Trang tựa trang
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ
NHIỆM VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ
LỜI CAM ĐOAN .i
LỜI CÁM ƠN. ii
TÓM TẮT . iii
ABSTRACT .iv
MỤC LỤC .v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT . vii
DANH MỤC CÁC BẢNG.ix
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH.x
CHưƠNG 1 GIỚI THIỆU LUẬN VĂN.1
1.1. Tổng quan về robot .1
1.2. Kỹ thuật điều hướng cho robot di động bằng bánh xe.15
1.3. Tóm tắt một số công trình đã nghiên cứu.17
1.4. Nhận xét chung và hướng tiếp cận. .23
1.5. Mục tiêu của luận văn. .25
1.6. Nhiệm vụ của luận văn.25
1.7. Giới hạn của luận văn.26
1.8. Điểm mới của luận văn. .26
1.9. Nội dung của luận văn.26
CHưƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT .27
2.1. Tiêu chuẩn ổn định Lyapunov.27
2.2. Điều khiển trượt .28
2.2.1. Xuất phát điểm của phương pháp điều khiển trượt .28
2.2.2. Nguyên lý điều khiển trượt .31
2.2.3. Các bước xây dựng bộ điều khiển trượt .33
CHưƠNG 3 XÂY DỰNG MÔ HÌNH TOÁN CHO ROBOT HÀN DI ĐỘNG
HAI BÁNH XE .34
3.1. Mô hình hình học của robot hàn di động hai bánh xe: .34
100 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiết kế bộ điều khiển phi tuyến cho robot hàn di động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lái
phía trước.
Hai bánh truyền động được nối trục ở phía sau và
một bánh lái phía trước.
Hai bánh truyền động độc lập ở giữa, hai bánh lái
ở hai đầu.
13
Cấu trúc sơ đồ ba bánh là kết cấu có khả năng duy trì cân bằng nhất, tuy
nhiên kết cấu hai bánh cũng có thể cân bằng được. Khi robot có số bánh nhiều hơn
ba thì thông thường người ta phải thiết kế hệ thống treo để duy trì sự tiếp xúc của tất
cả các bánh xe với mặt đất.
Dưới đây là một số sơ đồ bố trí bánh xe điển hình của WMR:
Hình 1.2.2. Cấu hình một bánh lái phía trước, một bánh truyền động phía sau
Hình 1.2.3. Cấu hình hai bánh truyền động với trọng tâm ở bên dưới trục bánh xe
Hình 1.2.4. Cấu hình hai bánh chuyển động vi sai và thêm hai điểm tiếp xúc
14
Hình 1. 2.5. Cấu hình hai bánh truyền động độc lập ở phía sau
và một bánh lái ở phía trước.
Hình 1.2.6. Cấu hình hai bánh quay tự do ở phía sau, bánh trước vừa là
bánh truyền động vừa là bánh lái.
Hình 1.2.7. Cấu hình ba bánh đa hướng
15
Hình 1.2.8. Cấu hình bốn bánh đa hướng.
Không có cấu hình “lý tưởng” cho sơ đồ bố trí bánh xe ở WMR. Mỗi ứng
dụng của nó sẽ bị ràng buộc về các vần đề về thiết kế robot, và nhiệm vụ của người
thiết kế là lựa chọn một sơ đồ bánh xe thích hợp nhất.
1.2. Kỹ thuật điều hƣớng cho robot di động bằng bánh xe
Vấn đề di chuyển là vấn đề trọng tâm của robot di động. Để di chuyển được,
robot phải thực hiện một loạt các tác vụ, mỗi tác vụ gắn với một bài toán nhỏ trong
bài toán di chuyển
Sự di chuyển của WMR cơ bản theo hai hướng sau :
- Từ điểm này (điểm bắt đầu) đến điểm kia (điểm mục tiêu).
- Di chuyển bám theo quỹ đạo cho trước
16
Hình 1.3.1. Chuyển động cơ bản của WMR
a) di chuyển từ điểm bắt đầu đến điểm đích, b) di chuyển theo quỹ đạo
WMR di chuyển theo một quĩ đạo định sẵn được gọi là robot bám đường.
Robot bám đường có thể di chuyển theo một đường, đường đi có thể là có thể được
nhìn nhận như một dòng màu đen trên một bề mặt trắng (hoặc ngược lại) hoặc nó có
thể là đường vô hình như một từ trường.
