Hiện nay, với tinh thần dạy học theo nguyên tắc chủ động tích cực, thì khi dạy tác
phẩm kí, người giáo viên cần được cung cấp đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và đặc
biệt là sách tham khảo (69,2%), khi dạy thì cũng không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ
yếu dạy học sinh cách học, cách suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề (57,7%). Tuy nhiên, họ cho
rằng những định hướng kiến thức và phương pháp trong sách giáo viên chưa đầy đủ, chưa rõ
ràng (50%), phần “tiểu dẫn” trước mỗi bài học về tác phẩm kí là cần thiết nhưng sách giáo
cũng chưa cung cấp đủ thông tin cho học sinh (69,2%). Ở phần khảo sát này, chúng ta cũng
có thể thấy được thực tế là việc dạy và học tác phẩm kí ít được giáo viên và học sinh quan
tâm, hứng thú khi học là vì những tác phẩm kí thường không nằm trong những bài trọng tâm
để đi thi (38,5%) nên giáo viên thường chỉ dạy cho qua, không chú trọng đến thể loại này
(15,4%). Qua phiếu khảo sát này, chúng ta thấy được cũng có một bộ phận giáo viên hết sức
cố gắng giúp cho học sinh hiểu được một cách nhanh nhất những tác phẩm kí bằng cách cho
học sinh xem băng, đĩa ghi hình, ghi âm, tranh ảnh minh họa trong quá trình giảng dạy của
mình. Với những cố gắng ấy, người giáo viên cũng đồng ý rằng mức độ hiểu tác phẩm của
học sinh nằm trong khoảng từ 50 – 75%, tùy từng trường cũng như năng lực cảm thụ văn học
của mỗi học sinh.
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1940 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n để tạo cảm xúc, giáo viên chủ động nêu vấn đề, gợi vấn đề, gợi ý về câu trả lời cho học
sinh (trên 56%). Về vấn đề cảm giác của em có năng nề không thì ta có thể thấy có hai ý kiến
trái chiều nhưng gần như tương đương nhau về việc này, một nửa thì cho rằng giờ học văn
nặng nề, nhưng nửa kia thì lại không đồng ý như vậy. Tuy nhiên, riêng các em lớp 12 thì số
lượng trả lời giờ văn không nặng nề và khó khăn lại chiếm hơn 72%. Các em cũng tự đánh
giá về mức độ hiểu tác phẩm kí của mình là từ 50% đến 75%, kết quả gần như trùng khớp
với ý kiến của những giáo viên được hỏi. Chúng ta có thể thấy được mong muốn của học
sinh với thầy cô là cho học sinh được tự do bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc của các em (trên 40%),
các câu hỏi trong giờ giảng văn cần đặt sáng rõ và dẫn dắt cụ thể (trên 38%) và cần phải chú
ý nhiều đến việc rèn luyện khả năng diễn đạt của học sinh (trên 24%). Thế nên, các em đã
nhận thức được rằng, để đạt được điểm cao đối với môn Văn thì chính các em phải hiểu được
tác phẩm, có kĩ năng – phương pháp làm bài (trên 42,9) và đọc kĩ văn bản, diễn đạt theo ý
riêng có sáng tạo (trên 33%)
2.2.2.2 Những hạn chế
Mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định nhưng đứng trước yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, việc dạy học văn nói chung cũng như việc dạy tác phẩm kí nói
riêng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập so với nhiệm vụ chung của ngành giáo dục.
