Luận văn Thiết kế và hiện thực chương trình quản lý quảng cáo trên trang web

NỘI DUNG

 

Lời cảm ơn

Nội dung

Lời nói đầu

Phần mở đầu 1

I. Phương hướng tiếp cận đề tài 2

II. Mục đích của đề tài 3

III. Yêu cầu của đề tài 3

 

Phần 1 : CƠ SỞ LÝ THUYẾT

 

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM CƠ BẢN 4

I. Mô hình ứng dụng client - server và ứng dụng trên Web 4

II. Ưng dụng trên Web 7

III. CGI và ISAPI 8

1. CGI 8

2. ISAPI 13

IV. So sánh và đánh giá 17

1. Hoạt động của ứng dụng CGI 17

2. CGI, ISAPI và WINCGI 17

3. Overhead của ISAPI 19

4. tạo ứng dụng Internet Server bằng ISAPI 19

 

CHƯƠNG 2 : ISAPI EXTENSIONS 20

I. DLL trong ISAPI Extensions 20

II. MFC cho ISAPI Extensions 24

1. CHttpServer 24

2. CHttpServerContext 24

3. CHtmlStream 25

4. Form và Parse Map 25

III. Sử dụng ISAPI Extension để truy xuất database 29

1. ODBC và DAO 29

2. Sử dụng MFC để truy xuất database 29

3. ISAPI trong việc truy xuất database 31

 

CHƯƠNG 3 : CHUẨN ODBC - INTERNET INFORMATION SERVER 34

I. ODBC 34

II. Internet Information Server 36

1. Web server 36

2. IIS 36

 

CHƯƠNG 4: NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ QUẢNG CÁO TRÊN WEB 40

I. Một số định nghĩa 40

II. Chiến lược quảng cáo 42

1. Dạng file của Ad banner 42

2. Alt Text 42

3. Đưa ad banner ra trang web 43

4. Sắp xếp Ad banner 43

 

PHẦN 2 : HIỆN THỰC CHƯƠNG TRÌNH

 

CHƯƠNG 1 : PHÂN TÍCH CHƯƠNG TRÌNH 46

I. Phân tích chương trình 46

1. Advertiser 47

2. Campaign 47

3. Advertisement 48

II. Mô tả chương trình 49

1. Phía Advertiser 49

2. Phía AdMaster 50

 

CHƯƠNG 2 :THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH 52

I. Cơ sở dữ liệu 52

1. Tổ chức cơ sở dữ liệu 52

2. Các store procedure 59

II. Giải thuật đưa banner quảng cáo ra trang Web 63

1. Giải thuật tạo số ngẫu nhiên 63

2. Giải thuật chọn ad banner trong nhóm 64

III. Các thành phần chính của AdServer 66

1. Advertiser 66

2. AdMaster 66

3. Ad-Server 66

4. Quy trình thực hiện 68

Kết luận 92

Phụ lục 93

Tài liệu tham khảo 111

 

