MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU . 1
1. Lý do chọn đề tài . 1
2. Lịch sử vấn đề . 2
2.1. Về thơ . 2
2.1.1. Trước cách mạng . 2
2.2.2. Sau cách mạng. 4
2.2. Về văn xuôi . 7
3. Phạm vi nghiên cứu . 10
4. Đóng góp mới của Luận văn . 10
5. Phương pháp nghiên cứu . 10
6. Cấu trúc luận văn . 11
Chương 1. SỰ XUẤT HIỆN CỦA THẾ LỮ TRONG BỐI CẢNH VĂN
HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 30 - 45 . 12
1.1. Bối cảnh văn hoá, xã hội Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 . 12
1.1.1. Vài nét về tình hình chính trị - văn hoá - xã hội . 12
1.1.2. Sự nở rộ và phát triển các khuynh hướng, nhóm phái văn học . 15
1.1.3. Sự xuất hiện một thế hệ nhà văn, nhà thơ tài năng và sự hoàn thiện
về thể loại . 17
1.2. Vị trí vai trò của Thế Lữ trong sự hình thành và phát triển của một số
thể loại văn học mới. 20
1.2.1. Cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ . 22
1.2.2. Sự xuất hiện của Thế Lữ . 25
Chương 2. NHỮNG PHẨM CHẤT CÁCH TÂN TRONG THƠ THẾ LỮ . 30
2.1. Quan điểm nghệ thuật của Thế Lữ - Một bước tiến so với quan điểm
nghệ thuật của văn học trung đại . 30
2.1.1. Khái quát quan điểm nghệ thuật văn học trung đại . 30
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ . 33
2.2. Những cách tân về hình thức và nội dung nghệ thuật . 39
2.2.1. Thế Lữ - Một sự đổi mới về cảm hứng sáng tạo . 39
2.2.1.1. Thiên nhiên. 39
2.2.1.2. Tình yêu . 45
2.2.1.3. Cõi tiên . 50
2.2.2. Cách tân về hình thức (hình thức biểu hiện) . 59
2.2.2.1. Đổi mới cấu trúc câu thơ . 60
2.2.2.2. Phong phú về thể thơ . 67
2.2.2.3. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh bằng chất liệu hội hoạ . 70
2.2.2.4. Tài hoa trong nghệ thuật diễn tả âm thanh . 74
2.2.2.5. Nhạc điệu trong thơ Thế Lữ . 76
2.3. Tiểu kết . 79
Chương 3. THẾ LỮ VỚI NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ VĂN XUÔI
NGHỆ THUẬT . 81
3.1. Thế Lữ với thể loại văn xuôi mới . 81
3.2. Truyện trinh thám . 84
3.2.1. Nguồn gốc truyện trinh thám . 84
3.2.2. Thế Lữ với thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam . 85
3.2.2.1. Cốt truyện . 85
3.2.2.2. Nhân vật . 90
2.2.2.3. Cách giải mã độc đáo trong truyện trinh thám của Thế Lữ . 93
3.3. Truyện kinh dị . 100
3.3.1. Truyện kinh dị tiếp nối dòng truyện truyền kỳ . 100
3.3.2. Sự khác biệt giữa truyện kinh dị của Thế Lữ và truyện truyền kỳ . 101
3.3.2.1. Nghệ thuật kể chuyện . 104
3.3.2.2. Nghệ thuật tả . 108
3.3.2.3. Cách giải thích khoa học trong truyện kinh dị của Thế Lữ . 116
PHẦN KẾT LUẬN . 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 133
141 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3204 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g dừng lại chữ cuối
một câu thơ. Do đó, câu thơ của Thế Lữ không phải là một câu ngữ pháp mà
là một mảng thơ dài kiến trúc theo văn phạm tiếng Pháp kiểu như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
(Nhớ rừng)
Có thể nói đây là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Nhớ rừng, Thế Lữ
không sử dụng một câu ngắn mà sử dụng một mảng thơ dài để diễn rả nỗi nhớ
một thuở vàng son ngự trị một thời oanh liệt và nỗi thất vọng đau đớn, cay
đắng của chúa sơn lâm khi chợt tỉnh giấc mộng trở về với thực tại.
Hay trong bài thơ Cây đàn muôn điệu, Thế Lữ lại sử dụng cú pháp này
để miêu tả.
"Dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhấn
Ánh tưng bừng linh hoạt nắng chiều xuân
Vẻ sầu muôn âm thầm ngày mưa gió,
Cảnh vĩ đại sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ"
Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay
Cảnh cỏ hàn nơi nước đọng bùn lầy
Thú án lạn mơ hồ trong ảo mộng
Chí hăng hái đua ganh đời náo động,
Tôi đều yêu, đều kiếm, đều say mê"
(Cây đàn muôn điệu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
Một đoạn thơ chín dòng chỉ gồm có một câu văn phạm mà qua đó Thế
Lữ đã đưa ra cả một tuyên ngôn nghệ thuật. Miêu tả vẻ đẹp yêu kiều tha thướt
của giai nhân, vẻ rộn ràng của tiết trời mùa xuân, vẻ âu sầu của ngày mưa gió,
một cảnh vĩ đại, một nét mong manh, cảnh cơ hàn hay thú sán lạn... Thế Lữ
đã sử dụng kiểu cấu trúc này có tác dụng giải phóng tư duy lôgic ra khỏi
khuôn khổ gò bó của câu thơ cũ. Trong giới hạn chỉ có một câu, nhà thơ đã
đưa vào đó một thế giới muôn hình, muôn điệu mà câu thơ vẫn trong sáng. Đó
là cái tài của con người giữ ấn tiên phong.
Thơ trung đại thường chú ý đến hình thức của bài thơ, nào là bài thơ
nhất thiết phải năm bảy chữ trong một câu, nào là bài thơ chỉ đúng có bốn câu
hay tám câu... Do vậy trong một bài phải sử dụng triệt để nghệ thuật cô đọng,
hàm súc, dồn ý tứ vào câu chữ hay là thêm nhiều điển tích, điển cố ngắn gọn,
để người đọc tự mà tìm hiểu, hay nếu cần thì bỏ bớt các liên từ, giới từ, hư từ,
mà các cụ cho là không cần thiết. Cho nên nhiều khi câu thơ trở nên tối nghĩa
người đọc không sao hiểu nổi cho dù có cố công mà suy đoán. Ví dụ, như hai
câu mở đầu trong Cung oán ngâm khúc:
"Trải vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng"
Phải chú giải rất nhiều về hai câu thơ này mà chưa chắc đã thuyết phục
được người đọc. Cũng vì nhu cầu diễn đạt được hết ý của mình nên trong thơ
Thế Lữ thường đề cao tính dư thừa. Trong câu thơ nhà thơ dùng rất nhiều hư
từ như: mà, trong lúc, vì chưng, phải đâu... Ví dụ như:
"Vì chưng ta cũng biết yêu đương
Mà cuộc tình duyên gặp giữa đường
Trong lúc non sông mờ cát bụi
Phải đâu là hội kết uyên ương"
(Tiếng gọi bên sông)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
Thế Lữ còn dùng lối "bắc cầu" thông dụng trong thơ Pháp cho câu thơ
trên chảy tràn xuống câu dưới thật là mới mẻ độc đáo:
"Lòng thơ xưa có ngón tay tiên
Mơn trớn: tai nghe tiếng dịu hiền
Trong cảnh gió đưa xuân sắc thẳm
Đa tình yêu vẻ đẹp thiên nhiên"
(Mộng tưởng)
Xuân Diệu trong bài Đọc thơ Thế Lữ đã nhắc lại rằng "thi sĩ đã có
những cách tân về hình thức. Cách ngắt câu chấm câu, thể hiện cho câu trên
tràn quàng xuống câu dưới các nhà thơ mới chúng tôi lúc ấy rất thú vị".
Ngoài ra, Thế Lữ đã tìm ra một cách thể mới cho Thơ mới, kiểu chấm
câu giữa dòng, ngắt câu giữa dòng và loại dòng có nhiều câu. Đó là cách tân
hết sức mới mẻ của Thế Lữ:
"Cảnh vắng trời hanh, giáng mái chiều
Buồn xa ngưng lại nỗi đìu hiu...
Bỗng đâu xao xuyến câu reo gió
Bụi chạy đường khô lá đuổi theo"
(Chiều)
"Nàng Thơ ơi! Nàng thơ! - Ta buồn lắm.
Nắng gay gắt trên khóm sen không thắm,
Gió thờ ơ không động bóng tàn cây;
Dưới trời xanh, mây quá trắng không bay"
(Giục hồn thơ)
Và
"Cao Thâm hỡi! Ôi vô cùng! Vô để!
Mây hằng bay, sóng hằng cuốn, gió không ngừng"
(Trước cảnh cao rộng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
Sau này Xuân Diệu đã vận dụng rất thành công kiểu câu này, để diễn rả
sự gấp gáp, vội vã của tình yêu:
"Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi".