Một trong những biểu hiện rõ nhất của hạn chế là vấn đề dạy học của giáo viên. Trong
quá trình giảng dạy, giáo viên chưa đi ra khỏi con đường mòn là chú trọng cung cấp kiến
thức đơn thuần mà không quan tâm nhiều đến phương pháp. Lẽ ra, trong giờ học văn, học
sinh phải được phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, được tự mình khám phá cái hay, cái đẹp
của tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ, để có thể phát triển năng lực văn học và trưởng thành về
trí tuệ, về tâm hồn và nhân cách, thì ngược lại các em phải lắng nghe, ghi chép những lời
thuyết giảng của giáo viên một cách máy móc, khô khan. Nhìn chung, công việc của giáo
viên phần nhiều là tìm kiếm, phát hiện cái hay, cái đẹp, quy chúng lại thành những nhận định
chung chung và cố gắng truyền thụ cho học sinh khối lượng kiến thức đó một cách nhạt nhẽo,
nhàm chán, rồi kiểm tra kết quả đó bằng con đường tái hiện. Ngay cả những bài giảng mang
tính khơi gợi, kích thích sự sáng tạo của học sinh vẫn không đi ngoài phương pháp giảng dạy
cũ kĩ này. Đó cũng là lí do nhiều năm gần đây đa số học sinh có biểu hiện chán học văn, đến
với giờ giảng văn như là một sự bắt buộc. Đó là chưa kể đến một bộ phận giáo viên đến nay
vẫn còn tỏ ra tâm đắc với giáo án mẫu, những bài soạn giảng mẫu và sử dụng chúng một
cách máy móc, không có sự sáng tạo.
Cho đến nay, vẫn còn không ít trường hợp giáo viên dạy học theo lối đọc chậm cho
học sinh viết, thậm chí còn ghi lại bài học lên bảng cho học sinh chép. Học sinh không được
đến với tác phẩm bằng sự nỗ lực vận động của cá nhân, không được tự giác và tự nhiên cảm
thụ tác phẩm, mà kết quả học tập chỉ thu nhận được bằng sự tiếp thu kết quả tìm tòi, phát
hiện của giáo viên. Đó là một sai lầm cơ bản của giáo viên do không nhận thức đúng đắn vai
trò cảm thụ của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Dường như trong nhiều trường
hợp, giáo viên chỉ quan tâm đến văn bản. Ngoài những yếu tố thuộc về văn bản, đặc biệt là
nhu cầu tự khám phá, tự cảm thụ của học sinh thì chưa được quan tâm một cách đúng mức.
Vì thế, học sinh luôn phải là “người lắng nghe” chứ không là “người nhập cuộc”. Quá trình
giảng văn trở nên phiến diện, một chiều, trong đó tác phẩm văn học là công cụ chủ yếu của
giáo viên trong quá trình dạy học. Do đó dẫn tới việc học sinh hiện nay gần như bị tê liệt về
cảm xúc, về hứng thú học tập và trở nên thụ động, lười suy nghĩ. Có thể thấy đôi khi gặp
những bài giảng thầy dạy say sưa, thể hiện được cảm nhận tinh tế qua ngôn từ giàu tính cảm
xúc, và trò cũng say sưa lắng nghe, nhưng nếu phải xác định nội dung khái quát của tác
phẩm thì các em lại lúng túng, có lúc trả lời sai. Như vậy, xét đến cùng, dù cho tiết dạy có
công phu, giờ dạy học tác phẩm văn chương cũng không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Mặt hạn chế khác của tình hình dạy học văn nói chung cũng như dạy học tác phẩm kí
nói riêng là giáo viên chưa thật sự chú ý đặc trưng loại thể của tác phẩm văn học nên chưa có
cơ sở chắc chắn để đánh giá, phân tích tác phẩm. Vì vậy, không thiếu những giờ dạy học đã
diễn ra khá bài bản, đảm bảo đúng một quy trình giờ dạy từ mở đầu cho đến kết thúc, nhưng
cuối cùng chính người dạy cũng chưa thật sự hài lòng về nó, bởi họ chưa sử dụng đúng chìa
khóa loại thể để mở đúng cánh cửa chứa ý đồ sáng tạo của nhà văn trong tác phẩm văn học.
Do đó, dù cho tiết dạy đã được thực hiện theo đúng quy trình của nó nhưng giáo viên vẫn
không thể khai thác hết giá trị tác phẩm. Nhiều trường hợp giáo viên dạy tác phẩm lịch sử
cũng như dạy văn xuôi, dạy cổ tích giống như dạy truyện ngắn, dạy ngụ ngôn không khác gì
truyện cười…
Thiếu sót phổ biến hơn nữa là trong giờ dạy học văn hiện nay, giáo viên quan tâm
chưa đúng mức đến phần hướng dẫn học tập và chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh. Nhiều
trường hợp giáo viên chỉ tranh thủ vài giây cuối cùng của giờ học để dặn dò một cách sơ sài,
vắn tắt. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng học sinh lười
tư duy, lười suy nghĩ, không phát huy khả năng tự học, tự đọc hiểu và cảm thụ tác phẩm văn
chương.
