MỤC LỤC
MỤC LỤC . 4
PHẦN DẪN LUẬN. 6
1. Lý do chọn đề tài: .6
2. Phạm vi đề tài và tư liệu nghiên cứu : .7
3. Lịch sử nghiên cúu : .8
4. Phương pháp nghiên cứu:.13
5. Những đóng góp mới của luận án : .14
6. Cấu trúc của luận án :.14
CHƯƠNG 1: THƠ VỚI TUỔI THƠ. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. 16
1.1. Thơ ca – món ăn tinh thần cần thiết cho trẻ em :.16
1.2. Đôi điều cần lưu ý trong việc nghiên cứu thơ viết cho thiếu nhi: .22
1.2.1. Về chức năng giáo dục:.22
1.2.2. Về đặc điểm tâm lý thiếu nhi:.25
CHƯƠNG 2: THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI TRƯỚC 1975. 31
2.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của thơ thiếu nhi Việt Nam trước 1975: .31
2.1.1. Trước Cách mang tháng Tám 1945 : .31
2.1.2. Sau Cách mạng tháng Tám : .35
2.2. Đề tài chính và các loại thơ viết cho thiếu nhi: .43
2.2.1. Về đề tài:.43
2.2.2. Các loại thơ thiếu nhi:.47
CHƯƠNG 3: THIÊN NHIÊN - ĐẤT NƯỚC TRONG THƠ VIẾT CHO THIẾU
NHI NHỮNG NĂM 60, 70. 65
3.1. Thiên nhiên trong thơ thiếu nhi: thế giới loài vật, hoa cỏ và cảnh vật đất nước :.65
3.1.1. Thế giới loài vật, hoa cỏ trong thơ thiếu nhi: .65
3.1.2. Thiên nhiên – cảnh vật diệu kỳ qua mắt các em thơ: .83
3.1.3. Thiên nhiên – cảnh vật đất nước trên trang thơ “người lớn” viết cho các em:.101
3.2. Dấu ấn thời đại - đất nước, con người trong thơ cho thiếu nhi: .115
3.2.1. Thiên nhiên - đất nước trong xây dựng quê hương, cuộc sống mới, chế độ mới,
chủ nghĩa xã hôi:.116
3.2.2. Thiên nhiên - đất nước trong chống Mỹ: .1245
3.2.3. Đất nước, con người mới thiếu nhi trong chống Mỹ:.130
3.3. Vài nét về nghệ thuật - những đóng góp và hạn chế: .142
3.3.1. Những đóng góp: .142
3.3.2. Một vài hạn chế: .162
PHẦN KẾT LUẬN. 167
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 169
172 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 637 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiên nhiên – đất nước trong thơ viết cho thiếu nhi giai đoạn 1960 - 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vườn khoai / vườn cà. Vậy mà chưa hết. Thật lạ lùng với : Kiến đen “la đà”
uống rượu và cả lũ kiến gió bay ra chia phần ... Cuối bài thơ hóa ra đám ma lại biến thành
“tiệc nhậu” ...!?
Từ thơ viết về loài vật của các em nhỏ, ta lại suy gẫm đến những “bí quyết làm thơ cho
tuổi nhi đồng” - mà Cooc-nây Tru-côp-xki, nhà nghiên cứu văn học thiếu nhi đã phát biểu.
Đúng là trong thơ của Trần Đăng Khoa, Khánh Chi, Vàng Anh, Nguyễn Hồng Kiên các bài
thơ đặc sắc bao giờ cũng mang tính hội hoa, tính nhạc, tính sinh động... Những bức tranh
bằng lời ấy đồng thời mang chất trữ tình. Câu thơ giản dị mà cứ như một trò chơi, trò chơi
bằng âm thanh ngôn ngữ. Ở cách chọn đề tài cho thơ cũng ngộ và lạ như trẻ con đang bày
trò chơi. Theo Cooc-nây Tru-côp-xki:.”Trò chơi ngôn ngữ được quan tâm đồng thời với
72
chức năng giáo dục cảm xúc thẩm mỹ, bồi dưỡng tâm hồn. Đó chính là hiệu quả của thơ ca
thiếu nhi cũng như thơ ca dân gian truyền miệng.” [44. 45].
Thơ của các em viết mới là một bộ phận, còn một bộ phận khác quan trọng không
kém, đó là thơ của người lớn viết cho các em. Dĩ nhiên với thơ của người lớn, sẽ còn có
thêm những yêu cầu như: lời thơ, ý thơ cần gọt giũa công phu, chủ đề tư tưởng cần đúc kết
nổi bật. Các bài thơ này có thể chưa đạt tới cái đẹp thơ ngây, hồn nhiên như của chính các
em viết, nhưng lại thường sâu sắc hơn về ý nghĩa giáo dục.