Trong các dây truyền sản xuất tự động, những WMR di chuyển theo một quỹ
đạo lặp lại để thực hiện một số nhiệm vụ trong hệ thống tự động được ứng dụng
ngày càng rộng rãi. Ngoài ra, ngày nay trên những xe ô tô hiện đại, thường được các
hãng phát triển hệ thống lái lái tự động. Bài toán đi theo quĩ đạo cũng được áp dụng
rộng rãi trong các cuộc thi Robocon dành cho các sinh viên các trường Cao đẳng,
Đại học kỹ thuật.
Vấn đề bài toán điều khiển WMR di chuyển theo quĩ đạo (Trajectory
following) đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm, từ việc áp dụng các thuật toán
điều khiển thích nghi đến việc mã hóa thông tin về đường đi dưới dạng số bằng việc
17
bố trí hàng loạt cảm biến thu phát quang đến ứng dụng kỹ thuật xử lý ảnhTrong
luận văn này bài toán WMR di động bám theo quỹ đạo được giải quyết bằng một bộ
điều khiển với giải thuật “Trượt – Tích phân” mà kết quả được chứng minh bằng
mô phỏng trên Matlab.
1.3. Tóm tắt một số công trình đã nghiên cứu.
1. “Structural Properties and Classification of Kinematicand Dynamic
Models of Wheeled Mobile Robots”, Guy Campion, Georges Bastin, and Brigitte
D’ AndrCa-Nove; iEEE transactions on Robotics and automation, vol. 12, no. 1,
february 1996.[1]
Bài báo này trình bày vấn đề các loại robot di chuyển bằng bánh (WMR) đã
được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng công nghiệp và dịch vụ khác nhau như
giao thông vận tải, an ninh, kiểm tra và thăm dò các hành tinh, , với các cấu hình
di động khác nhau về (số lượng và loại bánh xe, vị trí và bộ phận điều khiển của
chúng, cấu trúc đơn hoặc cấu trúc đôi). Một nghiên cứu phân tích chi tiết cấu trúc
của các mô hình động học và động lực học của các robot di chuyển bằng bánh có
thể được tìm thấy trong [1],[2], [3].
Hình 1.3.2. cấu trúc của robot di chuyển bằng bánh
2. “ A Simple Nonlinear Control of a Two-Wheeled Welding Mobile
Robot”, T. H. Bui, T. T. Nguyen, T. L. Chung, and S. B. Kim, International Journal
of Control, Automation, and Systems, Vol. 1, No. 1, pp. 35-42, 2003.[5]
Bài báo này đề cập đến việc sử dụng mô hình động học của WMR bám quỹ
đạo đã được giải quyết trong [5]. Trong [5] đề xuất một bộ điều khiển phi tuyến đơn
18
giản được thiết kế dựa trên mô hình động học cho robot di động hàn hai bánh, tính
bền vững dựa vào lý thuyết ổn định Lyapunov để bám đường hàn với vận tốc không
đổi. Hệ thống này (xem hình 1.2) có ba bậc tự do bao gồm cả hai bánh xe và thanh
trượt mỏ hàn.
Hình 1.3.3. Mô hình Robot hàn MR-SL
Luật điều khiển có được từ các hàm năng lượng Lyapunov để đảm bảo sự ổn
định tiệm cận của hệ thống. Bộ điều khiển có ba thông số để điều chỉnh sự thực hiện
của hệ thống điều khiển. Cách đơn giản để đo các sai số là sử dụng hai cảm biến,
một là cảm biến để đo khoảng cách và một cảm biến đo góc quay. Trường hợp mỏ
hàn cố định thì có thể bám đường thẳng và mất nhiều thời gian để sai lệch tiến về 0,
nhưng không bám được đối với đường cong. Trường hợp mỏ hàn điều khiển được
thì bám đường cong trơn nhanh hơn với sai số chấp nhận được, kết quả mô phỏng
trong hình 1.3.5, 1.3.6.
Hình 1.3.4. Các sai số bám e1, e2, e3 có sai lệch
19
Hình 1.3.5. Vận tốc của mỏ hàn và WMR.
Từ kết quả mô phỏng hình, tác giả đi đến kết luận như sau :
- Mỏ hàn cố định có thể bám theo đường thẳng, nhưng cần nhiều thời gian
để các sai số tiến về 0.
