - một đất nước nhỏ bé - lại có thể chiến thắng được Mĩ - 
một đế quốc đã có nhiều chiến tích lẫy lững trong các cuộc xâm lược các quốc gia trên thế 
giới? Chính kẻ thù của chúng ta cũng đã và đang đau đầu bởi họ vẫn không thể tin được 
một yếu tố phi vật chất lại làm nên lại làm nên thắng lợi trong cuộc chiến không cân sức: 
tinh thần dân tộc. Họ tin vào sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế và những chiến thuật 
tinh vi đến từng milimet. Điều đó cần thiết cho mọi cuộc chiến. Thế nhưng, họ lại quên đi 
lịch sử. Dân tộc ta đã kiên cường, bất khuất đập tan ách đô hộ của 1000 giặc Tàu, 80 năm 
đô hộ giặc Pháp thì lẽ nào lại cam phận làm nô lệ một lần nữa? Lời của Hồ Chủ tịch trong 
bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ đã nói thay lời non sông: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết 
đem cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và tài sản để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. 
 31 
3.2. Lòng căm thù giặc Mĩ sâu sắc 
Qua những câu thơ rất chân thực, Trần Đăng Khoa đã vẽ ra trước mắt người đọc 
ngày ấy và bây giờ một cảnh mà nơi nơi, người người, kể cả trẻ con cũng nín thở vì một tin 
dữ dội: 
Mẹ nấu cơm dụi lửa 
Bố em họ trâu giữa đường 
Các cô thầy 
Ngừng giảng bài giữa lớp 
Bạn Tĩnh. Bạn Nho, bạn Lập 
Bạn nào mắt cũng đỏ hoe 
Bé Giang ngồi ở đâu hè 
Cũng thôi đánh chuyền đánh chắt 
 (Hà Nội có Bác Hồ) 
 Năm 1972, tổng thống Mĩ đã ra lệnh ném bom B52 rải thảm Hà Nội, Hải Phòng và 
oanh tạc miền Bắc sát hại hàng ngàn người dân vô tội, người già, trẻ con chúng cũng 
không tha. Làm sao mà không chua xót, không căm thù khi hình ảnh “hố bom sâu - thăm 
thẳm hố bom sâu” (Bến đò) ngày ngày hiển hiện trước mắt mình. 
Đế quốc Mĩ mà đứng đầu là tổng thống Ních-xơn không chỉ gây ra tội ác đối với đất 
nước và con người Việt Nam nói chung, thiếu nhi Việt Nam nói riêng mà còn đối với biết 
bao thiếu nhi trên thế giới. Vậy mà khi đứng trong nghĩa trang của những người bị Hít-le 
tàn sát, hắn đã nhỏ những giọt nước mắt như thương cảm sâu sắc lắm vậy. Mặc dù tội ác 
đó được ngụy trang, ngụy biện bằng nhiều hình thức nhưng ai cũng nhận ra được sự thật. 
Hành động giả nhân, giả nghĩa của bọn chúng không thể gạt được một đứa trẻ con. Trong 
nghĩa trang mà Ních-xơn đang viếng có mộ của bé gái Tania (12 tuổi). Trần Đăng Khoa đã 
hóa thân vào Tania để vạch trần bộ mặt của “ngài tổng thống” nói riêng và bọn đế quốc Mĩ 
nói chung: 
 Ý nghĩ của hắn chạy từ đầu xuống chân 
 Từ chân xuống đất sâu nên tôi nghe hết: 
“Nếu mày sống thì ông cũng giết” 
 (Lời một bạn gái mười hai tuổi) 
Khi viết những câu thơ như thế thì hẳn người viết đã chất chứa trong lòng niềm căm 
thù tột độ. Và đó không còn là sự căm thù cảm tính mà là tình cảm có chỉ dẫn của lí trí. 
Đừng cho rằng trẻ con không có khả năng đó. Hãy đọc kĩ bài thơ ta sẽ thấy giọng điệu trẻ 
con được giữ nguyên, không có một chút gượng ép, gò bó. Chính vì thế mà ta thấm thía 
được bản chất của Đế quốc. Ai cũng nhận ra một điều giản dị: Ý nghĩ hắn (Ních-xơn) chạy 
từ đầu xuống chân và chân liền với đất nên người nằm dưới mồ sâu trong ngót 30 năm vẫn 
nhận ra được. 