Ngoài ra, khâu ra đề kiểm tra, sửa bài và chấm điểm của giáo viên cũng chưa được
thực hiện theo quy trình hợp lí, không ít đề bài có yêu cầu quá cao hoặc thiếu chính xác về
mặt khoa học, diễn đạt không rõ ràng trong sáng. Khó khăn về phía học sinh là không hiểu
được yêu cầu của đề, hoặc hiểu đề nhưng không thể làm sáng tỏ những yêu cầu quá cao, quá
khó khăn đối với trình độ người học. Bên cạnh đó, việc sửa bài cho học sinh còn nhiều thiếu
sót, giáo viên phần lớn chỉ sửa bài chung chung trên lớp, còn lời phê cho bài làm cụ thể thì
hết sức sơ sài, không chỉ ra điểm mạnh và mặt yếu, cũng không gợi ý hướng khắc phục thế
nào. Thậm chí nhiều bài làm chỉ được đánh giá bằng điểm số, ngoài ra không có nhận xét và
sửa chữa gì thêm. Và phần lớn điểm số cho bài làm của học sinh cũng chỉ được giữ ở mức 4,
5, 6 điểm và rất hiếm bài đạt điểm 9, 10. Mặc dù có nhiều bài làm cũng rất xứng đáng được
những điểm này. Hậu quả là học sinh càng ngày càng lười học tập, bởi các em không biết
đâu là chỗ yếu kém của mình để cố gắng khắc phục và dù có cố gắng nhiều hơn nữa thì kết
quả cũng không có gì thay đổi.
Nhìn chung, việc đổi mới phương pháp dạy học tuy đã được đặt ra trorg nhiều năm
nay nhưng phần đông giáo viên vẫn dạy theo phương pháp cũ. Đánh giá những thành tựu đạt
được và những tồn tại trong dạy học hiện nay, càng nhận thấy vấn đề cấp thiết đặt ra đối với
giáo viên là phải đổi mới phương pháp dạy học văn cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.
2.3 Phân tích nguyên nhân
2.3.1 Nguyên nhân khách quan
Việc giảng dạy tác phẩm kí cũng như việc giảng dạy văn học Việt Nam trong nhà
trường THPT chưa đạt hiệu quả như mong muốn, nguyên nhân có thể kể đến đầu tiên có lẽ là
do chương trình và SGK chưa thực sự đổi mới và chưa phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào
tạo giáo dục hiện nay. Mối liên hệ và thống nhất giữa các phân môn cũng chưa được đảm
bảo. Việc phân bố thời gian giảng dạy các tác phẩm hạn chế cũng là một nguyên nhân dẫn
đến việc giáo viên không có điều kiện để giảng thêm hay thực hiện các hoạt động ngoại khóa
nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Sự tràn lan của tài liệu tham khảo công với việc giáo viên chưa chú ý hướng dẫn và
định hướng cho học sinh trong việc tham khảo… đã khiến nó có tác dụng ngược lại và làm
cho tình hình giảng dạy các tác phẩm văn học trong nhà trường ngày càng khó khăn hơn.
Thực tế đang diễn ra đã chứng minh, khoa học và đặc biệt là khoa học về công nghệ
thông tin do con người phát minh ra chính là cánh tay đắc lực cho tất cả những ai muốn tồn
tại và phát triển. Chuyên gia hàng đầu thế giới về phần mềm Bill Gate cũng đã khẳng định:
“Công nghệ thông tin như một làn thủy triều, nó sẽ cuốn trôi tất cả những ai không hòa nhập
với nó”. Thế nhưng, trong nhà trường THPT, dường như những tiến bộ của khoa học kĩ thuật
vẫn còn rất xa lạ. Các phương tiện nghe, nhìn, trực quan… (mà các nước trên thế giới và
trong khu vực đã sử dụng cách đây vài thập kỉ) cũng chưa được áp dụng một cách rộng rãi và
chưa đáp ứng đủ nhu cầu dạy học môn Văn và đặc biệt là giờ học các tác phẩm kí.