- Không thể sử dụng WMR có mỏ hàn cố định bám theo theo đường cong
vì có sai số lớn.
- Trường hợp mỏ hàn điều khiển được thì bám đường cong trơn nhanh hơn
với sai số chấp nhận được.
3. “WMR control via dynamic feedback linearization: M. Vendittelli, Design,
implementation and experimental validation”; Giuseppe Oriolo, Member, IEEE,
Alessandro De Luca, Member; IEEE, and Marilena Vendittelli, IEEE Trans.
Control. Syst. Technol., Vol. 10, No. 6, pp. 835–852, Nov. 2002.[4]
Bài báo này trình bày phương pháp tuyến tính hóa hồi tiếp được sử dụng cho
việc bám quỹ đạo và ổn định vị trí của Robot di động. Việc thực hiện của phương
pháp này trên robot super MARIO - một robot di động điều khiển bằng hai bánh xe
khác nhau, được mô tả như hình 1.3.7. Kết quả mô phỏng các sai lệch thể hiện ở
hình 1.3.8
20
Hình 1.3.6. Robot super MARIO
Hình 1.3.7. Các sai số bám và của robot super MARIO
Mặc dù bài toán điều khiển các hệ thống Robot di chuyển theo lý thuyết thì
hầu như đã được giải quyết, nhưng đối với các nhà thiết kế điều khiển WMR có vẫn
còn nhiều vấn đề cần được quan tâm. Ví dụ như, nhược điểm của nhiều bộ điều
khiển ổn định vị trí là quá trình chuyển tiếp kém.
4. “Sliding Mode Control for Trajectory Tracking of Nonholonomic Wheeled
Mobile Robots “,Jung-Min Yang and Jong-Hwan Kim, IEEE transactions on
Robotics and automation, vol. 15, no. 3, june 1999. [8].
Trong bài báo này tác giả sử dụng kỹ thuật điều khiển kiểu trượt và bộ điều
khiển động lực học có nhiễu ngoài bị chặn, đã được sử dụng để giải quyết bài toán
điều khiển bám cho WMR. Robot sử dụng trong thực nghiệm có tên là MICRO và
kết quả mô phỏng khi robot bám đường thẳng như hình 1.3.9.
21
Hình 1.3.8. Các sai số khi robot MICRO bám đường thẳng.
Kết quả mô phỏng cho thấy robot có thể bám theo đường cong tham chiếu,
nhưng vẫn còn hiện tượng dao động lớn như sai số thể hiện ở hình 1.12
5. “Sliding mode control of two –wheeled welding mobile Robot for tracking
Smooth Curved welding path”, Tan Lam Chung, Trong Hieu Bui, Tan Tien Nguyen,
Sang Bong Kim, KSME International Journal, Vol.18 no.7, pp.1094 – 1106,
2004.[9].
Trong bài báo này, bộ điểu khiển phi tuyến cơ bản dựa trên kiểu điều khiển
trượt cho robot di động hàn đường viền (WMR) bám theo đường cong hàn phẳng
với vận tốc không đổi. Robot di động này cũng được xem xét về mặt mô hình động
lực học có các thông số đã biết trước với sự hiện diện của nhiễu bị chặn. Tuy nhiên,
dù bộ điều khiển này làm cho các sai lệch e1, e2, e3 cần nhiều thời gian (16s) đi về
không đối với mỏ hàn cố định trong hình 1.18. Vận tốc góc xe đổi hướng theo quỹ
đạo chuyển động nhưng còn dao động so với giá trị trung bình xem hình 1.3.10.
22
Hình 1.3.9. Các sai lệch bám của robot hàn.
Hình 1.3.10. Vận tốc góc của robot của robot hàn
6. “Sliding-Mode Tracking Control of Nonholonomic Wheeled Mobile
Robots in Polar Coordinates”, Dongkyoung Chwa, IEEE transactions on control
systems technology, vol. 12, no. 4, july 2004.[10].
Trong bài báo này đề xuất đến một phương pháp điều khiển trượt cho các
Robot có bánh di động trong hệ tọa độ cực. Phương pháp này là sự kết hợp giữa
điều khiển trượt và mô hình động học để cho robot di chuyển trong hệ tọa độ cực
hai chiều. Quỹ đạo tham chiếu trong [10] có thể là một đường cong hay một
đoạn thẳng và kết quả mô phỏng khi Robot bám đường thẳng, đường cong như
hình 1.20, 1.21.