Khác với thơ của chính các em viết, các con vật hiện ra trong thơ Võ Quảng, Phạm
Hổ, Thy Ngọc, Vũ Ngọc Bình ... thường kèm theo một bài học ngụ ngôn, một bài học đạo
đức gắn với sinh hoạt hằng ngày của các em. Vấn đề là để chuyển tải một triết lý sống, một
lời răn, các nhà thơ luôn hết sức khéo léo. Ý thơ, hình ảnh, ngôn ngữ cần tinh tế mà giản dị,
tự nhiên.
Thế giới loài vật trong thơ Phạm Hổ, thơ Võ Quảng luôn hồn nhiên, sống động, đáng
yêu không kém gì thơ của các em viết. Có khi lại còn “cựa quậy”, còn “nhao nhao” cả lên
ngay trong giấc ngủ, khác gì bầy trẻ hiếu động. Thật thú vị khi ta đọc “Ngả rồi” của Phạm
Hổ :
Mẹ gà hỏi con
- Ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn nhao nhao
- Ngủ rồi đấy ạ!
Ở đây, trong thơ viết cho thiếu nhi vừa có chất vui, chất ngộ và cả chất truyện, ngôn
ngữ đối đáp. Cái nhìn thiếu nhi, nét hồn nhiên bất ngờ đã đem đến thành công cho nhiều bài
thơ :
Ngựa cha đi móng sắt
Bật lửa đá dưới chân
73
Ngựa con thấy kêu ầm:
“Bố ơi chân bố cháy!”
(Phạm Hổ - Ngựa con)
Kia là cha con nhà ngựa, còn đây là chú bê con đang sống yên lành trong sự âu yếm
của tất cả người thân, bè bạn, không có gì đe dọa chú cả.
Con bê lông vàng
Cổ lang màu trắng
Bê đi liến thoắng
Miệng cứ: bê ... ê
(Võ Quảng - Chú bê con)
Thế nhưng đến chú nghé trong bài thơ Nghé ngoan của Trần Đình Tuấn thì cuộc sống
hoàn toàn đổi khác. Thơ cho thiếu nhi, dù là lứa tuổi mẫu giáo, thì dấu ấn của thời đại chống
Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn tràn ngập trong văn thơ viết cho các em. Chú nghé
con giờ phải tập xuống hầm khi nghe tiếng kẻng báo động. Có điều phải bình tĩnh một chút,
đừng hoảng hốt :
Miệng còn ngậm cỏ
Nghé vểnh đôi tai
Sợ khi bom nổ
Nằm yên nghé nhai
(Trần Đình Tuấn - Nghé ngoan)
Và khi tàu bay Mỹ đã cút thẳng thì nghé ta lại ra đồng, tiếp tục ăn cỏ. Định Hải có bài
thơ Gọi nghé. Cuộc chuyện trò giữa người và vật trong bài thơ làm ta liên tưởng đến câu ca
dao xưa: “Trâu ơi ta bảo trâu này!”. Cũng là tâm tình thân thiết, trìu mến dành cho con vật
nuôi, đặc biệt lại là chú nghé con, thế nhưng nội dung câu chuyện quả là mới mẻ : nghé ăn
74
nhiều chóng lớn là để theo bầy đàn góp công hợp tác. Công cuộc dựng xây chủ nghĩa xã hội
với phong trào làm ăn tập thể cũng là một nét mới trong sinh hoạt đời thường, mà trẻ con
cũng cần được biết, để rồi chính các em sẽ là người góp phần tham dự nay mai. “Liên hệ”
như thơ Định Hải thì chẳng “sượng”, trẻ dễ tiếp nhận.
...Cỏ ngọt mùa xuân
Nghé ăn thoa thích
An nhiều chóng lớn
Theo bạn theo bầy
Góp công hợp tác
Thẳng băng đường cày...
... Giữa trời xuân ấm
Nghé bước thênh thênh
(Gọi nghé. Chồng nụ chồng hoa)
Viết về các con vật quen thuộc quanh cuộc sống các em, thơ của Võ Quảng trước hết
là những niềm vui. Niềm vui có khi cất lên thành tiếng, thậm chí rất nhiều tiếng; có khi chỉ
là những nụ cười tủm tỉm, niềm vui không cất lên thành tiếng. Trong Gà mái hoa, chúng ta
nghe đầy những tiếng kêu vui của Mái hoa, Trống xám, của vịt, ngỗng, chó, lợn và ếch nữa.
Ta còn nghe những tiếng cười hát của Tý và các bạn Tý chung quanh đàn gà con vừa mới
nở. Gà mái hoa có thể nói đó là niềm vui của sự sinh sôi. Thuyền lướt cũng là niềm vui,
niềm vui của đàn vịt khi gặp nước, niềm vui của sự hòa hợp, những gì cần được sống bên
nhau. Còn Anh Đom đóm, Ba chị gà mái, đó là niềm vui của những con người lao động, của
những đóng góp lặng lẽ mà lớn lao.