Đời sống cơ chế thị trường cũng có một tác động không nhỏ đến những giờ dạy học
tác phẩm văn chương trong nhà trường. Với xu hướng phát triển của khoa học, kĩ thuật, của
các ngành thuộc lĩnh vực tự nhiên (liên quan đến khuynh hướng chọn nghề nghiệp) và xu
hướng hướng ngoại trong đời sống xã hội hiện nay; do nhận thức phiến diện và thiển cận,
nhiều học sinh cho rằng môn Văn và việc học văn trong nhà trường không mấy quan trọng
và không mấy hữu ích. Vì thế, thái độ của học sinh hiện nay là không thích học, thiếu ý thức
học tập và ít dành thời gian cho việc học môn Văn. Bên cạnh đó, đời sống kinh tế khó khăn
của giáo viên cũng khiến họ không có hoặc ít có điều kiện đầu tư, nghiên cứu nâng cao hiệu
quả giảng dạy.
Việc nghiên cứu vá áp dụng các phương pháp giảng dạy vào nhà trường THPT không
đến nơi đến chốn, nửa vời, cũng là một nguyên nhân đáng kể làm khó khăn thêm cho tình
hình giảng dạy những tác phẩm kí hiện nay. Nội dung SGK thì có đổi mới nhưng phương
pháp thì vẫn gần như dâm chân tại chỗ, hoặc có thì chỉ dừng lại ở việc mò mẫm và lẻ tẻ. Việc
tìm tòi, học tập, nghiên cứu những phương pháp mới trên thế giới, trong khu vực áp dụng
dụng vào nhà trường chúng ta, cũng như việc tìm tòi, sáng tạo những phương pháp mới hiện
nay chưa được thực hiện một cách có khoa học, chưa có chiến lược ở tầm vĩ mô và chưa có
sự quan tâm thật sự của cấp quản lý. Quan trọng hơn, nhiều anh chị giáo viên mặc dù cũng
nhận thấy những thiếu sót, hạn chế của các phương pháp cũ và những mặt tích cực của
những phương pháp tiến bộ, nhưng do không có thời gian, cộng với những ràng buộc về
quản lý chuyên môn nên ít thực hiện những cải tiến, những sáng tạo hay áp dụng các phương
pháp mới vào quá trình giảng dạy. Hơn nữa, nhiều giáo viên chưa thoát được tình trạng sợ
“ướt”, sợ “cháy” giáo án, hay sợ không kịp chương trình, sợ học sinh không làm được bài
khi đi thi…
Sự đổi chưa có sự đồng bộ, đổi mới nội dung mà chưa đổi mới phương pháp, chưa đổi
mới quản lý; đổi mới ở THPT mà Đại học vẫn còn trì trệ nhiều năm… cũng là nguyên nhân
ảnh hưởng đến quá trình giảng dạy môn Văn mà cụ thể là giảng dạy tác phẩm kí trong nhà
trường phổ thông. Ngoài ra, việc chúng ta vẫn thực hiện theo kiểu “thi thế nào, dạy thế ấy”
và kết quả thi cử của học sinh chính là thước đo về thành quả lao động của giáo viên (dù theo
hình thức thi cử hiện nay thì kết quả thi cử của học sinh chưa hẳn đã đánh giá chính xác khả
năng học tập của học sinh) cũng là một nguyên nhân khiến việc giảng dạy tác phẩm văn học
nói chung chưa đạt hiệu quả.