23
Hình 1.3.11. Robot bám theo đường thẳng.
Hình 1.3.12. Robot bám theo đường cong.
Phương này cho thấy robot bám theo quỹ đạo đường thẳng hay đường cong
tham chiếu rất tốt, có thể áp dụng và nghiên cứu thêm.
1.4. Nhận xét chung và hƣớng tiếp cận.
Qua các công trình nghiên cứu cho thấy việc ứng dụng các giải thuật khác
nhau để điều khiển cho robot di chuyển bằng bánh (WMR) bám theo quỹ đạo tham
chiếu với vận tốc không đổi.Tuy nhiên, mỗi phương pháp đều có ưu, khuyết điểm
như phương pháp điều khiển tuyến tính có ưu điểm như đơn giản, dễ tính toán khi
xây dựng luật điều khiển, nhưng phương pháp này độ chính xác không cao. Chỉ làm
việc tốt gần điểm đặt, làm việc không tốt khi ở xa điểm đặt. Công thức còn thử sai
24
nhiều. Phương pháp này chỉ áp dụng cho hệ thống đơn giản, làm việc trong khoảng
hẹp. Trên thực tế ít có sự chuyển động hay làm việc với hệ thống đơn giản, và đặc
biệt sự đòi hỏi về độ chính xác ngày càng cao vì vậy phương pháp điều khiển tuyến
tính được ứng dụng rất hạn chế.
Phương pháp điều khiển phi tuyến có các nhược điểm sau như xây dựng luật
điều khiển phức tạp, bắt buộc phải xây dựng phương trình toán hệ thống và thông số
của hệ thống, nhưng phương pháp điều khiển phi tuyến có ưu điểm là độ chính xác
cao, phương trình tính toán xác định được đường đi phức tạp. Điều khiển phi tuyến
có độ ổn định tốt và tầm làm việc rộng vì vậy trong luận văn này người nghiên cứu
đã chọn thiết kế bộ điều khiển phi tuyến bởi sự yêu cầu khắt khe của robot hàn. Để
tạo ra một bộ điều khiển cho các Robot di động bám quỹ đạo với một vận tốc cho
trước thực hiện một nhiệm vụ nào đó là vấn đề được quan tâm. Những thách thức
lớn đó là bộ điều khiển là phải tác động nhanh khi đầu vào tham chiếu thay đổi và
nếu thiết kế bộ điều khiển chỉ dựa vào mô hình động học, thì khi robot hoạt động
chắc chắn sẽ bị tác động bởi các yếu tố nhiễu bên ngoài như ma sát, lực cản không
khí, thay đổi thông số trong mô hình gây ra sai lệch lớn so với các giá trị tham
chiếu. Vì vậy quá trình thiết kế bộ điều khiển phải tính đến nhiễu xảy ra trong suốt
quá trình thực hiện nhiệm vụ của robot và cần một mô hình động lực học chính xác,
có xem xét đến những thuộc tính như: khối lượng, quán tính, lực ma sát, lực ly tâm,
mô men,
Bài toán đặt ra là các sai số bám vị trí và sai số bám tốc độ phải tiến về
không khi thời gian t tiến đến vô cùng, thời gian quá độ nhỏ theo yêu cầu, trong
điều kiện môi trường có nhiễu (như ma sát, sức cản của gió)
Với những lý do trên, trong luận văn này đưa ra một giải thuật điều khiển mà
đó là sự kết hợp của bộ điều khiển trượt trên cơ sở điều khiển động học và động lực
học với giải thuật điều khiển trượt tích phân cho một robot di động hai bánh bám
theo chiến lược mong muốn với một vận tốc không đổi.
25
Điều khiển trượt đầu tiên được nghiên cứu bởi Emelyanov et al (1970) và sau
đó được Itkis (1976) và Utkin (1977) phát triển lên.
Phương pháp điều khiển trượt dùng trực tiếp mô hình động lực học. Nội
dung của phương pháp gồm hai bước. Trước tiên, chọn một mặt trượt bảo đảm sai
lệch quỹ đạo luôn tiến về 0. Sau đó, chọn luật điều khiển thích hợp để đưa trạng thái
hệ thống kín luôn về trên mặt trượt. Phương pháp này có độ chính xác điều khiển
cao, bền vững đối với nhiễu tải và sự thay đổi các thông số của đối tượng điều
khiển. Do đó, phương pháp này là một trong những hướng được nghiên cứu nhiều
trong thời gian gần đây.
