Luận văn Thí nghiệm thực hành ảo ứng dụng trong dạy nghề điện ôtô tại trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc- Nghệ An

Đào tạo nghề hiện nay không đơn thuần là quá trình dạy cho người lao động cách sử dụng các công cụ và biến vật chất thô sơ thành các vật dụng hữu ích mà là quá trình cung cấp cho người lao động những con đường để tiếp cận với thông tin, tiếp cận và áp dụng khoa học kỹ thuật để từ đó làm chủ quá trình sản xuất. Để đạt được mục tiêu đó, dạy học thực hành nghề phải đặc biệt được coi trọng. Tuy nhiên, như tác giả đã đề cập ở trên, trong điều kiện trang thiết bị, máy móc phục vụ cho việc TNTH nghề, đặc biệt là với những TNTH cần phải thực hiện trong điều kiện công nghiệp tiêu tốn nhiều thời gian và thường đòi nguồn lực lớn về tài chính và nhân lực, như lĩnh vực tạo hình kim loại Gần đây với sự phát triển của công nghệ phần mềm, nhiều TNTH ảo đã được thực hiện trên máy tính nhảm tiên đoán kết quả điều khiển quá trình, kết quả quá trình xử lý vật liệu,. là một giải pháp tốt cho đào tạo đồng thời mở ra một hướng đi mới cho lĩnh vực đào tạo nghề đó là sử dụng TNTH ảo trong dạy thực hành nghề. Chính vì vậy, nghiên cứu xây dựng và sử dụng TNTH ảo trong đào tạo nghề có vai trò rất quan trọng, tuy nhiên TNTH ảo đề cập trong khuôn khổ luận văn không nhằm mục đích thay thế TNTH thực mà chỉ hỗ trợ quá trình dạy học như làm trực quan hóa những khái niệm trừu tượng, khảo sát các quá trình kỹ thuật, giúp cho người học làm quen với các thao tác, dụng cụ, thiết bị. và thực hiện những chức năng mới nhằm khắc phục những hạn chế của TNTH thực. Là một PTDH mới, TNTH ảo có vai trò:

doc130 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1980 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thí nghiệm thực hành ảo ứng dụng trong dạy nghề điện ôtô tại trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc- Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mang tính chất cấu trúc, linh hoạt của quá trình dạy học. PPDH là cách thức hoạt động của giáo viên, được thực hiện trong quá trình dạy học để tác động đến người học và việc học của họ nhằm hướng dẫn họ học tập và giúp họ đạt được mục tiêu. Quá trình đào tạo kỹ thuật thực hành bao gồm các khâu có quan hệ chặt chẽ với nhau: Mục tiêu- nội dung- phương pháp- phương tiện- tổ chức quá trình và đánh giá. Trong đó khâu phương pháp đào tạo cần đặc biệt coi trọng. Để hình thành năng lực thực hành của người lao động kỹ thuật cần đảm bảo cho người học được luyện tập, TNTH tại nhà trường và tại cơ sở sản xuất tương lai. Với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ như hiện nay, nội dung chương trình các MHIMĐ đào tạo nghề thường xuyên được cập nhật, sửa đổi nhằm đáp ứng được yêu cầu đào tạo. Phương pháp đào tạo luôn phản ánh hình thúc vận động của nội dung dạy học theo đó không ngừng được bổ sung, cải tiến, đổi mới cho thật sự phù hợp với nội dung chương trình MH/MĐ, đáp ứng được những đòi hỏi cao từ người học cũng như sự phát triển của KHKT và công nghệ. Để nâng cao chất lượng đào tạo, hiện nay các CSDN đặc biệt quan tâm tới việc ứng dụng những thành tựu của CNTT vào quá trình giảng dạy nhằm cải tiến, đổi mới phương pháp đào tạo nhằm mục đích tích cực hóa người học, đồng thời giúp người học chủ động, sáng tạo tìm tòi nghiên cứu các phương pháp học tập mới đạt hiệu quả và chất lượng cao hơn. Yêu cầu về phương pháp dạy nghề cho 3 cấp trình độ đào tạo được đề cập tại khoản 2 Điều 