doc102 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiết kế và hiện thực chương trình quản lý quảng cáo trên trang web, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao diện lập trình của ngôn ngữ C cho một databse SQL. Do đó, đối tượng C hay C++ có thể truy xuất tới bất kỳ DBMS nào có driver ODBC. ODBC là lớp phục vụ giao tiếp giữa chương trình ứng dụng và hệ điều hành cũng như hệ thống file của database. ODBC nhận những yêu cầu truy xuất thông tin từ chương trình ứng dụng, chuyển nó thành ngôn ngữ mà database engine hiểu được để truy xuất thông tin từ database. Như vậy, nó cho phép chúng ta phát triển tập hợp các function và method để truy xuất đến database mà không cần phải hiểu sâu về database đó. Ví dụ, MS Access cho phép chúng ta liên kết (link) hay gắn (attach) một bảng đến database. Khi thực hiện điều này, Access sẽ yêu cầu chúng ta chọn loại database (database mà Access trực tiếp hỗ trợ), nếu không có loại database phù hợp chúng ta có thể chọn ODBC. Khi chọn ODBC, nó sẽ liệt kê tất cả các cấu hình khác nhau mà chúng ta đã thành lập, và chọn một trong số đó bất kể database engine nào. Khi ứng dụng làm việc với ODBC, nó làm việc với data source và database engine mà nó tham khảo. Khi thiết lập cấu hình cho client mà cài đặt những kết hợp driver với database. Những kết hợp này sẽ được đặt tên và được sử dụng khi chúng ta muốn yêu cầu kết nối để truy xuất đến database đó. Những kết hợp giữa database và driver gọi là những Data Source Name hay những DSN. Khi muốn mở một database thông qua ODBC, chúng ta phải cung cấp DSN, UserID và Password. ODBC sẽ lấy những thông số mà chúng ta đã thiết lập cấu hình sẵn (trong Control Panel - ODBC32) để tạo kết nối. Những thành phần chung của DSN : DSN : Tên DSN mà chúng ta đã đặt khi thiết lập cấu hình ODBC UID : UserID được sử dụng để login vào database PWD : Password được sử dụng khi login Như vậy, để truy xuất đến các database thông qua ODBC, ta phải cài đặt driver cho database đó. ODBC có nhiều driver để hỗ trợ cho các database khác nhau nhằm chuyển các bảng tính hay các tập tin văn bản thành data source. Hệ điều hành căn cứ vào thông tin được ghi bởi ODBC Administrator trong Registry để xác định cấp của ODBC driver giao tiếp với data source. Việc nạp ODBC driver là "trong suốt" (transparent) đối với chương trình ứng dụng. Trong môi trường mạng, ODBC đảm nhận luôn cả việc xử lý những vấn đề truy xuất dữ liệu trên mạng như việc truy xuất đồng thời hay giải quyết tranh chấp. Tóm lại, ODBC là một giao tiếp lập trình chuẩn cho người phát triển ứng dụng và nhà cung cấp database. Trước khi ODBC trở thành một chuẩn không chính thức cho các chương trình ứng dụng trên Windows giao tiếp với các hệ thống database, người lập trình phải sử dụng các ngôn ngữ riêng cho mỗi database mà họ muốn kết nối tới. Khi ODBC ra đời thì người lập trình không còn bận tâm về điều này nữa, họ có thể truy xuất đến các database khác nhau bằng các thủ tục và hàm như nhau. Mã của chương trình ựng dụng không thay đổi khi data source chuyển từ hệ thống database này sang hệ thống khác (ví dụ từ Oracle sang SQL server). Ưu điểm và nhược điểm của ODBC Vì ODBC cung cấp việc truy xuất đến bất kỳ dạng database thông dụng có sẵn, do đó tạo nên sự uyển chuyển trong những ứng dụng. Ta có thể chuyển ứng dụng từ hệ thống database này sang hệ thống database khác mà không tốn nhiều chi phí và công sức. DSN của ta có thể tham khảo đến bất kỳ một database nào. Điều này cho phép ta có thể tham khảo đến bất kỳ một database nào. Như vậy, ta có thể phát triển ứng dụng theo một