(Tương tư chiều)
Để diễn tả Đêm xuân sầu ảo não, tuyệt vọng Chế Lan Viên cũng sử
dụng kiểu câu này:
"Trời xuân vắng. Cỏ cây rêu xào xạc,
Bóng đêm luôn hoảng hốt mãi không thôi"
(Đêm xuân sầu)
Những thay đổi cú pháp tạo điều kiện cho những thủ pháp nghệ thuật
khác như cho phép đảo chủ từ để tạo hình ảnh táo bạo, mới mẻ. Trong thơ ca
cổ ngày xưa cũng dùng lối đảo ngữ như vậy nhưng vẫn theo một công thức
chung ảnh hưởng cấu trúc chữ Hán, do vậy nghe vẫn rất giống nhau kiểu như:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng gỏi cầm ve lầu tịch dương"
(Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)
Hay:
"Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ"
(Tức cảnh chiều thu - Bà Huyện Thanh Quan)
Nhưng đến Thế Lữ thì nghệ thuật lật ngược chủ từ trở nên đặc sắc,
không ai có thể táo bạo làm những câu như: "bên rừng thổi sáo một hai kim
đồng". Trong bài Nhớ rừng, Thế Lữ đã chủ tâm đảo chủ từ tạo nên một hình
ảnh chưa từng thấy:
"Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Trong câu thơ có sự tân kỳ về hình ảnh "chết mảnh mặt trời" để nói về
lúc mặt trời lặn. Hình ảnh này gợi ra được cái nhìn táo bạo của con hổ muốn
dẫm nát cả vũ trụ. Ta thấy rằng Thế Lữ đã chuộng lối đảo ngữ như vậy và sử
dụng rất nhiều lần:
- Đỗ bờ sông trắng con thuyền bé
Cạnh lớp lau già, gió lắt lay"
(Bên sông đưa khách)
- Cơn gió thổi lá bàng rơi lác đác
Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành"
(Con người vơ vẩn)
Dường như Thế Lữ, thuở ấy có chủ tâm làm cho câu thơ Việt Nam trở
nên mới mẻ, phong phú mà sáng sủa - thi sĩ muốn tạo cho câu Thơ mới nhiều
khả năng nhất về mặt diễn đạt cũng như truyền cảm.
Để thoả mãn nhu cầu, Thơ mới còn tấn công vào những phép tắc của
Thơ cũ. Những câu thơ viết theo khuôn khổ, có hạn chữ, hạn vần đã không
thể đứng vững được. Hán từ đè nặng những điển tích, điển cố cầu kỳ, khuôn
sáo, ước lệ cũ mất dần đi, làm một bài thơ người ta không bị gò bó trong một
khuôn khổ có sẵn nữa. Thế Lữ đã chú ý mở rộng câu thơ cho hợp với độ ngân
nga, vang vọng, mênh mông của tiếng chuông:
"Sương lam gieo nỗi buồn mênh mông trên đồng vắng,
Nắng chiều xuân rung rinh trong cảnh trời yên lặng
Bỗng thong thả rơi một tiếng chuông chùa,
Ở chân trời hay trong cõi hư vô?"
Tuy Thơ mới không quy định về số câu, số chữ, cách gieo vần nhưng
trong thực tế, khi làm thơ các nhà thơ không khỏi tuân theo quy luật tự nhiên
của âm thanh tiết tấu vì thế họ thường đặt câu 5 chữ hoặc 10 chữ, phổ biến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
hơn cả và dần dần ổn định là thế thơ 8 chữ, Thế Lữ hay sử dụng thể thơ này
và có cộng đồng trong việc làm cho nó trở nên thuần thục:
"Suốt canh thâu đồng hồ treo bức vách
Thong thả đưa thong thả đếm từng giây
Rành rọt điểm trong lòng ta tĩnh mịch
Trong lòng ta u tối bóng mưa bay"
(Đêm mưa gió)
Thế Lữ đã tiếp thu và cải biến một cách mạnh bạo hình thức của thơ ca
dân tộc là ca trù kết hợp với nghệ thuật thơ ca phương Tây sáng tạo ra một
hình thức Thơ mới. Ngoài ra, thi sĩ còn sử dụng cách hiệp vần mới mẻ của thơ
pháp như:
Vần ôm:
Trời có những buổi bình minh êm lặng
Phấn hồng non phơn phớt dải chân mây
Những cô em có đôi má hây hây
Làm phai nhạt cả bầu trời buổi sáng
(Nhan sắc)
Vần giãn cách:
Hoa lặng sống trong đài, khoan độ nở
Cây âm thầm lá gượng xôn xao
Nương bóng tối muôn loài sâu nín thở
Thời gian qua, nghỉ bước trên từng cao
(Ý thơ)
Vần liên tiếp:
Lặng mà nghe ai nảy khúc sầu thương
Ngón tay rung, rụng động cả đêm sương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
Khiến trăng nước đắm say hồn ly biệt
Khiến trong gió ngưng đọng niềm thống thiết"
Tóm lại, Thế Lữ với các chất thơ buổi ban đầu mới mẻ ấy đã đóng góp
cho thơ ca Việt Nam về phương diện nghệ thuật. Sự phá bỏ khuôn khổ cũ của
thơ Đường luật đã làm cho thơ ca mang một khuôn mặt mới trẻ trung và tươi
sáng. Với cách dùng ngôn ngữ sáng tạo, Thế Lữ đã làm cho những câu thơ
của mình có nhiều ý tưởng táo bạo và kỳ lạ, nhịp và vần thay đổi tạo điều kiện
cho nhà thơ có thể giãi bày tâm sự một cách say sưa và phóng khoáng, không
bị gò bó như trước nữa. Tất cả những điều ấy càng khẳng định công lao mở
đường, khơi nguồn của Thế Lữ trong thời điểm Thơ mới đang đấu tranh với
thơ cũ để giành thắng lợi.