Bài thơ “Anh Đom đóm” có 5 khổ, 40 câu, kể chuyện anh Đom đóm đêm đến lên đèn
đi gác cho cò con, chim non ngon giấc và đến hừng đông thì tắt đèn về nghỉ. Đó là hiểu về
mặt hàm ngôn. Còn về mặt hàm ngôn thì ta thấy sự phát và tỏa sáng trong đêm của anh
75
Đom đóm, dầu rất nhỏ nhoi nhưng lại là việc làm chuyên cần và tự nguyện của sự cống
hiến, cách sống hữu ích, có ý nghĩa.
Mặt trời gác núi
Bóng tối lan dần
Anh Đóm chuyên cần
Lên đèn đi gác.
Cái vòng liên tưởng mở ra. Bài thơ chan chứa một tình cảm nhân đạo đẹp đẽ , anh đom
đóm là một người lính gác chuyên cần đêm đêm xách đèn đi bảo vệ cho giấc ngủ của mọi
người, bảo vệ cho cuộc sống êm đềm, hạnh phúc của làng xóm. Một con người bình thường
bằng sự hiện diện và hoạt động của mình đã góp cho cuộc sống những đốm sáng.
Từng bước từng bước
Vung ngọn đèn lồng
Anh Đóm quay vòng
Như sao bừng nở
Như sao rực rỡ
Rụng giữa vườn cam ...
(Anh đom đóm. Ánh nắng sớm)
Đến Sáu chú bói cá thì rõ ràng đây là niềm vui của cả sáu chú bói cá con đang hăm hở
nhào lên, lộn xuống. Thật là vui vui đến rộn ràng, vui đến rối mắt.
Thấy cái hoa nở là câu chuyện của một chú bê con, nhưng đấy cũng chính là tấm lòng
của tác giả trước nỗi buồn của chú bê kia hay của những em bé như chú bê kia. Chú bê đang
nhớ mẹ, đi tìm mẹ, đi vào vườn ớt, đi qua vườn cà, vấp phải cái cọc nằm lăn kềnh gọi mẹ,
chẳng thấy mẹ đâu đành đứng dậy và thấy cái hoa nở, quên hết mọi chuyện, kề mũi hít hít.
Cái hoa đã hiện ra, an ủi chú bê, làm dịu đi nỗi đau và quên cả nỗi nhớ. Một con bê hay một
76
chú bé nghịch ngợm, hay vòi, hờn dỗi ăn vạ, nhưng khóc đấy rồi lại cười ngay đấy, thấy cái
gì cũng lạ, cũng vui ngay được.
Trong thơ Võ Quảng còn có con trâu mộng luôn cảnh giác :
Trợn tròn đôi mắt
Nó cứ nhìn nhìn
Coi bộ không tin
Những người lạ mặt.
(Con trâu mộng. Thấy cái hoa nở)
Khác Con trâu vành đai - mạnh mẽ, mài sừng nhọn hoắt, quyết liệt góp công, góp sức
diệt giặc đi càn, nhưng sau chiến công lại hiền lành, mơ mộng :
Tôi mài sừng nhọn hoắt
Để đón giặc đi càn,
Chém thằng giặc nghênh ngang
Rách bươm như xơ mướp.
Đánh tan tành lữ cướp,
Tôi đằm nước hố bom,
Ngắm trăng trời chiều hồng
Như chiếc sừng vừa ló.
(Con trâu vành đai. Anh Đom đóm)
Ta gặp trong thơ Võ Quảng một xã hội chim thú đông vui náo động. Có những con vịt
háu ăn cứ kéo nhau xếp hàng xung quanh chuồng lợn mà lên tiếng đòi: “Mau chia cám!
chia cám!”. Có chú chó vàng tinh nghịch, thấy cái gì cũng chẳng để yên, cũng sủa, cũng
77
cào, cũng trêu, cũng chọc, không may chọc phải cái tổ ong, bị ong đốt sưng cả mặt mũi. Có
chú nghé con đòi học lái máy kéo, có chú rùa con biết thương mẹ, có chú voi con ngộ
nghĩnh chăm tập thể dục... Phải chăng đây cũng chính là một xã hội nhộn nhịp, ríu rít, inh ỏi
những tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát của bầy trẻ? Một xã hội trẻ con luôn náo động, nghịch
ngợm nhưng cũng rất đáng yêu, luôn muốn làm việc tốt.
Nhà thơ Võ Quảng có một nghệ thuật miêu tả loài vật rất tinh tế. Chỉ bằng một vài nét,
một vài chi tiết có chọn lọc, dựa trên vốn hiểu biết, biệt tài quan sát kỹ về chúng, ông đã
khắc họa chúng rất nổi. Đồng thời Võ Quảng lại nhìn chúng bằng con mắt trẻ thơ, nói về
chúng bằng cái giọng trẻ thơ. Nhờ vậy dưới ngòi bút của ông bao giờ chúng cũng hiện ra
thu hút, khá dễ thương.