- Điều khiển với cấu trúc biến đổi trong chế độ trượt tích phân đảm bảo cho
hệ thống có độ bền vững cao, chất lượng của hệ thống được giữ nguyên không đổi
ngay cả khi tham số của đối tượng thay đổi trong một phạm vi nhất định.
- Sự ổn định của hệ thống được chứng minh dựa trên lý thuyết ổn định
Lyapunov.
- Trong luận văn có sử dụng phần mềm Matlab để mô phỏng và kết quả mô
phỏng được trình bày để minh họa hiệu quả của giải thuật điều khiển.
1.5. Mục tiêu của luận văn.
Mục tiêu của đề tài là “Điều khiển bám theo chiến lược mong muốn cho
robot hai bánh dùng bộ điều khiển trượt tích phân”. Cụ thể, đề tài đưa một giải thuật
điều khiển trượt tích phân để điều khiển WMR bám theo chiến lược mong muốn với
vận tốc không đổi.
1.6. Nhiệm vụ của luận văn.
Tổng quan về robot di động hai bánh.
Xây dựng mô hình động học và động lực học cho robot hàn di động hai
bánh.
Thiết kế bộ điều khiển trượt tích phân cho robot hàn di động hai bánh bám
theo đường hàn mong muốn.
Mô phỏng và đánh giá kết quả.
26
Thiết kế mô hình robot hàn di động
Chạy thực nghiệm robot hàn.
Kết luận và đưa ra hướng phát triển của đề tài
1.7. Giới hạn của luận văn.
Khảo sát dựa vào mô phỏng robot hàn di động hai bánh sử dụng giải thuật
điều khiển trượt tích phân với đường hàn mong muốn cho trước trên máy
tính, bằng phần mềm Matlab.
Thiết kế phần cứng và phần mềm robot hàn di động.
Chạy thực nghiệm robot.
1.8. Điểm mới của luận văn.
Luận văn này đưa ra một giải thuật điều khiển trượt tích phân cho một robot
hàn di động hai bánh bám theo đường hàn mong muốn, với một vận tốc
không đổi.
1.9. Nội dung của luận văn.
Luận văn bao gồm có 7 chương:
Chƣơng 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chƣơng 3: XÂY DỰNG MÔ HÌNH TOÁN CHO ROBOT HÀN DI ĐỘNG HAI BÁNH XE
Chƣơng 4: THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN TRƢỢT TÍCH PHÂN
Chƣơng 5: THIẾT KẾ, CHẾ TẠO ROBOT HÀN
Chƣơng 6: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Chƣơng 7: KẾT LUẬN VÀ HƢỚNG PHÁT TRIỂN
27
CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Nội dung của luận văn này đưa ra một bộ điều khiển phi tuyến, được kết hợp
bộ điều khiển động học và bộ điều khiển trượt tích phân cho rô bốt hàn bám theo
đường hàn cong cho trước với tốc độ mong muốn không đổi. Đầu tiên, bộ điều
khiển động học được thiết kế để véc tơ sai số vị trí tiệm cận về không. Thứ hai, bộ
điều khiển động lực học trượt tích phân được thiết kế để cho véc tơ sai số vận tốc
cũng tiệm cận về không. Tính ổn định của hệ thống được chứng minh dựa vào lý
thuyết ổn định Lyapunov. Các kết quả mô phỏng được trình bày nhằm minh họa
tính hiệu quả của bộ điều khiển phi tuyến đưa ra.
Để thiết kế và kiểm tra độ ổn định của bộ điều khiển trượt, tiêu chuẩn
Lyapunov được áp dụng.
2.1. Tiêu chuẩn ổn định Lyapunov
Một trong những điều kiện, hay tiêu chuẩn chất lượng đầu tiên mà bộ điều
khiển cần phải mang đến được cho hệ thống là tính ổn định. Đây là tính chất động
học đảm bảo rằng sau khi bị một tác động tức thời đánh bật hệ ra khỏi điểm cân
bằng thì sau đó hệ có khả năng tự tìm về điểm cân bằng ban đầu.
Phương pháp Lyapunov cung cấp điều kiện đủ để đánh giá tính ổn định của hệ
phi tuyến. Ngoài ra, có thể dùng phương pháp Lyapunov để thiết kế các bộ điều
khiển phi tuyến. Hiện nay phương pháp Lyapunov là phương pháp được sử dụng
rộng rãi nhất để phân tích và thiết kế hệ phi tuyến.