 32 
Không chỉ nhìn thấy được tội ác của giặc Mĩ không chỉ trên mặt đất, dưới lòng đất 
mà còn dưới cả âm phủ. Trần Đăng Khoa đã tưởng tượng ra cảnh linh hồn đoàn người bị 
bọn Mĩ giết hại lũ lượt kéo nhau đến đập của Diêm Vương đòi trừng phạt bọn giết người. 
Bài thơ “Đập cửa Diêm Vương” có giá trị tố cáo thật sâu sắc: Những cụ già không tìm thấy 
các bộ phận của thân thể mình, những bà mẹ bụng mang dạ chửa cũng bị giết hại, những 
em bé thơ “đang lẫy đang bò”, “đang phi ngựa gỗ” không tìm được cha mẹ, ông bà… Nó 
khiến những người đã từng sống trong chiến tranh thì ngậm ngùi chua xót, những người 
chưa từng trải thì rùng mình, căm giận. Tất cả đều thắc mắc: 
 Tại sao Ních-xơn mang bom bi, bom phá 
 Bom hơi, bom Trần Đăng Khoan, bom lửa 
 Trút xuống đầu ta… 
Trong khi họ - những người đã chết và chúng ta – những người đang sống đều như 
nhau: 
Ta yêu sông Mi-xi-xi-pi của các ngươi 
Như ta yêu sông Hồng của ta nhận nước bốn phương trời 
 Chưa bao giờ, và sẽ chẳng bao giờ 
Ta nghĩ đến ném bom nước Mĩ. 
Trong đoàn người đó có cả những em bé chết do bom Mĩ mà không tìm thấy cha mẹ 
của mình. Các em đã gọi thống thiết: 
- Gió ơi! Gió ơi! 
Cháu không tìm thấy mẹ cháu rồi 
Mẹ cháu không gầy, không béo 
Mẹ cháu không già không trẻ… 
Bây giờ không ai cho cháu ăn 
Không ai cho cháu ngủ 
(Đập cửa Diêm Vương) 
Tội ác của đế quốc Mĩ không chỉ vấp phải sự phản đối của nhân dân ở bản xứ mà 
còn của cả thế giới, thậm chí là ngay cả nhân dân Mĩ yêu chuộng hòa bình và thiện chí. 
Những thiếu nhi Mĩ đã hết sức đau xót, xấu hổ về hành động của cha anh mình. Tất cả 
nhũng điều đó được thể hiện bằng việc nhân dân Mĩ liên tục tham gia vào các cuộc biểu 
tình phản đối chiến tranh của đế quốc Mĩ ở Việt Nam. Hình ảnh của một thiếu nhi Mĩ đi 
biểu tình đã khơi dậy trong Trần Đăng Khoa niềm xúc động mãnh liệt: 
Bạn cùng đoàn người đi như thế 
Đã mấy năm rồi 
Cánh tay giơ lên 
Không biết mỏi 
Bạn đến khắp nơi trên thế giới 
Miệng bạn thét vang 
 33 
- Giôn-xơn không được giết trẻ con 
- Giôn-xơn phải rút hết quân xâm lược 
(Xem ảnh bạn thiếu nhi Mĩ đi biểu tình ở báo ảnh Việt Nam) 
Căm thù giặc Mĩ, Hoàng Hiếu Nhân đã nặn tượng đất sét hình Ních-xơn với hình 
thù kì quái và khẳng định: 
Nếu đem đặt ra đường 
Ai chẳng đòi vặn cổ. 
(Thằng Ních-xơn) 
Trong bài thơ “A! em biết thằng giặc Mĩ rồi!”, trẻ em đã biểu hiện thái độ căm thù 
của mình và được cụ thể bằng hành động khi thấy máy bay Mĩ bị quân ta bắn rớt xuống 
cánh đồng: 
Bố em cầm đòn càn 
Mẹ em mang đòn gánh 
Chị em mang khẩu súng 
Bé Giang mang que cời 
Con chó Vàng mang hàm răng nhọn hoắt 
Em không biết mang gì 
Vớ ngay hòn đá 
Cách đánh giặc của gia đình của Trần Đăng Khoa tiêu biểu cho cách đánh giặc của 
đất nước ta qua các thời kì chống ngoại xâm. Chống lại kẻ thù chỉ bằng những vũ khí hết 
sức thô sơ, có khi chỉ là những công cụ lao động nông nghiệp thường ngày. Thế nhưng, với 
sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu anh dũng và mục đích vệ quốc 
chính nghĩa, chúng ta đã thắng lợi vẻ vang. 