2.2.2.2. Phong phú về thể thơ
Là người "mở đường" của phong trào Thơ mới Thế Lữ đã đem đến sự
đổi mới, mạnh mẽ cho thơ ca và sự phong phú về thể thơ. Chỉ trong 48 bài thơ
in trong tập Mấy vần thơ tập mới (1941) ta thấy Thế Lữ sử dụng đến 11 thể
thơ. Nếu đem so sánh với tản Đà trước đó chúng ta dễ dàng nhận thấy: "Công
cách tân cho sự hình thành cái mới đúng với nghĩa của nó phải dành cho Thế
Lữ" (Lưu Khánh Thơ) [177-38].
Chúng ta cùng thống kê lại thể thơ trong những sáng tác của Thế Lữ:
- Thơ 8 chữ trường thiên có 4 bài (Ác mộng, Hoa thuỷ tiên, Trả lời,
Bóng mây chiều): tỷ lệ 4/48 8,5%.
- Thơ 8 chữ nhiều khổ có 7 bài (Khúc ca xuân, Bâng khuâng, Giục hồn
thơ, Ý thơ, Nhan sắc, Đêm mưa gió, Đàn nguyệt) tỷ lệ 7/48 14,9%.
- Thơ lục bát có 7 bài (Tiếng sáo thiên thai, Mấy vần ngây thơ, Bông
hoa rừng, Lời tuyệt vọng, Ma tuý, Sáng, Tối) tỉ lệ 7/48 14,9%.
- Thơ thất ngôn tứ tuyệt có 3 bài (Trưa, chiều, Nàng Thơ lạnh) tỉ lệ
3/48 6,4%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
- Thơ song thất lục bát có 2 bài (Thức giấc, Hồ Xuân và Thiếu nữ) tỉ lệ
2/48 4,25%.
- Thơ thất ngôn trường thiên có 12 bài: (Khúc hát bên sông, Lời than
của nàng Mỹ thuật, tiếng gọi bên sông, Ngày xưa còn nhỏ, Vẻ đẹp thoáng
qua, Hái hoa, Bên sông đưa khách, Tôi muốn đi, Mưa hoa, Yêu, Chiều bâng
khuâng, Đời thái bình), tỉ lệ 12/48 2,5%.
- Thơ năm chữ trường thiên có 1 bài (Mộng ảnh) tỉ lệ 4/48 2,1%.
- Thơ tự do có 10 bài (Nhớ rừng, Lựa tiếng đàn, Con người vớ vẩn,
Cây đàn muôn điệu, Lời mỉa mai, Tự trào, Trước cảnh cao rộng, Người
phóng đãng, Truỵ lạc, Tiếng trúc tuyệt vời) tỉ lệ 10/48 21,3% (chú ý: Thực
chất nhiều bài thơ tự do như Nhớ rừng, Lựa tiếng đàn, Con người vơ vẩn...
là thơ 8 chữ vần chân biến thể, hầu hết là các câu 8 chữ đôi khi dôi ra hoặc
bớt đi vài chữ).