12 (cho Sơ cấp nghề), khoản 2 Điều 19 (cho Trung cấp nghề), khoản 2 Điều 26 (cho Cao đẳng nghề) của Luật Dạy nghề; khoản 2 Điều 33 về phương pháp dạy nghề thường xuyên. Qua đó, có thể thấy việc đổi mới phương pháp dạy nghề cần tập trung vào một số phương hướng sau: 1.3.1.1. Phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lấn thứ VIII, Đảng ta đã chủ trương phải nâng cao chất lượng đào tạo mà trọng tâm là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Phát huy tính tích cực sáng tạo không phải là hình thức mà phải làm cho học sinh hứng thú có niềm vui, hạnh phúc, say mê trong học tập. Theo I.F. Kharlamop "Tính tích cực trong hoạt động nhận thức là trạng thái hoạt động của người học, được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự cố gắng trí tuệ với nghị lực cao trong quá trình nơm vững kiên thức cho chính mình" Với tốc độ phát triển nhanh chóng của KHKT, "vòng đời" của mọi công nghệ đều rất ngắn, tri thức tiếp thu được qua quá trình học tập ở cơ sở đào tạo lạc hậu rất nhanh. Trong trường hợp đó, không có cách nào khác là phải trang bị kiến thức nền tảng, các kỹ năng cơ bản và phương pháp học để hình thành ở người học khả năng, thói quen và niềm say mê học tập suất đời, theo tinh thần của thông điệp UNESCO về giáo dục trong thế kỷ 21 là: "Học để biết, học để làm, học để làm người và học để sống với nhau”. Hiện nay chúng ta chỉ mới chú trọng đến học để biết, còn ba vấn đề sau ta ít chú ý. Do đó việc thay đổi phương pháp đào tạo truyền thống thành phương pháp tích cực hóa người học là một sự lựa chọn tất yếu. Nội dung cơ bản là chuyển trọng tâm hoạt động từ giáo viên sang học sinh, đòi hỏi và làm cho học sinh nhận thức được rằng họ phải tự huy động nội năng của mình là chính để chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, thái độ làm phương tiện, hành trang trong cuộc sống sau này. Như vậy, cũng có thể hiểu, tích cực hóa là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển biên vị trí của người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập. Trong đào tạo nghề, việc tích cực hóa hoạt động học tập của người học không chỉ ở bài dạy lý thuyết mà cần phải được thực hiện ở các bài dạy thực hành. Giáo viên cần phải nắm vững các giai đoạn hình thành kỹ năng, tạo động cơ học tập bằng cách kích thích sự tò mò với kiến thức và công nghệ mới, liên hệ kỹ năng đang học với nghề nghiệp thực tế... Hệ thống các PPDH được đổi mới và ngày càng hoàn thiện nhằm mục tiêu hình thành ở người học tính tích cực sáng tạo, tiềm năng trí tuệ nói riêng và nhân cách nói chung để thích ứng với thực tiễn luôn đổi mới đã được định rõ trong Nghị quyết TW2 khóa VIII, “phải đào tạo những con người năng động, sáng tạo, có phẩm chất và khả năng lao động tôi, đó là những con người có năng lực trí tuệ, có kỹ năng nghề nghiệp được cập nhật thường xuyên và có khả năng tự tìm kiêm những tri thức mới cần cho bản thân đáp ứng được yêu cầu kinh tê- xã hội liên tục đổi mới và phát triển " Học tập thường xuyên, học tập suốt đời và sáng tạo không ngừng là những đặc trưng cơ bản của GD- ĐT trong quá trình CNH, HĐH và từng bước tiếp cận nền kinh tế tri thức. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới đối với hệ thống Đào tạo kỹ thuật thực hành phải điều chỉnh để thích hợp với xu hướng toàn cầu hoá, với thay đổi không ngừng của khoa. học công nghệ, CNTT và kéo theo nó là các bước nhẩy vọt với những thay đổi của xã hội. Toàn cầu hoá và cách mạng thông tin đã đánh dấu sự xuất hiện những hình mẫu phát triển mới lấy con người là trung tâm. 1.3.1.2. Tăng cường TNTH, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiên thức vào thực tiễn Kết hợp học với hành là một trong những quan điểm giáo dục quan trọng của Đảng. Việc nắm vững lý thuyết chỉ là để biết, để nhận thức bản chất của sự vật, hiện tượng... vận dụng được, làm được mới là mục tiêu quan trọng của GD- ĐT. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau; công tác TNTH trong các CSDN chưa đáp ứng được yêu cầu hình thành năng lực thực hành nghề của người học. Thực tế rất ít cơ sở đào tạo thực hiện đúng, đủ các bài TNTH theo quy định của chương trình. Thực trạng này đã ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng dạy và học. 1.3.1.3. Tăng cường và sử dụng tốt nhất các điều kiện và phương tiện dạy học nghề Theo khoa học giáo dục hiện đại, phương tiện giáo dục nói chung, phương tiện dạy học nghề nói riêng không chỉ được sử dụng trong khuôn khổ chật hẹp trước đây với yêu cầu trực quan minh họa cho bài giảng TNTH thông thường mà chúng phải ở mức cao nhất có thể góp phần phát triển tư duy độc lập sáng tạo, góp phần giáo dục tư tưởng đạo đức, giáo dục lao động và nói chung là giáo dục nhân cách mới cho học sinh. Quan điểm này cũng đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò chủ thể của học sinh trong dạy- học, trong sử dụng PTDH. Đây là quan điểm chứa đựng nhiều nội dung và ý nghiã mới, phù hợp với đòi hỏi của giáo dục trong giai đoạn hiện nay khi mà khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão cùng với một sự bùng nổ thông tin đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu cũng như nền kinh tế- xã hội đang có những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng hiện đại văn minh. Trong dạy học thực hành nghề, mỗi kĩ năng được hình thành bắt đầu từ những thao tác đơn giản nhất. Bằng việc sử dụng phương tiện dạy học nghề, giáo viên trình diễn cách thực hiện một hệ thống các thao tác, học viên phải sử dụng các giác quan để nhìn, nghe, bắt chước. . . Dùng phương tiện dạy học nghề để trình diễn là chiếc cầu nối giữa lí thuyết và thực hành. Tiếp theo sau cuộc trình diễn là việc ứng dụng kĩ năng vào thực tế công việc. Như vậy trong quá trình đào tạo không thể tách rời giữa phương pháp và phương tiện, phương tiện là điều kiện để truyền tải kiến thức từ người dạy đến người học, từ lý thuyết đến thực hành là yếu tố quan trọng quyết định kĩ năng của người học để đạt tiêu chuẩn kỹ năng nghề, là công cụ góp phần xây dựng những nét nhân cách của người lao động mới khi rời khỏi ghế nhà trường. Do vậy, tăng cường và sử dụng tốt nhất các phương tiện dạy học nghề là một trong những xu hướng quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học thực hành nghề và chỉ có đổi mới phương pháp đào tạo kỹ thuật thực hành theo hướng trên mới đào tạo ra đội ngũ lao động có kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của sản xuất và thích ứng với những biến động của thị trường lao động. Kết luận: Việc xây dựng và sử dụng các bài TNTH ảo trên máy vi tính mà đề tài nghiên cứu là hoàn toàn phù hợp với các định hướng đổi mới phương pháp đào tạo kỹ thuật thực hành trên đây và phù hợp với điều kiện hiện nay tại các CSDN. Thật vậy, các bài TNTH ảo không những được sử dụng trên lớp mà còn là phương tiện giúp người học tự học, tự nghiên cứu ở nhà, do đó sẽ nâng cao khả năng tự học của người học; sự bổ sung