2.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía giáo viên, những người trực tiếp thực hiện
giờ dạy các tác phẩm kí và tác phẩm văn học trong nhà trường nói chung. So với vài năm
trước đội ngũ giáo viên đã có sự trưởng thành và phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn còn nhiều giáo viên thể hiện những hạn chế, những non kém về
kiến thức, về kỹ năng sư phạm, nhất là những kiến thức thực tế. Điều này xuất phát từ việc
nhiều giáo viên không xem trọng việc học tập, nghiên cứu, đọc thêm tài liệu tham khảo để
nâng cao tri thức, kĩ năng sư phạm. Những bài giảng được soạn từ nhiều năm vẫn tiếp tục sử
dụng cho đến nhiều thế hệ học sinh mà không có sự bổ sung, thay đổi. Những cảm xúc về
văn chương qua năm tháng do không được vun đắp, bồi dưỡng đã mòn dần đi… Kết quả là,
những giờ dạy văn diễn ra khô khan và chỉ thực hiện một nhiệm vụ duy nhất là truyền thụ tri
thức, mà tri thức ở đây cũng là tri thức có sẵn. (Nguyên nhân này dẫn đến tình trạng: nhiều
học sinh vào lớp không theo dõi bài, không ghi bài vì đã mượn tập của các anh chị lớp trước,
hoặc mượn những lớp học trước để chép bài…). Nhiều giờ giảng văn, giáo viên không hề có
một cảm xúc, một rung động nào với tác phẩm và tất nhiên cũng không thể khơi gợi những
cảm xúc nơi học sinh. Như vậy, có thể khẳng định, chính việc giáo viên không có thái độ
nghiêm túc học tập, rèn luyện tri thức là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các giờ giảng văn
diễn ra không mấy thành công và học sinh ngày càng không yêu thích văn học.
Ngày nay, khi xã hội phát triển, dân trí phát triển, những bài viết, công trình nghiên
cứu về các tác phẩm có giá trị (được giảng dạy trong nhà trường) của các nhà nghiên cứu,
phê bình và bạn đọc gần xa xuất hiện trên văn đàn ngày càng nhiều. Nhưng những bài giảng
của giáo viên trong nhà trường thì vẫn không thay đổi. Có nghĩa là, những thành tựu của lý
luận phê bình vẫn đứng ngoài, đứng xa quá trình giảng dạy tác phẩm kí và văn học nói chung.
Trong khi sự cảm nhận của các thế hệ bạn đọc đã khiến cho nhiều tác phẩm ngày càng có giá
trị, có sức sống lâu bền thì dường như các tác phẩm văn học đang mất dần cái sinh mệnh
trong cuộc sống – nhà trường của nó.
Vậy tại sao? Do đâu có những giáo viên thiếu ý thức học tập, nghiên cứu nâng cao tri
thức, trình độ, tay nghề? Theo chúng tôi, thực chất không phải họ không thích, không muốn
học tập mà một phần vì những lí do sau:
- Trước hết, phải thấy rằng, đời sống của giáo viên THPT, tuy được sự quan tâm của
nhà nước và đã ổn định nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Vì thế, nếu để thời gian vào việc học
tập, nghiên cứu thì không những họ không có điều kiện kinh tế để làm mà thu nhập của họ
cũng vì vậy mà giảm sút.
- Việc quản lý con người và quản lý chuyên môn ở các Sở Giáo dục – Đào tạo, ở các
trường THPT vẫn chưa thực sự tạo điều kiện, chưa có biện pháp tốt nhất thúc đẩy việc học
tập, nghiên cứu của giáo viên. Thực tế, có những giáo viên không phải dạy 16 tiết một tuần
mà là 20, có khi 24 tiết. Chưa kể họ còn phải đảm trách công tác chủ nhiệm và những công
tác khác.
- Sinh hoạt chuyên môn của các tổ Ngữ văn ở trường THPT chưa thật sự là nguồn
động viên, khích lệ giáo viên tham gia các hoạt động nghiên cứu, học tập. Tổ chuyên môn
chưa thật sự là nơi để giáo viên có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Quá trình đào tạo giáo viên văn học ở trường đại học Sư phạm chưa chú ý đến việc
rèn luyện cho người giáo viên văn học có ý thức, thói quen nghiên cứu và khả năng tự
nghiên cứu. Đặc biệt, hiện nay trong nhà trường THPT và ngay cả ở các trường đại học vẫn
chưa chú trọng đến phương pháp hướng dẫn để học sinh, sinh viên biết cách đọc – tự học, tự
nghiên cứu tác phẩm. Học sinh chưa có thói quen tự học, thói quen đọc (đọc hiểu) tác
phẩm… Điều này dẫn đến việc các em không có thói quen chủ động trong học tập. Đồng
thời, cũng không dám phát biểu những suy nghĩ của mình ngay cả khi biết rằng những suy
nghĩ đó là đúng. Không hướng dẫn để các em biết tự tìm tòi, suy nghĩ cũng đồng nghĩa với
việc làm thui chột những sáng tạo và những khả năng tiềm ẩn trong mỗi người học.