Triết lý của Lyapunov dựa vào năng lượng, nếu năng lượng hệ thống cứ tiêu
tán mãi thì sau một thời gian hệ thống phải đứng yên ở điểm cân bằng. Như vậy khi
khảo sát sự ổn định của một hệ thống ta đi tìm một hàm vô hướng dương biểu thị
năng lượng và xét xem hàm này tăng hay giảm theo thời gian.
Định lý Lyapunov được phát biểu như sau: Xét hệ thống được mô tả bởi
phương trình trạng thái : ̇ = f (x1, x2,,xn). Nếu tìm được một hàm V(x) với mọi
28
biến trạng thái x1, x2,,xn làm một hàm xác định dương sao cho đạo hàm của nó
theo thời gian
là một hàm xác định âm thì hệ thống sẽ ổn định. Lúc này V(x)
được gọi là hàm Lyapunov.
Khi V(x) . ̇(x) < 0 : hệ thống ổn định tiệm cận
Khi V(x) . ̇(x) = 0 : biên giới ổn định
Khi V(x) . ̇(x) > 0 : hệ thống không ổn định
Hình 2.1. Minh họa hàm Lyapunov
2.2. Điều khiển trƣợt
Phương pháp điều khiển trượt được công nhận là một trong những công cụ
hiệu quả để thiết kế bộ điều khiển mạnh mẽ cho đối tượng có phương trình động lực
học phi tuyến bậc cao phức tạp trong điều kiện không chắc chắn.
2.2.1. Xuất phát điểm của phƣơng pháp điều khiển trƣợt
Xét hệ cho trong hình 2.2. từ sơ đồ khối của hệ cũng như hàm truyền đạt của
khâu tuyến tính, ta có ngay khi w = 0 :
Hình 2.2. Sơ đồ khối một hệ điều khiển
V =V3
V =V2
V =V1
V
x1
x2
0
V3> V2> V1
x2
x1
V =V3 V =V2
V =V1
0
V3> V2> V1
29
Bây giờ ta sẽ khảo sát tính chất động học của hệ bằng phơng pháp mặt phẳng
pha (không gian trạng thái với hai biến trạng thái). Căn cứ vào mô hình toán học
trên ta xác định được mặt phẳng pha sẽ phải là mặt phẳng với hai trục tọa độ x1 và
x2. Phân chia mặt phẳng pha này thành hai miền điểm bởi đừng thẳng P (gọi là
đường chuyển đổi): k x1+ x2= 0
Hình 2.3. Đồ thị quỹ đạo pha
(hình 2.3b) thì nửa mặt phẳng pha phía trên đường thẳng sẽ là nửa mà ở đó có
u = -1 và phía dưới là nửa ứng với u = 1. Khi u = - 1 thì
[
]
Trong đó c1 là hằng số phụ thuộc vào giá trị đầu, nên quỹ đạo pha (quỹ đạo
trạng thái tự do) cho những giá trị c1 khác nhau có dạng parabol và được biểu diễn
trong hình 2.3a bằng đường nét liền. Chiều của các parabol này được xác định từ điều
hiển nhiên rằng khi x2 > 0 thì x1 phải có xu hướng tăng. Tương tự, khi u = 1 thì:
[
]
Với c2 cũng là hằng số phụ thuộc vào giá trị đầu. Do đó quỹ đạo pha (quỹ đạo
trạng thái tự do) của hệ ở nửa trên đường thẳng P ứng với những giá trị c2 khác
nhau có dạng parabol (2.3) và được biểu diễn trong hình 2.3a bằng đường nét rời.
Bây giờ ta đã có thể xây dựng một quỹ đạo pha đi từ điểm đầu tuỳ ý nhưng
cho trước trong mặt phẳng pha. Chẳng hạn đó là điểm A như hình 2.3b. Do điểm A
này nằm ở phần mặt phẳng pha phía trên đường chuyển đổi P (có u = -1 ) nên quỹ
đạo pha đi qua nó đi theo đường parabol nét liền. Dọc theo đường nét liền đó cho
30
tới khi gặp đường thẳng P phân chia hai miền điểm, tức là đến điểm B, thì quỹ đạo
pha sẽ phải chuyển sang đường parabol nét rời vì kể từ lúc này nó đã đi vào miền
mặt phẳng pha có u = 1
Theo đường parabol nét rời, quỹ đạo pha đi từ B tới điểm C là điểm gặp
đường chuyển đổi P thì lại chuyển sang đường parabol nét liền . Cứ theo nguyên
lý chuyển từ đường parabol nét liền sang đường parabol nét rời và từ parabol nét rời
lại trở về parabol nét liền mỗi khi gặp đường chuyển đổi P, ta xây dựng được
hoàn chỉnh quỹ đạo pha của hệ đi từ điểm xuất phát A như hình 2.3b mô tả.