Như con trâu thì:
Da đen bóng loáng
Ức rộng thênh thênh
Đôi sừng chênh vênh
Chóp sừng nhọn hoắt
(Con trâu mộng. Thấy cái hoa nở)
Còn chú lợn :
Lưng mày múp míp
Mắt mày húp híp
Đuôi mày ngúc ngoắc
Miệng thì nhóp nhép.
Con gà mái nhảy ổ thì:
Bỗng mái hoa đổi nết
Cái đầu nó nghếch nghếch
78
Cái cổ nó thót thót
Nổ kêu tót, tót, tót...
Không chỉ quan sát ngoại hình tinh tế, nhà thơ còn phát hiện ra tâm tình, tính nết, đặc
điểm của con vật đằng sau những nét ngoại hình ấy. Như trong Ba chị gà mái, chị mái nâu
“uống ngụm nước mưa, như người say sưa, nhắp ly rượu ngọt”, chị gà mái trắng yếm đỏ
hoa vông thì “mắt nhìn tha thiết”, chị mái đen thì “đi đứng loãng quãng” như người mất
của, có lúc “dừng lại tần ngần, mắt nhìn dớn dác ...”
Mỗi con vật - nhân vật trong thơ Võ Quảng luôn hiện ra với hoạt động và các động tác
của chúng, luôn đưa lại những bất ngờ, vì thế càng hấp dẫn tuổi thơ. “Nhiều bài thơ của Võ
Quảng giống như một cuốn phim hoạt hình, hay một hoạt cảnh, một màn kịch ngắn có kịch
tính, có thắt nút, cởi nứt” [23.129]. Võ Quảng thường dựng lên những cảnh sống động với
câu chuyện luôn biến đổi, không khí luôn sôi nổi, ông dẫn trẻ em đi từ bất ngờ này đến bất
ngờ khác. Tiêu biểu cho phong cách này của Võ Quảng là bài Mời vào, với một loạt những
cuộc đối thoại tay đôi nối tiếp. Những lời đối đáp ấy hết sức ngắn gọn, linh hoạt, làm nổi bật
ngay lên hình ảnh mỗi con vật với một đặc điểm tiêu biểu nhất của nó: con thỏ thì vểnh cái
tai, con nai thì ghếch bộ gạc, con vạc thì giơ cái chân :
- Cốc, cốc, cốc!
- Ai gọi đó ?
- Tôi là Thỏ
- Nếu là Thỏ
Cho xem tai.
- Cốc, cốc, cốc!
- Ai gọi đó?
- Tôi là Nai
- Thật là Nai
79
- Cho xem gạc.
- Cốc , cốc, cốc!
- Ai gọi đó
- Tối là Vạc
- Đúng là Vạc
Cho xem chân...
(Mời vào. Thấy cái hoa nở)
Trẻ em mẫu giáo có thể đem trình diễn bài thơ này thành một hoạt cảnh hoặc một điệu
múa có lời ca. Bài thơ đã được phổ nhạc và các em nhỏ rất thích hát. Cứ như vậy mà thơ Võ
Quảng đã đến và lưu lại trong lòng tuổi thơ nhiều thế hệ. Bên cạnh “Mời vào”, các bài
“Được! Được!, Thuyền lướt, Chị chẫu chàng, Gà mái hoa ...” Đều là những bức tranh sống
động và nhộn nhịp điều này rất hợp với tính hiếu động của các bạn đọc nhỏ tuổi. Các em
luôn yêu thích và dễ thuộc thơ của bác Võ Quảng chính nhờ vậy, nhờ cả yếu tố nhạc điệu có
trong thơ.
Đọc xong các tập thơ của Võ Quảng, xếp cuốn sách lại, ta thấy bao trùm lên tất cả là
một tấm lòng yêu thương con người đằm thắm, đặc biệt là tình yêu thương dành cho trẻ em.
Dưới ngòi bút của ông những em bé và những con vật luôn hiện lên ngây thơ, đẹp đẽ và
đáng yêu. Những câu chuyện trong thơ ông đã gây được những xúc động thường là dịu
dàng, nhẹ nhàng mà thấm thìa.
Nếu thơ Võ Quảng thường chú ý giáo dục các em làm những việc tốt theo Năm điều
Bác Hồ dạy như: Chăm học, chăm làm, giúp mẹ, dậy sớm, ăn ở sạch sẽ, chăm tập thể dục ...
thì nhà thơ Phạm Hổ lại đặc biệt chú ý giáo dục quan hệ bạn bè, yêu thương cho các em.
Mỗi bài thơ của Phạm Hổ là một câu chuyện nhỏ xinh, một tiếng cười hóm hỉnh, sảng khoái
giúp các em tìm hiểu về tình bạn trong đời sống con người và về tự nhiên, xã hội sinh động
quanh các em.