Tóm lại, với tình hình giảng dạy tác phẩm kí hiện đang gặp nhiều khó khăn như hiện
nay, người giáo viên muốn dạy tốt những bài kí thì cần có quan niệm chính xác về khả năng
lớn lao và vai trò quan trọng của thể văn này. Một số giáo viên vân còn quan niệm cho thể kí
là thể văn thứ yếu, không có giá trị bằng truyện, nghĩ như vậy là sai bởi mỗi thể loại văn học
đều có những đặc điểm riêng của nó. Do đó, người giáo viên cần phải dựa vào những đặc
điểm của thể kí mà giảng thì mới khai thác hết được giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài
văn. Trong thể kí, có nhiều kiểu văn cho nên khi giảng dạy, giáo viên cần phải dựa vào đặc
điểm của từng kiểu: kí sự, bút kí, nhật kí, tùy bút, … mà giảng. Hiện nay, giảng một bài kí
đòi hỏi ở người giáo viên một công trình chuẩn bị rất kĩ và vì thế khá vất vả. Hiện thực xã
hội của ta rất phong phú, giảng một bài kí phải am hiểu tình hình thực tế mọi mặt, không thể
chỉ nói chung chung được. Thể kí, với nghệ thuật chân chất, xác thực của nó, đòi hỏi người
viết kí phải có một vốn sống phong phú và một trình độ kĩ thuật già dặn. Có như vậy, tác
dụng của bài văn mới đi thẳng được vào tâm hồn người đọc nên người giảng dạy kí cũng cần
phải trau dồi cho mình vốn sống, vốn hiểu biết thì mới truyền cảm cho học sinh được.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP VÀ THỰC NGHIỆM GIẢNG DẠY
TÁC PHẨM KÍ Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Trước tình hình giảng dạy tác phẩm kí như đã nói ở trên, các tất yếu quan trọng trong
việc giảng dạy tác phẩm kí được hay, được mọi người chú ý và quan tâm là chúng ta phải có
phương hướng, biện pháp trong việc giảng dạy kí, có như vậy thì chất lượng trong một giờ
dạy tác phẩm kí mới được nâng cao.
3.1 Phương hướng giảng dạy tác phẩm kí
3.1.1 Nắm vững đặc điểm tâm lý học sinh
Trong dạy học văn, học sinh là nhân vật hoạt động tích cực. Trình độ nhận thức và đặc
điểm tâm lý lứa tuổi của các em là những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình cảm
thụ, tiếp nhận tác phẩm văn học. Trước đây, trong phương pháp giảng dạy văn học, có một
thời kì người ta không quan tâm đến đặc điểm này ở học sinh mà chỉ quan tâm đến nội dung
kiến thức cần truyền đạt. Sau khi xác định lại vai trò chủ thể của người học, nhiều nhà khoa
học, nhà lí luận và các nhà giáo đã quan tâm đến vấn đề này nhiều hơn. Từ đó các ngành
giáo dục học, xã hội học, tâm lí học… hướng vào nghiên cứu tâm lý học sinh trong quá trình
dạy học. Những công trình điều tra về năng lực nhận thức cùng hứng thú học tập của học
sinh là chỗ dựa đáng tin cậy để các nhà sư phạm có cơ sở soạn thảo, điều chỉnh nội dung
chương trình, sách giáo khoa về phương pháp dạy học cho phù hợp với trình độ của các em.