đáng kể các bài TNTH ảo sẽ tạo điều kiện cho tăng cường lính giúp người học lĩnh hội kiến thức một cách chắc chắn, chính xác; cuối cùng, việc sử dụng máy vi tính, máy chiến đa phương tiện hỗ trợ biểu diễn TNTH ảo trên lớp hoàn toàn phù hợp với định hướng tăng cường sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy học. 1.3.2. Hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo nghề Trong những năm gần đây, CNTT được coi là một trong ngành khoa học phát triển với tốc độ nhanh nhất bởi lẽ hiệu quả to lớn mà CNTT mang lại cho mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy vậy, tại Việt Nam tiềm năng to lớn mà CNTT có thể mang lại cho GD- ĐT mà đặc biệt là cho đào tạo nghề chưa được khai thác một cách thỏa đáng. Xét cho quá trình đào tạo nghề, với sự đa dạng và phong phú của các phần mềm dạy học, CNTT hoàn toàn có thể trợ giúp cho quá trình đào tạo bởi những lý do sau đây: Thứ nhất. Việc ứng dụng CNTT trong đào tạo khiến máy vi tính trở thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình đào tạo nghề. Khả năng biểu diễn thông tin: Nhờ chức năng có thể tạo nên, lưu trữ và hiển thị lại một khối lượng thông tin vô cùng lớn dưới dạng văn bản, hình ảnh và âm thanh nên máy vi tính được sử dụng để hỗ trợ giáo viên trong việc minh hoạ các hiện tượng, quá trình tự nhiên cần nghiên cứu. Tất cả các văn bản, hình ảnh hay âm thanh cần minh hoạ cho bài học đều có thể được chọn lọc, sắp xếp trong máy vi tính và được trình bày nhanh chóng với chất lượng cao theo một trình tự bất kỳ trong giờ học (không mất thời gian chép, vẽ lại). Máy vi tính thể hiện tính ưu việt của nó hơn hẳn các PTDH khác còn ở chỗ: ngay tức khắc theo ý muốn của giáo viên, nó có thể phóng to, thu nhỏ, làm chậm, làm nhanh, dừng lại quá trình đang xảy ra hay chuyển sang nghiên cứu quá trình khác, nâng cao việc trực quan hóa tài liệu học tập. Khả năng giải quyết trong một khối thống nhất các quá trình thông tin, giao lưu và điều khiển dạy học: Dưới góc độ điều khiển học thì quá trình dạy học là quá trình điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh. Với một chương trình phù hợp, máy tính có thể điều khiển được hoạt động nhận thức của học sinh trong việc cung cấp thông tin, thu nhận thông tin ngược, xử lý thông tin và .đưa ra giải pháp cán thiết giúp hoạt động nhận thức của học sinh đạt kết qua cao. Tính lặp lại trong dạy học: Khác với giáo viên, máy tính có thể lưu trữ một thông tin nào đó, cung cấp và lặp lại nó cho học sinh đến mức đạt được mục đích sư phạm cần thiết. Trên cơ sở này, sự phát triển của từng cá thể học sinh trong quá trình dạy học trở thành hiện thực. Điều đó tạo điều kiện cho việc cá thể hóa trong quá trình dạy học. Khả năng mô hình hóa đối tượng: Đây chính là khả năng lớn nhất của máy tính. Nhờ các phần mềm về đồ họa (3D max, Photoshop,...) hay phần mềm thiết kế (CAD, Flash MX, Crocodile Physics, Solidworks . . .) ta có thể mô hình hóa các đối tượng, mô phỏng các hiện tượng, quá trình thông qua các dấu hiệu, mối quan hệ có tính bản chất nhất của đối tượng đó, xây dựng các phương án khác nhau, so sánh chúng từ đó tạo ra phương án tối ưu, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nhận thức của người học. Thật vậy, có nhiều hiện tượng không thể truyền tải bằng mô hình thông thường, ví dụ như các quá trình xảy ra trong lò phản ứng hạt nhân, hiện tượng diễn ra trong xi lanh của động cơ đất trong, chuyển động của các hạt mang điện xung quanh