 Em kể chuyện này là phản ứng của các em nhỏ khi gặp dấu chân của kẻ thù hằn trên 
mảnh đất quê nhà: 
Những dấu chân 
Trông vào nhức mắt 
Các bạn đã đào đổ xuống ao rồi 
Từ lúc sáng mờ sương 
Cho đến khi tiếng trống gọi về trường 
Vẫn chưa hết những dấu chân trên cát 
 Vẫn chưa hết những dấu chân độc ác 
Các bạn còn đào đổ xuống ao sâu. 
Đọc bài thơ này, có nhiều người cho là không thật sự, bởi ngoài đời có ai làm như 
thế bao giờ. Cách thể hiện khá ngộ nghĩnh, mang dấu ấn điển tích Sào Phủ, Hứa Do. Nên 
nhớ rằng, tác giả có quyền dùng các hình tượng văn học để bộc lộ quan điểm, tư tưởng của 
mình. Chúng ta đừng hỏi rằng “điều đó có thật không?”mà hãy hỏi rằng “qua đó tác giả 
thể hiện điều gì?”. Nếu hỏi như câu sau thì chúng ta đã có câu trả lời: Trần Đăng Khoa 
 34 
hay bất cứ một người Việt Nam yêu nước nào cũng căm thù giặc, cũng thấy “nhức mắt” 
trước sự tồn tại của kẻ thù trên mảnh đất quê hương. Các em càng căm thù giặc Mĩ thì lại 
càng thể hiện lòng yêu thương. Bởi lẽ thường, chúng ta căm ghét những gì phương hại đến 
điều chúng ta yêu thương. Các em yêu đất nước Việt Nam, con người Việt Nam nên khi 
đất nước Việt Nam bị giày xéo, con người Việt Nam bị giết hại thì lòng căm thù ấy trỗi 
dậy. Đó là một hiện tượng tâm lí rất bình thường. 
 3.3. Tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu 
 Trong các bức tranh văn học viết về cuộc kháng chiến của nhân dân ta có các chân 
dung của những người anh hùng: Các anh chiến sĩ, những người dân công, các bà mẹ Việt 
Nam anh hùng, các em bé liên lạc,… thì chân dung Bác Hồ hiện lên rực rỡ nhất. Bác chính 
là linh hồn của dân tộc ta. 
Đối với thiếu nhi, Bác Hồ dành tất cả sự yêu thương và niềm tin tưởng, hi vọng vào 
tương lai của các em: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt 
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay 
không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu” (Thư Bác Hồ gửi học 
sinh nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 
9/ 1945). Còn về phần các em thì rất yêu mến Bác, thường hát vang bài hát phổ từ bài thơ 
của Người: 
Ai yêu các nhi đồng 
Bằng Bác Hồ Chí Minh 
 (Thơ trung thu 1946 – Hồ Chí Minh) 
Cũng như bao trẻ em khác, Trần Đăng Khoa có một tấm lòng yêu mến đặc biệt đối 
với Bác Hồ. Hàng ngày Trần Đăng Khoa nhìn ảnh Bác tưởng như Bác đang nói chuyện 
với mình: 
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa 
Trồng rau, quét bếp đuổi gà 
Thấy tàu bay Mĩ nhớ ra hầm ngồi 
 (Ảnh Bác) 
 Khi tự tay mình trồng một cây bàng trên đường làng, cây bàng lớn lên che bóng mát 
cho người làng, làm chỗ để họ nghỉ mệt sau những lúc lao động, Trần Đăng Khoa đã vui 
sướng vì mình làm được việc tốt. Niềm vui đó theo em vào giấc mơ. Em đã có một giấc 
mơ đẹp bởi trong mơ em đã gặp Bác Hồ - người mà em hết lòng yêu mến: 
Thấy cả Bác Hồ về làng 
Cũng ngồi ở gốc cây bàng của em … 
 Trần Đăng Khoa yêu mến Bác nhưng lại không vòi vĩnh một điều gì. Bởi như đã 
nói, các em sống tự lập và ý thức được rằng: 
Bác lo bao việc trên đời. 
Ngày ngày Bác vẫn mỉm cười với em 
 35 
Chưa bao giờ đến Hà Nội nhưng Trần Đăng Khoa yêu mến Hà Nội xa xôi bởi vì nơi 
ấy có Bác Hồ. Em vẫn thường “Em nằm lơ mơ ngủ - thấy mình về thủ đô” (Trăng tròn). 
Nhà thơ nhỏ say cảnh và mơ giấc mơ đẹp: Trước mắt mình là “Ngôi nhà Bác ở giữa Ba 
Đình” và thấp thoáng bóng Bác đang chăm sóc món quà của miền Nam yêu thương: 
Bóng Bác bên cây vú sữa. 