So với học sinh tiểu học và trung học cơ sở, sự phát triển về khả năng văn học của học
sinh trung học phổ thông hình thành theo một quy luật khác. Lứa tuổi này đã có sự phát triển
về thể lực, về trí tuệ cũng như trình độ nhận thức. Bên cạnh đó, lứa tuổi học sinh trung học
phổ thông cũng đã bắt đầu hình thành thế giới quan và xác lập được tiêu chuẩn đánh giá
nghệ thuật. Trong giờ học văn, các em tỏ ra có nhiều đòi hỏi ở giáo viên hơn, có khả năng
đánh giá giáo viên chính xác hơn so với học sinh lớp dưới. Các em có thể yêu thích và coi
trọng nghệ thuật, đồng thời hứng thú nghệ thuật cũng trở nên khá sâu sắc và ổn định. Các em
có nhu cầu đọc sách, tự mình cảm nhận, đánh giá và có khả năng đánh giá sâu sắc vấn đề
trong tác phẩm. Các em cố gắng xây dựng quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối với
các vấn đề xã hội, tư tưởng chính trị, đạo đức. Trước đây, do chưa nhận thức đúng đắn về
điều này nên giáo viên mắc phải một sai lầm cơ bản là chỉ coi học sinh như một khách thể,
một đối tượng tiếp thụ kiến thức của giáo viên. Trong trường hợp như vậy, việc học văn theo
phương pháp cũ đã một phần kìm hãm sự phát triển văn học của học sinh. Từ vai trò chủ thể,
các em trở thành thụ động, lệ thuộc hoàn toàn vào giáo viên. Đây có thể là nguyên nhân sâu
xa của tình trạng học sinh không hứng thú, thậm chí chán ghét giờ học văn.
Khác với học sinh tiểu học và trung học cơ sở, học sinh lứa tuổi trung học phổ thông
đã nhận thức được mối quan hệ giữa bạn đọc và tác phẩm là mối quan hệ thẩm mĩ. Chính vì
thế, các em không đồng nhất cuộc sống trong tác phẩm với cuộc sống ngoài thực tiễn, đồng
thời không xem tác phẩm là cái cớ để biểu hiện những tư tưởng và tình cảm. Trong khi đọc
sách, các em ý thức được rằng: “các hình tượng đang vận động trong trường nhìn là những
hình tượng của cuộc sống và hiểu rằng đó không phải là bản thân của cuộc sống mà chỉ là
sự phản ánh nghệ thuật của nó mà thôi”[52, tr.57]. Điều đó cho thấy học sinh đã nắm bắt
được nghệ thuật trên cơ sở của tư duy khái quát, và bộc lộ thái độ khách quan, toàn diện
trong đánh giá, lĩnh hội tác phẩm văn học. Bên cạnh đó, ở lứa tuổi này, tính chủ định cũng
được phát triển mạnh mẽ ở tất cả các quá trình nhận thức. L.I. Bojovich thừa nhận: “Khác
với thiếu niên, là lứa tuổi trong một chừng mực đáng kể, vẫn hướng về việc tự nhận thức bản
thân mình, cảm xúc của mình, khác với các em học sinh nhỏ hoàn toàn bị cuốn hút vào thế
giới bên ngoài, học sinh các lớp lớn trong nhà trường lại cố gắng tìm hiểu cái thế giới bên
ngoài ấy nhằm tìm thấy chỗ đứng của mình trong đó, và cũng để có một chỗ dựa mà xác lập
quan điểm và niềm tin của mình”[73, tr. 75]. Ngoài ra, qua cách phân tích đánh giá của học
sinh, có thể nói các em có sự trưởng thành về nhận thức lí tính. “Các em có khả năng tư duy
lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo trong những đối tượng quen biết đã
được học hoặc chưa được học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất
quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển” [27, tr. 72]
Cùng với sự phát triển về trình độ nhận thức là sự hình thành tâm lí tự ý thức của học
sinh. Tâm lí tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển của lứa tuổi học sinh trung
học phổ thông được xuất phát trên cơ sở của những mối quan hệ giữa người với người, giữa
trí tuệ và tình cảm, giữa vị trí đảm nhận với trách nhiệm được giao. Quá trình phát triển tâm
lí tự ý thức của học sinh diễn ra mạnh mẽ và sôi nổi, làm cho thanh niên có nhu cầu tự khám
phá những đặc điểm tâm lí và lí giải nó theo quan điểm riêng, theo mục đích sống và hoài
bão của mình. Ngoài việc nhận thức về vị trí của bản thân trong xã hội, học sinh còn biết tự
đánh giá nhân cách nói chung trong toàn bộ những thuộc tính nhân cách. Và việc biết nhìn
nhận, đánh giá theo quan điểm riêng chính là một biểu hiện của khả năng cảm thụ, sáng tạo
của các em trong lĩnh vực tiếp nhận văn học.