hạt nhân, các hiện tượng điện từ... trong khi đó máy tính có thể hoàn toàn mô phỏng chúng. Với sự phát triển của công nghệ phần mềm hỗ trợ cho giảng dạy, chúng ta có thể xây dựng và quan sát mô hình tĩnh hay mô hình động ở các góc độ khác nhau, trong không gian 1, 2 hay 3 chiều, với đủ loại màu sắc khác nhau có trong tự nhiên. Khả năng lưu trữ và khai thác thông tin: Với bộ nhớ ngoài có dung lượng lớn như hiện nay, máy tính có khả năng lưu trữ một lượng lớn dữ liệu. Điều này cho phép thành lập ngân hàng các dữ liệu. Các máy tính có thể kết nối với nhau tạo thành các mạng cục bộ hay kết nối với mạng thông tin toàn cầu Internet. Đó chính là tiền đề giúp cho giáo viên và học sinh dễ dàng chia sẻ khai thác cũng như xử lý thông tin hiệu quả. Thứ hai, Ứng dụng CNTT trong dạy học có thể hỗ trợ nhiều hình thức dạy học khác nhau đáp ứng được nhu cầu học tập ngày càng cao của mọi thành phần trong xã hội. Tuy nhiên, do đặc thù của đào tạo kỹ thuật thực hành, các hình thức dạy học như dạy học từ xa, dạy học điện tử. . . sẽ có những hạn chế nhất định và chỉ phù hợp với một số nội dung mang nặng tính lý thuyết. Thứ ba, Ứng dụng CNTT trong dạy học dẫn đến việc giao cho máy tính thực hiện một số chức năng của người giáo viên ở một số khâu khác nhau của quá trình dạy học. Cách dạy này đã thể hiện nhiều ưu điểm về mặt sư phạm như khuyến khích sự làm việc độc lập của học sinh, đảm bảo mối liên hệ ngược và cá biệt hóa quá trình học tập. 1.3.3. Khả năng áp dụng TNTH ảo trong đào tạo nghề 1.3.3.1. Cơ sở vật chất, trang thiết bị Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam cơi lĩnh vực CNTT là một trong những ngành mũi nhọn trong thế kỷ 21. Hiện nay, trong chương trình khung dạy nghề của 48 nghề vừa được xây dựng đều đưa môn tin học vào là môn học chung bắt buộc. Chính vì vậy, hiện nay hầu hết các CSDN đã được trang bị nhiều phòng máy tính, phòng học đa phương tiện, phòng máy hiện đại. Nhận thức được tầm quan trọng của CNTT 'trong việc góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, Tổng cục Dạy nghề đã và đang triển khai một số dự án có liên quan đến CNTT phải kể đến như: - Dự án Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề, nguồn vốn ODA từ ngân hàng ADB: xây dựng hệ thống mạng máy tính tại 15 trường trọng điểm, xây dựng hệ thống EMIS (hệ thống thông tin quản lý giáo dục) và BME (hệ thống giám sát đánh giá lợi ích). - Dự án Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động (LMIS). - Một số dự án nước ngoài đầu tư trực tiếp cho một, hoặc một số trường để xây mới hoặc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đã và đang triển khai. Điều này khẳng định rằng: "tinh thần" đổi mới phương pháp dạy nghề bằng ứng dụng CNTT đã được triển khai bằng những việc làm cụ thể. Ro ràng, sự đầu tư về trang thiết bị, tinh thần "đổi mới" của giáo viên và các cấp lãnh đạo sẽ tạo ra một môi trường tết cho sự phát triển các phần mềm dạy học nói chung và sự ứng dụng TNTH ảo trong dạy nghề nói riêng. 1.3.3.2. Đội ngũ giáo viên Số lượng giáo viên tăng dần qua các năm. Tính đến năm 2009 cả nước có khoảng 36.500 giáo viên dạy nghề. Về trình độ tin học của giáo viên dạy nghề đa số các giáo viên mới sử dụng các chức năng đơn giản của máy tính cho việc giảng dạy của mình. Các giáo viên dạy nghề không có đủ trình độ để tự xây dựng và phát triển các phần mềm dạy học. Do đó, khi triển khai việc ông dụng tin học mà ở đây cụ thể là ứng dụng công nghệ thực tại ảo vào trong giảng dạy, cần phải có những nhà cung cấp chuyên nghiệp. Giáo viên khi đó sẽ chỉ là những người ra đề bài cho việc thiết kế bài giảng trên máy tính, nghiên cứu các nội dung cần tích hợp vào phần mềm và sử dụng thành thạo các phấn mềm được cung cấp. Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ của đội ngũ giáo viên dạy nghề cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng áp dụng TNTH ảo trong dạy nghề. KẾT LUẬN CHƯƠNG I Trong chương này, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và sử dụng TNTH ảo trong đào tạo nghề. Những luận điểm chính trong chương này có thể tóm tắt những nội dung chính như sau: TNTH ảo là một trong những lĩnh vực đã được nghiên cứu và triển khai ứng dụng. Ngay tại Việt Nam đã có những đề tài liên quan đến TNTH ảo. Tuy vậy, cho tới nay, việc nghiên cứu hoàn chỉnh về cơ sở lý luận và thực tiễn của TNTH ảo trong đào tạo nghề vẫn chưa được quan tâm đúng mức. - Thuật ngữ ảo tuy được dùng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng đều có những điểm chung. Một cách chung nhất, tính từ ảo được sử dụng kèm theo một danh từ và mang 2 ngữ nghĩa.: + Thứ nhất, là các đối tượng, hệ thống, quá trình tồn tại về mặt tác động, ảnh hưởng nhưng không có thực. + Thứ hai, là các đối tượng, hệ thống, quá trình được tạo ra, mô phỏng bởi máy tính (mô phỏng số) vì lý do về mặt nhận thức, tinh kinh tế, sự thuận tiện, hay đơn thuần là trình diễn. Trong luận văn này, thuật ngữ ảo được dùng với nghĩa thứ hai. Môi trường ảo, một thuật ngữ mới và được sử dụng nhiều khi nói tới các ứng dụng, dịch vụ liên quan tới CNTT và truyền thông. Nó được hiểu là môi trường được tạo ra trong máy tính, mô phỏng phần nào thế giới thực, chúng được sinh ra bởi các chương trình chạy trên máy tính độc lập, hoặc chạy trên mạng máy tính vì mục đích nghiên cứu, giáo dục, đào tạo, trao đổi thông tin hoặc giải trí. Qua nghiên cứu cho thấy, làm việc với môi trường ảo có nhiều ưu điểm, trong đó có những lợi thế mà môi trường thực khó hoặc không thể thực hiện được. Mô phỏng là một trong những phương pháp nghiên cứu được sử dụng nhiều trong nghiên cứu khoa học. Phương pháp này thường được dùng trong những trường hợp không cần hoặc khó hay không thể trực tiếp nghiên cứu trên đối tượng thực. Trên cơ sở tiếp cận khái niệm ảo, khái niệm TNTH, có thể hiểu TNTH ảo là TNTH được thực hiện bởi các thao tác lên các đối tượng ảo với mục đích hình thành kỹ năng, khảo sát, minh hoạ hay chứng minh một lý thuyết khoa học và được sử dụng để hỗ trợ, đồng thời khắc phục một số hạn chế của TNTH thực. Giữa TNTH ảo và TNTH thực có những điểm khác biệt. Chỉ rõ được sự sai khác trên sẽ thấy được vai trò của TNTH ảo trong dạy học. Khả năng xây dựng và sử dụng TNTH ảo trong dạy nghề, đặc biệt là trong dạy học thực hành kỹ thuật công nghệ được trình bày trong luận văn có thể coi là cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. Với thực trạng dạy và học thực hành nghề như hiện nay, với xu hướng đổi mới về mục tiêu cũng như nội dung đào tạo, với phong trào đổi mới phương pháp dạy học cũng như các yêu cầu về cơ sở vật chất, việc xây dựng và sử dụng TNTH ảo là cần thiết và hoàn toàn khả thi. Vận dụng kết quả trên đây, trong chương 2, tác giả sẽ nghiên cứu, đề xuất quy trình xây dựng và nguyên tắc sử dụng TNTH ảo trong đào tạo nghề; vận dụng để xây dựng một số bài TNTH ảo cụ thể trong chương trình khung dạy nghề Điện ô tô. CHƯƠNG 2 XÂY DỤNG VÀ SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH ẢO TRONG ĐÀO TẠO NGHỀ. ỨNG DỤNG XÂY DỰNG MỘT SỐ THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH ẢO TRONG CHƯƠNG TRÌNH DẠY NGHỀ ĐIỆN ÔTÔ 2.1. XÂY DỰNG THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH ẢO TRONG ĐÀO TẠO NGHỀ 2.1.1. Nguyên tắc xây dựng thí nghiệm thực hành ảo trong đào tạo nghề Việc xây dựng các bài TNTH ảo phải tuân theo một nguyên tắc nhất định để có được các bài TNTH ảo có chất lượng tết và mang lại hiệu quả dạy học cao. Qua nghiên cứu, tác giả xin đề xuất một số nguyên tắc cơ bản mà các bài TNTH ảo cần phải đảm bảo như sau: 2.1.1.1. Phù hợp với mục tiêu, nội dung chương/bài học trong mỗi MH/MĐ Một bài TNTH được xây dựng phải có nội dung phản ánh phù hợp với nội dung, mục tiêu MH/MĐ, mục tiêu chương/bài nhằm làm sáng tỏ lý thuyết, hình thành kỹ năng cần thiết cho người học. Không tuân thủ điều kiện này, TNTH được thiết kế có thể không sát với lý thuyết bài học, xa rời trọng tâm bài học, hoặc không phù hợp với đối tượng học tập dẫn tới học sinh khó tiếp thu bài. Nội dung của TNTH phải bảo đảm các đặc trưng của việc dạy thực hành, phù hợp với tính chất, những thế mạnh của TNTH ảo nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TNTH ảo. TNTH ảo không hoàn toàn thay thế cho TNTH thực nhưng cũng cần khai thác triệt để những TNTH ảo nhằm hỗ trợ, khắc phục những nhược điểm của TNTH thực. Việc xác định nội dung các bài TNTH ảo còn phải căn cứ vào kết quả của quá trình phân tích cấu trúc, đặc điểm nội dung bài học, môn học một cách khoa học và cẩn thận. 2.1.1.2. Đơn giản và hiệu quả a. Đơn giản TNTH ảo cũng như TNTH thực, có thể do giáo viên biểu diễn hay làm mẫu hoặc do chính học sinh thực hiện hay thao tác. Do vậy, tính đơn giản của bài TNTH ảo phải là một trong những yếu tố được xét tới trong quá trình nghiên cứu TNTH ảo. Do có sự khác nhau về hình thức thể hiện, tính đơn giản trong "thực" và "ảo" có những sai khác nhất định, cụ thể là: Tính đơn giản trong bài TNTH thực: Trong bài TNTH thực, tính đơn giản được thể hiện ở các yếu tố sau: - Tính đơn giản của các đối tượng, trang thiết bị tham gia vào TNTH, đây là sự đơn giản của các đối tượng; - Tính đơn giản trong quy trình thực hiện TNTH; - Tính đơn giản trong thao tác với TNTH; - Tính đơn giản trong việc thể hiện rõ ràng các kết quả, hiện tượng khi thao tác với TNTH. Tính đơn giản trong bài TNTH ảo:. Với TNTH ảo, sự đơn giản trong qui trình thực hiện, thao tác, thể hiện kết quả cũng giống như đối với TNTH thực, nhưng có một vài điểm khác biệt cơ bản sau: - Về tính đơn giản của các đối tượng: không giống với TNTH thực, ở đây có thể đơn giản chúng hơn nữa bằng cách không thể hiện "như thật'; các đối tượng thực, thay vào đó nếu "ngoại diên" của đối tượng không quan trọng thì có thể thay thế bằng các "ký hiệu đặc trưng" cho chúng. Rõ ràng, sẽ đơn giản hơn khi người học thao tác với các ký hiệu, biểu tượng. - Về tính đơn giản trong thao tác: TNTH thực được thực hiện bằng tay, còn với TNTH ảo thao tác được thực hiện thông qua các thiết bị ngoại vi (bàn phím, con chuột...) tác động tới "giao diện" của TNTH. Do vậy, tính đơn giản trong thao tác còn được thể hiện ở "giao diện". của chương trình có "thân thiện" với người dùng hay không theo nghĩa dễ tủn hiểu, dễ tiếp cận, dễ thao tác dễ sử dụng, tận dụng được các thói quen có sẵn; sự bố trí các đối tượng trong TNTH có khoa học không; để thực hiện một thao tác có phức tạp không; có sự