Từ dạng quỹ đạo pha dần có xu hướng tiến về gốc tọa độ và kết thúc tại đó, ta
rút ra được những kết luận sau về chất lượng của hệ thống:
- Hệ có một điểm cân bằng là gốc tọa độ trong mặt phẳng pha (x1, x2).
- Hệ không có dao động điều hòa, không có hiện tượng hỗn loạn.
- Hệ ổn định tại gốc tọa độ.
- Hệ có miền ổn định 0 là toàn bộ mặt phẳng pha (ổn định toàn cục).
Ngoài các kết luận trên, ở hệ đang xét còn có một hiện tượng rất đặc trưng có
tên gọi là hiện tượng trượt (sliding). Hiện tượng này xuất hiện khi mà quỹ đạo pha
đi vào phần đường phân điểm P mà ở đó đường parabol nét rời sẽ không còn nằm
phía dưới của P cũng như parabol nét liền không còn nằm phía trên P. Nó chính là
đoạn thẳng trên P nằm giữa điểm tiếp xúc E của P với parabol nét liền (2.4) và điểm
tiếp xúc F của P với parabol nét rời
Hình 2.4 Giải thích hiện tượng trượt .
a) Xác định khoảng trượt, b) hiện tượng quỹ đạo pha trượt về gốc tọa độ.
31
Xét đoạn quỹ đạo pha đang đi theo parabol nét liền (hình 2.4b) thì gặp đường
chuyển đổi P nằm trong khoảng EF (được gọi là khoảng trượt). Khi đó nó sẽ chuyển
sang đường parabol nét rời. Song đoạn đường parabol nét rời này lại nằm trong phần
mặt phẳng pha ứng với đường parabol nét liền nên ngay sau khi chuyển sang đường
parabol nét rời, quỹ đạo pha lại phải chuyển sang đường parabol nét liền. Theo đường
parabol nét liền nó quay trở về đường phân điểm P và gặp lại đường P tại một điểm
khác cũng trong khoảng trượt EF nhưng gần gốc tọa độ hơn. Từ đây nó lại phải
chuyển sang đường parabol nét rời . Cứ như vậy quỹ đạo pha chuyển động zick -
zack xung quanh đường P để tiến về gốc tọa độ (hiện tượng trượt).
2.2.2. Nguyên lý điều khiển trƣợt
Ta xem xét hệ động học sau:
x(n) = a(X) + B(X).u (2.1) (2.1)
Trong đó đại lượng vô hướng x là đầu ra mong muốn, đại lượng vô hướng u là
tín hiệu điều khiển đầu vào, TnxxxX )1(... là vectơ trạng thái, a(X) là hàm
phi tuyến không biết chính xác và B(X) là ma trận biểu diễn độ khuếch đại điều
khiển không biết chính xác.
Trạng thái ban đầu Xd (0) phải là:
Xd(0) X(0) (2.2)
Gọi véc tơ sai lệch tín hiệu đặt là Tnd xxxXXX )1(~...~~
~
Với mục tiêu điều khiển bám mục tiêu thì chúng ta cần xác định luật điều
khiển hồi tiếp u = u (X) sao cho cho trạng thái của hệ vòng kín sẽ bám theo trạng
thái mong muốn và triệt tiêu ̃ khi t .
Ta định nghĩa bề mặt trượt là bề mặt biến thiên theo thời gian S(t) trong không
gian trạng thái R(n) bằng phương trình vô hướng S(X;t) = 0 trong đó:
S(X;t) = x
dt
d n ~)( 1 (2.3)
Với là một hằng số dương. Ví dụ nếu n = 2 thì xxS ~~ tức s là tổng mức
ảnh hưởng của sai lệch vị trí và sai lệch vận tốc.
32
Việc giữ giá trị vô hướng S bằng 0 có thể giải quyết được bằng cách chọn
luật điều khiển u trong (2.1) sao cho ở bên ngoài S(t) ta có:
StXS
dt
d
),(
2
1 2
(2.4)
Trong đó là hằng số dương. (2.4) cho thấy rằng khoảng cách đến bề mặt S,
được tính bằng S2, giảm xuống theo quỹ đạo hệ thống.
Vì thế nó buộc các quỹ đạo hệ thống hướng tới bề mặt S(t) như minh họa
trong hình 2.5a dưới đây.
Hình 2.5. Giải thích nguyên lý trượt
Bắt đầu từ điểm xuất phát ban đầu nào đó, quỹ đạo trạng thái chạm đến mặt
trượt, sau đó sẽ trượt dọc theo mặt trượt và hướng đến xd với tốc độ hàm mũ, với
hằng số thời gian 1/ (hình 2.5b).
Tóm lại, từ phương trình (2.3) chọn một hàm S, sau đó chọn luật điều khiển
u trong (2.1) sao cho S
2
duy trì một hàm Lyapunov của hệ thống kín, bất chấp sự
thiếu chính xác của mô hình và sự có mặt của nhiễu loạn. Trình tự thiết kế do đó sẽ
bao gồm 2 bước:
+ Bước một, chọn luật điều khiển u thỏa mãn điều kiện trượt (2.4).
+ Bước hai, luật điều khiển không liên tục u đã được chọn trong bước một
được làm nhẵn một cách thích hợp để có sự dung hòa tối ưu giữa dải thông điều
khiển và tính chính xác của quỹ đạo, đồng thời khắc phục hiện tượng chattering
(hình 2.5c).
33
2.2.3. Các bƣớc xây dựng bộ điều khiển trƣợt
Định nghĩa sai lệch quỹ đạo:
d
d
xxe
xxe
(2.5)
Định nghĩa hàm trượt:
∫ (2.6)
với K là ma trận đường chéo với các phần tử là hằng số dương.
Trong không gian n chiều phương trình S=0 xác định mặt cong gọi là mặt
trượt (sliding surface). Sử dụng phương pháp Lyapunov, chọn một hàm xác định
dương V, thông thường chọn V có dạng:
(2.7)
Tính đạo hàm bậc nhất của V, ta được :
̇ ̇ (2.8)
Từ phương trình ̇ ̇, ta tìm chọn được luật điều khiển u nào đó và với
luật điều khiển u này ta chứng minh được ̇ khi đó theo định lý ổn định của
Lyapunov thì các biến của hàm V tức mặt trượt S sẽ tiến về 0 khi t . Điều này
đồng nghĩa với các sai lệch e cũng tiến về 0 khi t . Hay nói cách khác các quỹ
đạo pha X của hệ thống được tiếp cận mặt trượt S và bên trên mặt trượt, quỹ đạo
pha X bám theo tín hiệu đặt Xd một cách tiệm cận. Hình 2.6 biểu diễn quá trình tiếp
cận của các quỹ đạo pha và quá trình trượt của chúng đến điểm cân bằng.
Hiện tượng chattering: Điều khiển trượt lý tưởng đòi hỏi luật điều khiển phải
thay đổi tức thời ngay tại thời điểm quỹ đạo pha của hệ thống vừa chạm vào mặt
trượt để đảm bảo khi S = 0 thì ̇ . Trong thực tế điều này không thể thực hiện
được do thời gian trễ hay quán tính của khâu chấp hành. Kết quả là quỹ đạo pha tiếp
tục vượt qua khỏi mặt trượt sau khi chạm vào nó và gây hiện tượng quỹ đạo pha dao
động quanh mặt trượt. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng chattering và được
biểu diễn như trong hình 2.7 . Do trong quá trình thiết kế người ta có sử dụng hàm
dấu Sign(S) để giúp cho ̇ . Để khắc phục hiện tượng trên người ta thay thế
bằng hàm sat(S)
34
CHƢƠNG 3
XÂY DỰNG MÔ HÌNH TOÁN
CHO ROBOT HÀN DI ĐỘNG HAI BÁNH XE
3.1. Mô hình hình học của robot hàn di động hai bánh xe:
Trong phần này, mô hình động học và động lực học của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thiet_ke_bo_dieu_khien_phi_tuyen_cho_robot_han_di_d.pdf