80
Nét nổi bật rất dễ bắt gặp trong thơ Phạm Hổ, trên cái nền chung yêu thương là ca ngợi
tình bạn với nhiều khía cạnh tinh tế, cảm động của nó. Chú bò tìm bạn là một bài thơ tiêu
biểu :
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình ngỡ ai
Bò chào: “Kìa anh bạn
Lại gặp anh ở đây!”
Một chú bò ra sông uống nước lúc chiều về, chợt thấy bóng mình. Bò ngỡ là có một
cậu bạn bò từ đáy nước đến chơi, liền cất lời chào. Lầm lẫn của bò làm nước buồn cười quá,
rung lên, bóng bò tan biến. “Bò ngỡ bạn đi đâu - Cứ ngoái trước nhìn sau - Ậm ò tìm gọi
mãi”. Cái thú của bài thơ là trên thực tế chỉ có một động vật - chú bò con biết cảm nghĩ, mà
như vậy quả thật là cô đơn - và bằng cái tình, với tấm lòng đôn hậu, nhà thơ đã tạo ra một
không gian đông đúc, ấm áp tình bạn giữa bò với mặt trời, nước, mây và cả bóng của bò
nữa. Tất cả những người bạn ấy đều đáng yêu, đều để lại ấn tượng, góp phần bồi dưỡng tâm
hồn các thế hệ bạn đọc nhỏ tuổi. Trẻ em khắp mọi miền đất nước đều biết và đọc thuộc bài
thơ. Nó đã được đưa vào chương trình Tiếng Việt lớp 3, qua môn Học thuộc lòng. Người
dạy và người học đều thích thú trước tình bạn hồn nhiên vô tư, học được cách nhìn cởi mở,
yêu đời của chú bò con và cảm nhận sâu sắc tấm lòng của nhà thơ dành cho tuổi nhỏ qua
từng câu, chữ nhuần nhị, hình ảnh nhân hóa sinh động trong bài thơ .
Từ thế giới loài vật quen thuộc: gà, chó, mèo, chim, cá, bê, thỏ, ngan, ngỗng ... Phạm
Hổ đã để cho các con vật hoạt động và đối thoại với nhau. Từ đó bài học về nhận thức, về
giáo dục nhẹ nhàng tự nhiên đến với trẻ : đừng như chú ngỗng lười học bị lật tẩy :
Ngỗng không chịu học
Khoe biết chữ rồi
81
Vịt đưa sách ngược
Ngỗng cứ tưởng xuôi
Cứ giả đọc nhầm
Làm vịt phì cười
Vịt khuyên một hồi
- Ngỗng ơi! Học! Học
(Ngỗng và vịt)
Từ tình bạn, thơ Phạm Hổ còn hướng tới giáo dục các em lòng vị tha, cách sống quên
mình, âm thầm vì người khác. “Xe chữa cháy” hồn nhiên, ngộ nghĩnh như một bé trai tinh
nghịch, hiếu động, thích làm việc tốt:
Mình đỏ như lửa
Bụng chứa nước đầy
Tôi chạy như bay
Hét vang đường phố
Nhà nào bốc lửa
Tôi dập tắt ngay
Ai gọi: “Chữa cháy”
“Có ... ngay! có ... ngay!”
(Xe chữa cháy)
Trong một bài viết, Phạm Hổ tâm sự : “Có nhiều chuyện rất thật, mà lạ vô cùng”, luôn
khiến ông sững sờ. Từ chuyện con sáo ăn na rơi hạt, mùa sau hạt thành cây, sáo trồng na mà
không biết. Đến lạc ra hoa rồi mang củ giấu dưới đất. Còn Đom đóm thắp đèn bằng nguồn
lửa nào? Tai châu chấu sao lại ở chân chứ không ở đầu ... Từ những nỗi ngạc nhiên chân
82
thành đó của mình, Phạm Hổ đã mang vào thơ tặng các em. Đáng quý hơn, là từ những điều
ấy, nhà thơ khơi gợi cho các em nghĩ tới cuộc đời, cung cấp cho trẻ một góc nhìn mới, một
cách lý giải độc đáo, đôi khi không bình thường nhưng lại trở thành có lý trong thơ cho
thiếu nhi. Mặt mạnh của nhà thơ là viết về những cảm giác, những ấn tượng tươi mát, cụ
thể, từ đó mà khái quát lên. Chú gà con đứng trước quả trứng, Xuân Quỳnh có bài thơ Bầu
trời trong quả trứng; còn Phạm Hổ thì để cho mẹ gà giảng giải :
-“Tròn nhẵn, trắng hồng
Quả gì thế mẹ?
Hay là đá chăng?
Mổ xem thử nhé!”
- “Chính là con đó
Những ngày trước xa
Con nằm trong vỏ
Lớn dần chui ra ...”
- “Mẹ lại hói đùa
Con bay, con chạy
Còn hòn đá này
Mãi không động đậy!”
- “Mẹ nói đúng đấy
Lớn, con hiểu dần
Nhiều chuyện rất thật
Mà lạ vô cùng!”