Nếu so sánh với thể thơ của Tản Đà qua tập Tuyển tập Tản Đà Nxb văn
học, H. 1966. Tập thơ có tất cả 219 bài, phân bố như sau:
- Thơ thất ngôn bát cú Đường luật : 64 bài 29%
- Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật : 14 bài 6,4%
- Thơ thất ngôn trường thiên : 14 bài 6,4%
- Hát nói : 15 bài 6,8%
- Lục bát : 31 bài 14%
- Song thất lục bát : 12 bài 5,5%
- Các thể điệu phong thi và ca khúc dân gian : 62 bài 28,5%
So với Thế Lữ, có thể thấy:
- Thể thất ngôn bát cú Đường luật là thể thơ chủ lực của Tản Đà, thì
hoàn toàn vắng bóng trong thơ Thế Lữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
- Thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật còn được Tản Đà hay sử dụng
(6,4%) nhưng cũng không có trong Mấy vần thơ, 1935 chỉ đến Mấy vần thơ,
Tập mới 1941, Thế Lữ mới đưa vào.
- Thể hát nói được Tản Đà sử dụng nhiều (6,8%) nhưng không có
không thơ Thế Lữ (và thơ mới) song hát nói đã hoá thân thành thơ 8 chữ vần
chân tương đối tự do, nhiều khi là 8 chữ biến thể làm thành một thể rất mới
được Thế Lữ sử dụng rất thành công.
- Thể thất ngôn trường thiên (gồm nhiều khổ) được Tản Đà, thỉnh
thoảng sử dụng (6,4%) thì được Thế Lữ phát huy sử dụng khá nhiều (22,5%).
- Thể thơ lục bát có vị trí quan trọng trong thơ Tản Đà 14%, thì vẫn có
vị trí quan trọng trong thơ Thế Lữ ( 15%).
- Phong thất lục bát và các thể điệu gọi là "phong thi" và các khúc dân
gian được Tản Đà khai thác (28%) nhưng Thế Lữ hoàn toàn không sử dụng.
Và nhận xét trên đây đã cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ của Thế Lữ về
mặt thể thơ: dứt khoát chối bỏ thể thất ngôn bát cú Đường luật, không đi vào
sử dụng nguyên vẹn các thể điệu ca khúc dân gian như Tản Đà, vẫn làm nhiều
thơ lục bát, phát triển mạnh mẽ thể thất ngôn trường thiên và sáng tạo ra thơ 8
chữ vần chân từ thể hát nói, sáng tạo ra thơ tự do, cải biên các thể thơ truyền
thống theo hướng hiện đại hoá. Đúng như lời Hoài Thanh - Hoài Chân trong
Thi nhân Việt Nam đã nhận xét "Thế Lữ đã làm rạn vỡ những khuôn khổ
ngàn năm không di dịch" [14-58].
Vậy, tuy là người gương cao lá cờ Thơ mới và mở đường cho nó, Thế
Lữ không chạy theo thơ tự do. Sự đổi mới ở thơ Thế Lữ tuy là rõ rệt mạnh
mẽ không chút rụt rè nhưng không phải vứt bỏ hình thức thể loại truyền
thống mà là đổi mới trong chiều sâu, trong cảm hứng thơ, trong cảm xúc, ở
phương diện hình thức thể loại Thế Lữ đổi mới nổi bật nhất là sự tìm tòi đổi
mới ở điệu thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
2.2.2.3. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh bằng chất liệu hội hoạ
Phong trào Thơ mới ra đời thực sự đưa thơ ca vượt khỏi những ràng
buộc của quy luật cũ. Cũng từ đây một loạt các nhà thơ mới xuất hiện được
đông đảo độc giả lúc bấy giờ mến mộ như Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng
Lư, Xuân Diệu... Mặc dù vẫn có những nhược điểm về hình thức và mang
những âm điệu du dương một cách dễ dãi nhưng thành công của nó là sự đổi
mới trên thi ca truyền thống của dân tộc góp phần vào việc hiện đại hoá thơ
ca Việt Nam.
Cây bút của Thế Lữ thật nhiệm màu khi vẽ lên hàng loạt những bức
tranh sinh động, thi vị, hùng tráng và giàu giá trị tạo hình. Hoài Thanh đã
nhận xét rất tinh thế: "Người say theo những cảnh đẹp của trần gian muôn
hình muôn vẻ" [34-57]. Từ cảnh vĩ đại "sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ" cho
đến "Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay" tất cả đều hiện hữu trong thơ
Thế Lữ.