hệ thống database này (chẳng hạn như Microsoft Access) nhưng lại biến đổi thành sản phẩm sử dụng hệ thống database khác (ví dụ như Microsoft SQL Server) bằng cách đơn giản là thay đổi driver được sử dụng DSN mà chúng ta định nghĩa trong ứng dụng. Việc gọi hàm qua lớp ODBC đến database engine không phải là không tổn phí. ODBC phải hỗ trợ khả năng chuyển đổi các hàm được gọi từ ứng dụng, việc này cần phí tổn cho việc xử lý và làm quá trình truy xuất database chậm đi. Hơn nữa, ODBC không hỗ trợ việc truy xuất cơ sở dữ liệu đối tượng (Object Database) II. Internet Information Server (IIS) 1. Web Server (HTTP server) Là một chương trình được nối với Web, cung cấp tài nguyên dựa trên những yêu cầu từ browser. Tài nguyên được yêu cầu luôn được xác định bởi một URL. Đối với bất kỳ một Web site nào, trung tâm của nó là back-end server, là một bộ phận chương trình dùng để hoàn thành các nhiệm vụ xử lý mà chương trình đó được thiết kế ra để thực hiện. Web server có thể cung cấp các trang Web tĩnh theo dạng tài liệu HTML, nhưng nó cũng có thể thực thi những ứng dụng để nâng cao nội dung của một site. 2. Internet Information Server (IIS) 2.1.Giới thiệu : Internet InFormation Server là một phần mềm phục vụ cho việc xuất bản thông tin trên Internet và Intranet. Phần mềm này chạy trên môi trường Windows NT, nó cung cấp ba dịch vụ: WWW (World Wide Web). FTP (File Transfer Protocol) Gropher Ở đây ta chỉ tìm hiểu dịch vụ WWW của IIS. WWW: WWW viết tắt của World Wide Web (được biết như là Web) là một dịch vụ cung cấp thông tin bằng siêu văn bản (Hypertext) chạy khắp trên internet. Web có khả năng liên kết mạnh với các dịch vụ Internet khác và các nguồn tài nguyên khắp mọi nới. Hypertext : Hypertext là văn bản siêu liên kết mà người sử dụng có thể truy cập đến các trang khác bởi ”click” chuột trên cụm từ được đánh dấu, công việc tham khảo liên kết nầy dễ dàng như lật một trang giấy. Người sử dụng trên Web cũng có thể thực hiện tìm kiếm trong trang văn bản, số cơ chế tìm kiếm là hoàn toàn cho phép trên trang Web. Khi đọc tài liệu Hypertext người đọc không cần phải theo tổ chức tuần tự của các trang tài liệu. Người đọc có thể theo đuổi một chuỗi riêng của mình. Điều nầy làm cho Hypertext trở thành một công cụ học tập rất thuận lợi. Hypertext giúp chúng ta khám phá từ toàn bộ tài liệu của chính nó đến toàn bộ các tài liệu khác. Hypertext bao gồm cả văn bản, hình ảnh lẫn âm thanh. . . 2.2.Cài đặt ứng dụng trên Internet Information Server Các ứng dụng hoặc các script được đặt trong thư mục /scripts, là thư mục ảo cho các ứng dụng. Thư mục này được quyền truy xuất và thực thi. Phải chắc rằng mỗi process đã được khởi động bởi ứng dụng, và sử dụng một tài khoản (account) với các quyền cho phép thích hợp. Nếu các ứng dụng tương tác với các file khác, account mà ứng dụng chạy trên đó phải có quyền truy xuất để sử dụng các file này. Mặc định, các ứng dụng sử dụng account IUSR_computername để thực thi. 2.3 Vấn đề bảo mật Bảo mật là một trong những vấn đề chính đối với bất kỳ Web site nào. IIS là một server bảo mật. Hệ thống bảo mật của IIS liên kết chặt chẽ với hệ thống bảo mật của Windows NT. Để truy xuất được site mong muốn, user phải qua một số lớp kiểm tra bảo mật được đưa ra bởi IIS và Windows NT. Đầu tiên là tài khoản của user. IIS sử dụng cùng một tài khoản của user mà WindowsNT cho phép truy xuất. Người sử dụng phải có ID user và mật khẩu hợp lệ mới nối tới được Web site cần đến. Vì thế không ai có thể truy xuất tới IIS mà không có một tài khoản. Nhưng làm thế nào ta có thể gán một tài khoản cho hàng triệu