83
(Gà con và quả trứng. Chú bò tìm bạn)
Rõ ràng người lớn làm thơ cho các em thường trau chuốt câu, chữ, lựa chọn hình ảnh,
ngôn từ, phong cách miêu tả phù hợp.
Thơ Võ Quảng, Phạm Hổ, Trần Đăng Khoa, Khánh Chi ... đều mang được hơi thở của
cuộc sống thật; tập cho các em quan sát, miêu tả, mở ra thế giới nhận thức bắt đầu từ con
vật, thiên nhiên gần gũi; truyền đến cho bạn đọc nhỏ tuổi lòng yêu thương thế giới cỏ cây,
loài vật. Từ đó hướng các em tới một mục tiêu rộng hơn: yêu cái đẹp, điều thiện, ghét cái
xấu xa, ích kỷ, bất công...
3.1.2. Thiên nhiên – cảnh vật diệu kỳ qua mắt các em thơ:
Thế giới loài vật, hoa cỏ không tách rời thế giới thiên nhiên, cảnh vật. Tinh cảm con
người phong phú thì thiên nhiên cũng được nhìn, nghe, cảm, nghĩ một cách phong phú hơn,
được chiếu rọi bằng nhiều khía cạnh hơn. Thiên nhiên với tất cả vẻ đẹp, sự phong phú đa
dạng, sự biến hóa kỳ diệu ... luôn bổ ích cho tuổi thơ về hiểu biết nhận thức, về sự phát triển
của trí tưởng tượng và cả sự bồi đắp về tâm hồn ... Do vậy, thiên nhiên không thể thiếu mặt
trong thơ cho thiếu nhi mọi thời đại, khắp mọi nơi.
Trẻ em lớn lên, cùng với việc tiếp xúc với con người, các em cũng tiếp xúc với một thế
giới tự nhiên kỳ diệu. Thiên nhiên trong thơ viết cho các em chưa phải là thiên nhiên được
nhìn qua lăng kính tâm trạng, kiểu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Truyện Kiều)
hay thiên nhiên thường gắn với số phận, nỗi niềm của con người trong thơ xưa ... Mà trước
tiên, trong thơ viết cho thiếu nhi, đó phải là thiên nhiên qua ánh mắt các em thơ, là “góc sân
và khoảng trời” đầu tiên các em tiếp xúc để rồi luôn hằn sâu trong trí nhớ, góp nền quan
trọng trong việc hình thành tính cách của các em ... Đó là một thiên nhiên sinh động, đầy
hấp dẫn trong những đôi mắt ngây thơ, soi vào đấy ta như thấy được cả một thế hệ cháu
ngoan Bác Hồ với những tâm hồn trong sáng tin yêu - Mà xuất phát làm nền cho nguồn cảm
hứng chung của tất cả các em đó lòng mến yêu tha thiết và niềm tự hào chính đáng về quê
hương đất nước, yêu mến Bác Hồ và chế độ mới. Giác quan nhạy bén và tấm lòng non tơ đã
giúp các em dựng nên những khung cảnh thật nên thơ.
Đây là quê hương núi rừng của em :
84
Lũng Ca một buổi sáng mai
Nắng thơm nắng nhuộm vàng hai má đồi
Suối reo hoa tiếng em cười
Chim ca hoa với những lời ca vang
Nhà sàn mái tỏa khói lam
Nhấp nhô núi biếc rừng chàm lựng hương
(Đoàn Thị Lam Luyến - Lũng Ca)
Đoạn thơ thật rộn ràng, bừng sáng. Cảnh núi rừng sớm mai như nhảy múa. Bình minh
lên, ngày mới bắt đầu với sự hoà điệu của nhiều thanh âm: suối reo, tiếng em cười, chim
chóc hoà ca... Từ âm thanh đến hình ảnh, màu sắc đều chứa chan tình yêu quê hương, yêu
cuộc sống... Cái nhìn trẻ thơ cứ tươi nguyên, phơi phới qua từng chi tiết sinh động: “Nắng
thơm nắng nhuộm vàng hai má đồi”... rồi : “Nhấp nhô núi biếc rừng chàm lựng hương”...
Thiên nhiên trong thơ Lam Luyến tươi sáng, nồng nàn thiết tha như tấm lòng trẻ thơ của em
vậy - (Sẽ còn rất lâu... đến bây giờ, thiên nhiên trong thơ Lam Luyến đã khác hẳn, đó là
thiên nhiên trĩu nặng khát khao, yêu thương, thiên nhiên gắn với tâm trạng khắc khoải đợi
chờ và mong ước :
Em sẽ chờ như hòn đá biếc xanh rêu
Của bến sông xa mùa cạn nước
Cơn mưa khát trong nhau từ thuở trước
Sắc cầu vồng chấp chới mé trời xa.