Vốn yêu thích và có sở trường về hội hoạ đã từng theo học một năm
trường Mỹ thuật Đông Dương. Dưới ngòi bút của Thế Lữ cảnh vật giống như
một bức tranh với gam màu vừa thắm tươi vừa dịu nhẹ mà thật tinh tế. Ngay
từ thuở nhỏ cậu bé Nguyễn Thứ Lễ đã nhìn thế giới xung quanh mình "như
gió hồng mơn, như nắng dịu" (Ngày xưa còn nhỏ) khi lớn lên lúc vui chơi nhà
thơ cảm nhận:
"Trong lúc chim xuân mừng nắng mới
Nhuốm đào sắc trắng khóm hoa mai"
(Hái hoa)
Khi nghe Tiếng trúc tuyệt vời, nhà thơ cảm nhận cái hay, cái đẹp của
tiếng sáo như:
"Sương hồng lam nhẹ lan trên sóng biếc
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô
Như khua động nỗi nhớ nhung thương tiếc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
Trong lòng người đứng bên hồ
Nghiêng tựa mình cây dáng thẩn thơ"
Đọc thơ Thế Lữ, chúng ta thấy tâm hồn thi nhân thường bắt gặp con
mắt hoạ sĩ hoặc con mắt nhà điêu khắc. Chính sự gặp gỡ ấy đã làm cho bức
tranh thiên nhiên của ông mang tính biểu tượng cao. Đương thời, hoạ sĩ Trần
Bình Lộc đã mô tả một số bức tranh trong thơ Thế Lữ bằng vài nét phác hoạ
nhưng thật có hồn.
Bên cạnh những gam màu vừa thắm tươi vừa dịu nhẹ, ta còn bắt gặp
gam màu của chất liệu sơn dầu, sơn mài trong thơ Thế Lữ. Do chịu ảnh hưởng
một phần của văn xuôi nghệ thuật Phương Tây nên trong thơ Thế Lữ đã sử
dụng triệt để bút phát tả thực. Nhà thơ đã chiếm lĩnh hiện thực đến từng chi
tiết bằng con mắt của người hoạ sĩ nhạy cảm về màu sắc... Những nét tả thực
vừa có hình, vừa có bóng cụ thể mà vẫn lung linh khêu gợi - Cảnh trong mơ
được Thế Lữ miêu tả như những gì nhìn thấy ở thực tại:
"Từ khung tối mọt nàng kiều diễm,
Nhẹ bước ra tươi như ánh bình minh.
Đôi mắt đen đắm đuối long lanh,
Như đôi ngọc huyền sâu xa huyền bí.
Trên mình ngọc màu xanh lá mạ,
Uyển chuyển in theo nét uốn nhịp nhàng.
Rủ trên vai dải khăn lụa tươi vàng,
Buông lưu luyến trên đôi tay trắng muốt".
(Hoa thuỷ tiên)
Khi đứng trong Bóng mây chiều, Thế Lữ cũng đã vẽ được cả một bức
tranh sơn mài bằng thơ:
"Ánh vàng reo trên mặt hồ sóng gợn
Phản chiếu lên đôi má hồng mơn mởn"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
Nhưng có lẽ đặc sắc và thành công hơn cả là cách xây dựng hình ảnh
trong bài thơ Nhớ rừng. Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ dường như có dịp
tung hoành - Thế Lữ đã làm thơ bằng hồn thơ đầy tính hội hoạ. Chu Văn Sơn
đã có sự so sánh độc đáo " Nếu Hoàng Lập Ngôn vẽ con Hổ - Thế Lữ bằng
hội hoạ đơn thuần, thì Thế Lữ đã vẽ con hổ - Nhớ rừng bằng hội hoạ của ...
thơ. Trong nét bút Thế Lữ, người ta không chỉ thấy hoạ pháp của một hoạ sĩ
từng theo học mỹ thuật Đông dương mà trùm lên tất cả là thi pháp nghiêng về
tạo hình của thi pháp lãng mạn" [38-335].
Tính tạo hình trong bút pháp Thế Lữ chủ yếu thể hiện ở việc khắc hoạ
cái phi thường. Nhưng đặc sắc hơn cả là Thế Lữ tạo hình bằng thơ và vẽ lên
một bức tranh tứ bình tuyệt bút. Thực ra tứ bình là một lối tạo hình quen
thuộc từ cổ điển, người xưa thường khái quát một hiện thực toàn vẹn nào đó
vào bộ tranh gồm 4 bức. Thời gian thì xuân - hạ - thu - đông, thảo mộc thì
tùng - trúc - cúc - mai, nghệ thuật thì cầm - kỳ - thi - hoạ... nhưng bức tranh tứ
bình trong thơ Thế Lữ lại là chân dung khác nhau của một con hổ. Mỗi bức
tranh là một gam màu, một dáng điệu.
Bức thứ nhất thật thi vị:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Gam màu vàng lóng lánh của ánh trăng in trên suối vắng - Chúa sơn
lâm hiện ra như nhà thi sĩ của chốn lâm tuyền với cử chỉ uống ánh trăng tan
đây thơ mộng.