Tiếng Bác Hồ cười, em nghe rất rõ… 
 (Hà Nội có Bác Hồ) 
Trong tâm trí trẻ thơ của Trần Đăng Khoa, Hà Nội xa xôi ấy có những cảnh vật, đồ 
vật thật lạ mắt và thật đẹp: gò Đống Đa, chiếc cầu sắt bắc trên mái nhà mà xe lửa và ô tô đi 
không gãy, Hồ Gươm,… Liên và An trong “ Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) cũng đã từng nghĩ 
về Hà Nội nhưng có một điều khác là: Hai chị em đã từng có thời gian sống ở đấy và bây 
giờ nhớ về Hà Nội bởi cả hai đang sống trong phố huyện tối tăm, “mong đợi có một cái gì 
tươi sáng”. Còn Trần Đăng Khoa nghĩ về Hà Nội mà chưa một lần đến, nghĩ về Hà Nội 
như một phần xương thịt của đất nước có Bác Hồ hiền hòa, yêu thương thiếu nhi đang 
sống ở đó. Khi nghe tin giặc Mĩ ném bom Hà Nội, em đã hốt hoảng, lo lắng: 
- Các chú bộ đội ơi 
- Các chú bộ đội ơi 
Thằng giặc Mĩ nó ném bom Hà Nội rồi 
Hà Nội có Bác Hồ đang ở… 
( Hà Nội có Bác Hồ) 
Từ lâu, Trần Đăng Khoa đã mơ ước được đến với Hà Nội. Hình ảnh Hà Nội tươi 
đẹp xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa ba lần (Hà Nội,Hà Nội có Bác Hồ, Đất trời sáng 
lắm hôm nay). Mơ ước đó đã thành hiện thực. Trần Đăng Khoa đã được đến với thủ đô yêu 
dấu. Trần Đăng Khoa nói trong niềm hân hoan: 
Bác ơi! Cháu đến đây rồi 
Bài thơ này Trần Đăng Khoa ghi chú rất rõ: “Ba Đình, 30/5/1969” như đánh dấu 
một cột mốc kỉ niệm đáng nhớ của cuộc đời, bởi không phải em nhỏ nào cũng được đến 
với thủ đô Hà Nội. Trong hoàn cảnh đất nước còn đang diễn ra chiến tranh thì việc đi lại 
càng khó khăn gấp bội. 
Tình cảm của các em là tình cảm của búp mầm đối với gốc cội. Cẩm Thơ may mắn 
hơn Trần Đăng Khoa và các bạn khác bởi em đã tận mắt nhìn thấy Bác Hồ bằng xương 
bằng thịt trong một lần theo má đi dự hội nghị: 
Em nhảy cả trong hội nghị 
Em quên hết chú công an 
Em muốn hát 
Em muốn reo... 
 “Em muốn hát - Em muốn reo” nhưng mọi người đã im lặng, Bác Hồ sắp nói 
chuyện nên “em ngồi xuống lắng nghe lời Bác”. Em cảm nhận được: 
 36 
Bác ở trên cao mà em thấy rất gần 
Vì em ở trong con ngươi của Bác 
(Em gặp Bác Hồ) 
Tất cả chúng ta, dù là người lớn hay trẻ nhỏ, đều ấp ủ ước mơ được một lần gặp 
Bác. Nếu như ước mơ ấy thành sự thực thì còn gì xúc động cho bằng. Người lớn vui sướng 
thì rưng rưng xúc động, vui sao cứ nước mắt cứ rơi. Còn trẻ con thì không thế. Chúng vui 
sướng, hân hoan và nhảy múa không cần khách khí – tất cả những hành động mà người lớn 
đôi lúc muốn thể hiện nhưng phải kìm nén. Được gặp Bác, ai cũng cảm thấy mình thật bé 
bỏng, ai cũng muốn được ở thật gần Bác, được nắm bàn tay Bác, được nghe Bác nói 
chuyện,… Không chỉ có vui sướng vì được gặp Bác, cô bé còn tự nhủ với mình: 
Lớn lên phải như cô Mười 
Vào Nam đánh giặc 
Để Bác Hồ yêu thế, dắt đi chơi. 
 (Em gặp Bác Hồ) 
 Chắc hẳn ngày hôm đó là một kỉ niệm đáng nhớ nhất trong đời của cô bé Cẩm Thơ. 
Nói thế để thấy rằng, trên thế giới, ít có vị lãnh tụ nào được mọi tầng lớp nhân dân, không 
chỉ tron
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 75B84d01.pdf 75B84d01.pdf