(Đoàn Thị Lam Luyến - Huyền thoại. 1988)
Có lẽ Lam Luyến khi làm bài thơ “Lũng Ca” sẽ không thể nào ngờ được cái nhìn trong
trẻo, ngây thơ, yêu đời, yêu cuộc sống, từ bài thơ ấy đến giờ thật khó tìm lại được, khi mà
Lam Luyến đã ở vào độ tuổi gần 40.)
85
Còn đây là cảnh thôn xóm em ở đồng bằng, có: “Xóm làng xanh mát bóng cây- Sông
xa trắng cánh buồm bay ngang trời” với những ngày vào mùa tưng bừng nhộn nhịp :
Hạt mẩy uốn cong bông
Chim ngói bay đầy đồng
Đường thôn tiếng cười nở
Vàng tươi hoa cải ngồng
Sân kho máy tuốt lúa
Mở miệng cười ầm ầm
Thóc mặc áo vàng óng
Cười hí hóp trên sân,
(Trần Đăng Khoa - Thôn xóm vào mùa )
Trần Đăng Khoa đã nhìn kỹ, lắng nghe cuộc sống xung quanh. Cảnh nông thôn Bắc
bộ, những ngày vào mùa với không khí lao động sôi nổi, khẩn trương của một cuộc sống
từng ngày đổi mới. Thiên nhiên ở đây được cảm nhận trong trạng thái động: “Hạt mẩy uốn
cong”, “chim bay đầy đồng”, “tiếng cười nở” nơi nơi, máy tuốt “cười ầm ầm”, “thóc mặc
áo vàng ống - cười hí hóp” ... Trước mắt các em là những mùa gặt náo nức mà hạt thóc
vàng cũng “hí hóp” thở trên sân bồi hồi sự sống. Từ dùng của Trần Đăng Khoa thật đặc
biệt, thổi sự sống vào cho sự vật. Cái nhìn trẻ thơ hiếu động đã giúp Trần Đăng Khoa phát
hiện ra chất thơ tinh tế, từ những hình ảnh bình dị, quen thuộc của làng quê. Tỉnh giấc trong
đêm, chú bé Khoa bước ra hè nhà và cảm nhận :
Nghe ri rỉ tiếng sâu
Nó đang thở cuối tường
Nghe rì rầm rặng duối
Há miệng đòi uống sương
86
Nghe hàng chuối vườn em
Gió giở mình trăn trở
Chuột chạy giàn bí đỏ
Loáng vỡ ánh trăng vàng
Cây cao nó bức quá
Phanh phách quạt liên hồi
Một tiếng gì không rõ
Xôn xao cả đất trời.
(Nửa đêm tỉnh giấc)
Ở đây, có một sự nhập thân giữa con người và sự vật. Trần Đăng Khoa đã tạo sự bất
ngờ thú vị cho người đọc trước những chi tiết miêu tả... Từ tiếng sâu thở “rỉ rỉ” đến “rặng
duối rì rầm”, “há miệng đòi uống sương”, rồi đến “hàng chuối trở mình”... sự vật luôn
động đậy và có tâm hồn trong thơ Khoa... Hình ảnh, chi tiết trong thơ thiếu nhi thật giản dị,
gần gùi nhưng lại lạ lùng, độc đáo sinh động qua miêu tả: chuột chạy trên giàn bí làm loáng
vỡ ánh trăng; cây cau nóng bức “phanh phách quạt liên hồi”. Hai câu kết cuối bài thơ phải
chăng là ít nhiều có quan hệ với câu thơ của Nguyễn Khuyến :
“Một tiếng trên không ngỗng nước nào”
Điểm nổi bật ở đây là từ những âm thanh nhỏ và nhẹ tỉ ti, khe khé ban đầu, sự cảm
nhận của chú bé Khoa cứ nâng cấp dần lên để rồi hoa ra, ngân vang đến cuối bài: một âm
thanh bất ngờ trong đêm khuya. Có chút gì đó vừa thật lại vừa ảo :
“Một tiếng gì khổng rõ
Xôn xao cả đất trời”.
87
Khi đi tìm sự lý giải: “Cái hồn thơ Khoa đã lớn lên từ miếng đất nào?” Nguyễn Đăng
Mạnh đã khẳng định rằng Trần Đăng Khoa chính là nhà thơ của nông thôn, làng quê đã tạo
nên thơ Khoa từ màu sắc đến tâm hồn.