Bức thứ hai, chúa sơn lâm hiện ra như một minh đế trước giang sơn
của mình:
"Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới."
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
Đêm trăng đã nhường chỗ cho chiều mưa. Gam vàng đã chuyển qua
gam xám bạc điểm ánh tươi xanh. Đấng quân vương chốn rừng già đang
phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh vương quốc đương thay da đổi thịt dưới sự
trị vì của mình, trang nghiêm, ưu tư và đầy kiêu hãnh.
Bức thứ ba, chiều mưa đã chuyển sang rạng đông, nền tranh đã rạng rỡ
cái gam màu thắm nắng bình minh. Chúa sơn lâm hiện trong dáng điệu vương
giả cứ nghiễm nhiên ưỡn mình trong giấc ngủ mà hưởng lạc thú nơi rừng
xanh của mình:
"Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng"
Bộ tứ bình khép lại bằng bức tranh đầy ấn tượng hơn cả:
"Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt.
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật..."
Bút pháp tả cảnh ở đây quá thực hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Đọc
thơ mà người đọc ngỡ như xem tranh, từng nét vẽ hiện ra dưới từng câu thơ.
Nhận xét về Nhớ rừng Hoài Thanh viết: "Ta tưởng chừng thấy những chữ bị
xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường, Thế Lữ như một viên tướng
điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng lại
được" (Hoài Thanh - Hoài chân - Thi nhân Việt Nam).
Có thể nói "Thi trung hữu hoạ" là nét đẹp truyền thống của thơ ca cổ
Thế Lữ đã kế thừa tiếp nối việc xây dựng chất hoạ trong thơ đạt đến mức
tuyệt diệu. Từ bài thơ Nhớ rừng đến Cây đàn muôn điệu, Tiếng sáo Thiên thai
và sau tuyển thành tập Mấy vần thơ - Thế Lữ là người đầu tiên có sự sáng tạo
hết sức đặc sắc trong việc xây dựng hình ảnh thơ, góp phần làm nên khúc ca
khải hoàn cho phong trào thơ mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74
2.2.2.4. Tài hoạ trong nghệ thuật diễn tả âm thanh
Cùng với thế giới thiên nhiên và con người, thơ Thế Lữ còn có một thế
giới nghệ thuật đầy hấp dẫn. Bên cạnh việc xây dựng những hình ảnh đặc sắc
trong thơ, Thế Lữ còn tài ba với nghệ thuật diễn tả âm thanh trong thế giới thơ
ca của mình, đặc biệt là khả năng diễn tả tiếng đàn, tiếng sáo.
Đọc thơ Thế Lữ bên cạnh hình ảnh thơ đặc sắc ta thấy âm thanh vang
lên rộn ràng, ríu rít lúc bổng lúc trầm, thánh thót ngân nga ở mọi nơi mọi lúc.
Theo nghiên cứu của T.S Phạm Đình Ân: "Trong tập thơ có 48 bài thì 41 bài
nói đến âm thanh, chiếm tỉ lệ 87%. Chỉ có 7 bài không có âm thanh hoặc âm
thanh ẩn, đó là: Yêu, Nhan sắc, Bên sông đưa khách, Tự trào, Mộng ảnh,
Nàng thơ lạnh, Sáng" [83].
Như vậy, biện pháp hữu hoà âm thanh là nét chủ đạo trong thế giới thơ
Thế Lữ, điển hình là hai bài Tiếng sáo thiên thai và Tiếng gọi bên sông với
những câu thơ đầy gợi cảm.
"Khi cao vút tận mây mờ,
Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh.
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc nữ uốn mình trong không"
(Tiếng sáo thiên thai)
- Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền
Êm như hơi gió thoảng cung tiên
Cao như thông vút, buồn như liễu,.
Nước lặng mây ngừng ta đứng yên.
(Tiếng gọi bên sông)
Lê Tràng Kiều đã từng so sánh tiếng đàn, tiếng sáo của Thế Lữ với
tiếng đàn của Thuý Kiều dưới tài nghệ miêu tả của Nguyễn Du và đã nhận xét
"Cái tài nghệ của Thế Lữ về phương diện này quả không kém Nguyễn Du là
mấy (...). Nếu tiếng sáo của Thế Lữ kém phần thâm trầm réo rắt thì nó lại lơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
lửng, vắt vẻo hơn" [87]. Hoàng Như Mai nhận xét tương tự, ông cho rằng
Nguyễn Du so sánh âm thanh với âm thanh, còn "Thế Lữ lại diễn tả âm thanh,
hình ảnh những vật thể bằng mắt (thị giác) để bằng những cảm giác, cảm xúc
tạo ra bởi hình ảnh, ta cảm thụ âm thanh" (Tạp chí Thế giới mới số 120-
1/1995).