Một khi đã nhận thức rõ tâm lí của học sinh, ta thấy việc tạo hứng thú cho các em
trong giờ văn là một yêu cầu hết sức cần thiết. Con người học sinh mà chúng ta đào tạo là
con người mới, con người sáng tạo, con người có phẩm chất. Và những phẩm chất này chỉ có
thể đạt được thông qua con đường chuyển biến và chuyển hóa tự thân chủ thể học sinh dưới
tác động của nhà trường, gia đình và xã hội. Không có một sự hình thành nhân cách nào đi
ngoài sự vận động có ý thức của bản thân chủ thể. Nếu chính bản thân học sinh chưa có sự
chuyển biến về tư tưởng tính cảm thì ta không thể đào tạo học sinh đó thành những người có
sự phát triển về năng lực văn học thật sự. Vì vậy, phát huy năng lực chủ thể học sinh trong
giờ văn chính là huy động một cách có cơ sở khoa học những năng lực chủ quan của các em,
để các em thật sự hứng thú và chủ động tham gia vào quá trình tiếp nhận tác phẩm. Có như
vậy, giờ dạy học văn mới đạt hiệu quả như mong muốn.
3.1.2 Tổ chức giờ học theo phương pháp chủ động tích cực
3.1.2.1. Đặc điểm và yêu cầu của phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học chủ động, tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động
trái với không hoạt động, thụ động. Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc tích cực
hóa hoạt động nhận thức của học sinh, nghĩa là hướng vào phát huy tính tích cực, chủ động
của người học chứ không chỉ là hướng vào việc phát huy tính tích cực của người dạy.
Thực hiện dạy và học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp dạy học
truyền thống. Các sách lí luận dạy học đã chỉ rõ, về mặt hoạt động nhận thức thì phương
pháp thực hành là “tích cực” hơn phương pháp trực quan, phương pháp trực quan thì “sinh
động” hơn phương pháp thuyết trình. Muốn thực hiện dạy và học tích cực thì cần phát triển
phương pháp thực hành, phương pháp trực quan theo kiểu tìm tòi từng phần hoặc nghiên cứu
phát hiện, nhất là khi dạy các môn khoa học thực nghiệm. Theo hướng trên, người giáo viên
cần quan tâm đến những vấn đề sau:
- Đề xuất được một hệ thống câu hỏi đa dạng, phong phú và hấp dẫn. Ngoài những
câu hỏi tái hiện (sử dụng hạn chế), giáo viên cần biết cách đặt ra những câu hỏi mở, khuyến
khích học sinh suy nghĩ, nghe học sinh trả lời một cách tin cậy và thân ái. Cần huy động mọi
học sinh ở các trình độ khác nhau tham gia vào việc trả lời các câu hỏi và đóng góp ý kiến.
- Linh hoạt trong việc tổ chức cho học sinh thảo luận cũng như tiến hành các hoạt
động khác theo nhóm. Hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ làm tăng hiệu quả học tập vì học
sinh có điều kiện để chia sẻ kinh nghiệm, bộc lộ suy nghĩ, hiểu biết, thái độ của mình. Trong
hoạt động nhóm, tư duy tích cực của học sinh phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của
phương pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức.
- Lên kế hoạch và chuẩn bị bài giảng sao cho có thể kết hợp các kiến thức của bài
học với các ví dụ tương ứng, sử dụng những kiến thức liên quan đến môi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHPPDH030.pdf