Theo Nguyễn Đăng Mạnh, khi kể đến những nhà thơ của nông thôn Việt Nam thuở
trước chỉ có thể nhắc đến tên tuổi Nguyễn Khuyến, còn sau này (thời kỳ 30-45) phong trào
thơ mới có xuất hiện một vài cây bút viết về nông thôn như Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn
Văn Cừ. Ông cho rằng thực ra đây mới chỉ là sự vay mượn đề tài và cảm xúc, chứ thực tế họ
chưa nhập thân vào với hiện thực đó; còn Trần Đăng Khoa có thể được coi là một cây bút
chuyên môn thật sự trong đội ngũ những người viết về nông thôn kể từ sau Cách mạng
tháng Tám. [22. 104]
Từ Góc sân nhà em Khoa đã nhìn, đã cảm, đã nghĩ và đưa vào thơ những hình ảnh hết
sức quen thuộc của làng quê Việt Nam. Này là một mảnh vườn hả hê đón nhận cơn mưa với
vô số những tre, bưởi, dừa, mía, ngọn mồng tơi, cỏ gà ... (Mưa). Đây là đàn gà con đang liếp
chiếp kiếm mồi trong “vườn em”. Kia là đêm trăng sáng với những cây cau, cây chuối im
lìm (Trăng sáng sân nhà em). Nào là một buổi hái trầu đêm (Đánh thức trầu), một tiếng gà
gáy đánh thức vạn vật (Ò ó o ...), một sớm heo may về, hoa cau rụng đầy vại nước (Hoa
cau). Rồi còn những chiều chăn trâu, thả diều (Thả diều), một buổi bắt cá ngoài đồng lúa
(Em kể chuyện này), một buổi bình minh bận rộn của nhà nông (Buổi sớm nhà em), về một
lời tâm tình với người bạn của nhà nông (Con trâu lông mượt), về những công việc hằng
ngày của đứa trẻ ở nông thôn (Khi mẹ vắng nhà...) Đặc biệt, Trần Đăng Khoa nói nhiều đến
“Cánh đồng làng Trực Trì” quê nhà, nơi cha mẹ và bà con làng xóm ngày ngày đổ giọt mồ
hôi để làm nên “Hạt gạo làng ta - gửi ra tiền tuyến - gửi về phương xa ...” Hạt gạo đã ngấm
bao mồ hôi công sức, gội bao mưa nắng, bão bùng, tắm qua bao khói lửa chiến tranh góp
phần nuôi bộ đội đánh thắng giặc Mỹ.
Đọc những bài thơ viết về làng quê của Trần Đăng Khoa, người ta như được cảm nhận
sự phóng khoáng, ngây ngất, trong lành của hương đồng, gió nội. Chú bé Trần Đăng Khoa
đã lột tả được cái hương vị, cái thần thái, cái hồn quê Việt Nam. Hồn quê Việt Nam phảng
phất trong những hình ảnh rất bình thường, quen thuộc, qua cái triết lý của Trần Đăng
Khoa:
Mái gianh ơi hỡi mái gianh
88
Ngấm bao nhiêu nắng mà thành quê hương.
Đọc những bài, những đoạn thơ Trần Đăng Khoa viết về thiên nhiên, về đất nước,
người ta không còn nghi ngại gì về chất lượng, giá trị nghệ thuật của thơ do chính thiếu nhi
viết. Dư luận văn học nhìn chung vẫn xem tác phẩm viết cho thiếu nhi là “non tay”, là
không thể yêu cầu cao về chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật... Thơ Trần Đăng Khoa là một bất
ngờ lớn. Từ chiều sâu nội tâm, từ sự cảm nhận tinh tế kết hợp tài năng vận dụng ngôn ngữ
lột tả mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên, Trần Đăng Khoa đã bộc lộ một tình yêu
quê hương sâu sắc và truyền được cho người đọc cả tình yêu ấy:
Trời đất đêm nay
Như chim mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới đông
Đi trong ngào ngạt
Niềm vui gieo trồng
Thịt da ta cũng
Tỏa hơi ruộng đồng.
( Hương đồng. Từ góc sân nhà em )
Với sự cảm nhận tinh tế, Trần Đăng Khoa nghe được “tiếng cây lách chách đâm
chồi”; “tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” của chiếc lá đa đêm vắng, tiếng “thở hỉ hóp
trên sân” của thóc ngày mùa, tiếng “gió giở mình trăn trở” đêm thu, cánh đồng ngất ngây
bởi “mùi bùn đang ngấu - mùi phân đang hoai - vôi chưa tan hẳn, còn hăng rãnh cày...” Có
thể nói tâm hồn Khoa luôn hòa hợp với thiên nhiên, với đời sống lao động nơi thôn xóm.
Ánh trăng cũng gợi cho Trần Đăng Khoa nhiều liên tưởng bất ngờ rất trẻ thơ. Qua mắt
nhìn trẻ thơ nên trăng mới được ví là “quả bóng, đứa nào đá lên trời” và như “mắt cá,
không bao giờ chớp mi”. Xuất phát của hình tượng trong thơ phải chăng đã được liên hệ từ
89
những trò chơi quen thuộc, là dấu ấn của những lần mò cua, bắt cá trên đồng mà có lần
Khoa cùng các bạn phải chứng minh bằng được rằng mắt cá bóng đỏ ngầu hay là mắt cá dói,
cho câu thơ:
Này thằng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_05_08_0066408813_5271_1872279.pdf