Có lẽ ngoài Nguyễn Du và Thế Lữ không ai có thể tả "tiếng" âm thanh
hay đến thế. Thật là hai bậc kỳ tài của hai thế hệ.
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật âm thanh trong thơ Thế Lữ, T.S Phạm
Đình Ân đã chỉ rõ: "Có 3 loại âm thanh thuộc ba khu vực hiện thực. Về nghệ
thuật, đó là: Tiếng hát, tiếng ngâm họa, tiếng đàn, tiếng sáo... Về thiên nhiên:
tiếng chim, tiếng ve, tiếng dế, tiếng mưa, tiếng sóng. Về cuộc sống hàng
ngày: tiếng buồn, tiếng thở dài, tiếng khóc than, tiếng ân hận, tiếng ồn ào,
tiếng đùa cười... [84]
Đặc biệt có những bài thơ tần số âm thanh xuất hiện rất cao 19 lần
(Hoa thuỷ tiên và Bóng mây chiều), 15 lần (Tiếng gọi bên sông; Lựa tiếng
đàn, Khúc ca hoài xuân):
"Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát
Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời
Gió nồng reo trên hồn sen rào rạt.
Mùa xuân còn hết? Khách đa tình ơi"
(Khúc ca hoài xuân)
"Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao nghe réo dắt?
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây bay, gió quyến mây bay...
Tiếng vi vút như khuyên can, như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may"
(Tiếng trúc tuyệt vời)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
Tiếng là vô hình thế nhưng Thế Lữ làm cho nó trở nên có hình bóng,
Thế Lữ làm cho tiếng sáo trở nên có thần thái, có hồn y như con người vậy.
Quả đúng như lời Hoài Thanh nhận xét Thế Lữ là "Người đã khéo tả hình sắc,
lại khéo tả âm thanh" (Thi nhân Việt Nam).
Cùng với cách xây dựng hình ảnh đặc sắc và sự tài ba trong nghệ thuật
diễn tả âm thanh đã làm nên sự độc đáo và mới mẻ trong thế giới thơ Thế Lữ
góp phần đưa phong trào thơ mới đến sự toàn thắng.
2.2.2.5. Nhạc điệu trong thơ Thế Lữ
Thơ cổ điển cũng có tính nhạc, nhưng tính nhạc này có tính cố định
theo luật bằng - trắc, theo cách gieo vần... đến Thơ mới, tính nhạc đã có sự
biến hoá đa dạng mang dấu ấn cá nhân. Thế Lữ đã đưa tính nhạc vào trong
thơ thật tế nhị. Tính nhạc đó thể hiện điệu tâm hồn riêng của nhà thơ trước
thực tại. Điều đó đã tạo cho thi nhân có một phong cách riêng.
Trong phong trào Thơ mới, khá nhiều nhà thơ quan tâm tạo tính nhạc
trong thơ. Nếu trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư có sự kết hợp tài tình của
âm thanh, hình ảnh tạo nên một âm điệu trong trẻo, êm dịu và mở ra một nền
nhạc thật trong sáng:
"Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng rơi"
Thơ Xuân Diệu miêu tả âm thanh bằng cảm giác âm nhạc bên trong:
"Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ lời
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sáo vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người"
(Nguyệt Cầm)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
Đến với Thế Lữ nhà thơ đã dùng những câu thơ hỗn hợp, nhịp điệu
biến hoá để diễn tả tính nhạc:
"Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao mà réo rắt
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây bay, gió quyến mây bay
Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dắt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may"
(Tiếng trúc tưyệt vời)
Hai câu thơ 5 chữ, tiếp đến là 4 câu thơ dài cùng với sự kết hợp bằng
trắc đã gợi rõ nét âm thanh trầm bổng của tiếng sáo. Việc lặp lại một số phụ
âm đầu gợi tiếng gió (vi, vút, van, dìu dặt, hắt hiu) tạo cảm giác réo rắt của
tiếng sáo trúc bay bổng dìu dặt diệu kỳ. Khám phá hình thức nghệ thuật thơ
Thế Lữ nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ "Thế Lữ là người đã xông xáo đi tìm
điệu mới cho thơ" [64-559].
Nghiên cứu tính nhạc trong thơ Thế Lữ T.S Phạm Đình Ân cho rằng có
hai loại nhạc đi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_NTVA.pdf