hướng dẫn của chương trình đối với người được thực hiện không; . . . Tất cả những yếu tố trên phải được đề cập trong quá trình thiết kế và xây dựng phần mềm. Bên cạnh đó, việc sử dụng quá nhiều phím chức năng, giao tiếp người- máy qua nhiều menu, hộp thoại, trình bày thông tin ngược với những tư duy thông thường, sử dụng màu sắc, độ tương phản không phù hợp với tâm lý thị giác sẽ là những cản trở lớn đối với người học khi tiến hành thao tác với TNTH ảo. b. Hiệu quả Tính hiệu quả của TNTH ảo được thể hiện ở các khía cạnh sau: Hiệu quả chất lương: Theo {1.2.4.5} , tương tác trong TNTH ảo thực chất là tương tác với mô hình số. Trên thực tế chúng ta chỉ có thể xây dựng được các mô hình gần giống với đối tượng thực mà thôi, vì trong quá trình mô hình hóa bao giờ cũng chấp nhận một số giả thiết nhằm làm giảm bớt độ phức tạp của mô hình. Do vậy, hiệu quả chất lượng của TNTH ảo được thể hiện thông qua mối liên hệ giữa tác động và kết quả. Có nghĩa là, nếu tác động đúng thì sẽ cho kết quả đúng, ngược lại, sai sót trong tác động sẽ dẫn đến kết quả không đúng. Hiệu quả chất lượng của TNTH ảo đạt được khi mô hình số phản ánh càng chính xác đối tượng, quá trình thực do đó kết quả thu được sau khi tác động lên mô hình số càng gắn với thực tế. Hiệu quả thời gian : Do đặc điểm của hoạt động dạy nghề rất đa dạng và phong phú bao gồm cả những hoạt động chân tay và hoạt động trí óc. TNTH ảo với tư cách là một PTDH mới phải hỗ trợ được nhiều mặt trong quá trình dạy học. Giải phóng người dạy thoát khỏi những lao động phổ thông để có nhiều thời gian hơn đầu tư cho việc tổ chức, thiết kế, điều khiển, giám sát và điều chỉnh hoạt động nhận thức của người học. Do vậy, tính hiệu quả về mặt thời gian của TNTH ảo được thể hiện ở 2 khía cạnh đó là: Nhanh trong thao tác: Thể hiện ở chỗ thao tác được thực hiện trong thời gian ngắn, dễ dàng. Với TNTH ảo, các thao tác sẽ được đơn giản hóa theo ý đổ thiết kế. Ví dụ, để đấu nối dây dẫn điện với các đối tượng trong bài TNTH ảo chỉ cần nhấp trái chuột, rê, kẻo, thả rồi sắp xếp trong vùng làm việc (trong TNTH thực thì phải chọn tiết diện dây, chiều dài dây, uốn dây, bắt vít cho dây,... ), hay thêm bớt các đối tượng trong bài, việc đóng cắt nguồn đảm bảo an toàn cũng được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nhanh trong xử lý kết quả: Thể hiện ở chỗ kết quả được đưa ra nhanh chóng. Điều này phụ thuộc vào mô hình toán học của đối tượng, quá trình cũng như thuật toán "cài đặt" mô hình đó tất nhiên còn phụ thuộc vào tốc độ xử lý của máy tính. Với nguyên tắc này, trong giai đoạn thiết kế, cần phải đưa ra được những cách thức thao tác đơn giản nhất cũng như xây dựng được mô hình toán học, "cài đặt" mô hình đó một cách ngắn gọn và khoa học nhất. Hiệu quả kinh tế. Có nghĩa là thực hiện được nhiều chức năng trong dạy học với chi phí hợp lý mà vẫn đảm bảo hiệu quả sử dụng cao nhất. 2.1.1.3. Công cụ, phương tiện cần thiết cho việc xây dựng TNTH ảo a. Phần cứng Máy tính Chúng ta đang sống trong một xã hội mà trong đó tin học và tri thức được đặt lên hàng đầu và nước ta cũng không thể đứng ngoài xu thế chung nói trên. Máy tính và CNTT với những khả năng linh hoạt tuyệt vời của chúng đã dẫn đến một xu hướng giáo dục mới và trở thành một phương tiện chủ chốt trong giáo đục thế kỷ 21. Trong xây dựng và thực hiện các bài TNTH ảo, máy tính trở thành một trong nhữ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31387.doc
Tài liệu liên quan