người muốn đến thăm site của mình? Bằng cách cung cấp một tài khoản logon vô danh (Anonymous). Tài khoản anonymous có thể gán cho bất kỳ user nào không có ID user và mật khẩu (password) thực trong một domain của WindowsNT. Khi IIS được cài đặt nó sẽ tự động thiết lập một tài khoản cho việc logon vô danh. Tài khoản này là một tên đặc biệt được sinh ra từ tên của máy. IIS sẽ tạo ra một tài khoản vô danh là IUSR_Machinename, với Machinename là tên của server chạy WindowsNT. Anonymous logon được xem như là khách (guest) của domain, do đó ta phải kiểm tra quyền hạn được gán cho những guest trên mạng của mình, để bảo đảm rằng anonymous logon không được cho phép những quyền hạn không phù hợp. Bất kỳ một quyền hạn nào cho phép đối với guest đều được cho phép đối với anonymous logon. IIS cũng cho ta xác định user có tài khoản thực sự trên mạng nên được log vào dưới những tài khoản đó, bằng cách chọn chức năng Basic(Clear Text) hay WindowsNT Challenge/Response. Sự khác nhau giữa 2 tuỳ chọn là sự khác nhau về cách mà mật khẩu được truyền đi. Khi sử dụng xác nhận Basic (Clear Text), password được truyền đi trên Internet theo dạng text (không được mã hoá). Gởi một password dạng text trên Internet là vô cùng nguy hiểm vì password có thể bị chặn lại trong quá trình được truyền, làm nguy hại đến tài khoản. Tuy nhiên hầu hết browser đều hỗ trợ xác nhận Basic (Clear Text). WindowsNT Challenge/Response đưa ra một hình thức truyền password đi an toàn hơn. Password được mã hoá trước khi gởi tới server. Thoạt tiên, ta có thể nghĩ rằng WindowsNT Challenge/Response là hình thức bảo mật hơn. Tuy nhiên, nếu server của ta là Internet Server, hình thức bảo mật nhất là thiết lập một tùy chọn duy nhất Allow Anonymous. Bởi vì nếu cho phép anonymous logon, ta có thể dễ dàng điều khiển quyền hạn của mỗi user thông qua tài khoản anonymous được thiết lập bởi IIS, hơn nữa không thể bảo đảm rằng tài khoản của user đã được mã hoá không thể nào bị xâm phạm, vì thế anonymous logon là hình thức bảo mật hơn cả. 2.4 Thư mục ảo Hình 1.17 IIS hỗ trợ thư mục ảo, được xem như là bí danh cho đường dẫn thực trên server. Thư mục ảo được quản lý thông qua tab Directory trong hộp thoại Servive Properties của IIS (hình 1.17) . Trên tab Directory, ta có thể xem thấy mối quan hệ 1-1 giữa đường dẫn thực và thư mục ảo. Thư mục ảo có một số thuận lợi trong việc phát triển site. Thứ nhất, thư mục ảo che dấu thông tin quan trọng về cấu trúc thư mục của site. Trong web browser, người sử dụng có thể thấy source của bất kỳ trang web nào (bằng chức năng View Source). Nếu ta sử dụng đường dẫn thực trong trang web, ta đã phơi bày thông tin quan trọng có liên quan trong cấu trúc thư mục. Điều này sẽ rất nguy hiểm nếu ai muốn tấn công vào hệ thống. Điểm thuận lợi thứ hai quan trọng hơn đối với người phát triển chương trình. Thư mục ảo cho phép trang web được dời từ máy(server) này sang máy khác mà không làm thay đổi bất kỳ một dòng mã nào trong trang. Tất cả các máy phải có cùng cấu trúc thư mục ảo, mặc dù đường dẫn thực đối với những thư mục ảo trên mỗi máy này có thể khác nhau. 2.5 Sử dụng nguồn dữ liệu ODBC Vì Web server đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện cơ sở dữ liệu, nó phải có khả năng truy xuất đến mọi loại dữ liệu khác nhau. Tất cả những công cụ được IIS sử dụng để thể hiện dữ liệu dựa trên nguồn dữ liệu ODBC. ODBC là một công nghệ độc lập với cơ sở dữ liệu trong việc truy xuất dữ liệu. ODBC rất hữu dụng trong những ứng dụng Web và đơn giản hoá sự mở rộng bằng cách cho phép trang Web sử dụng cú pháp của ngôn ngữ SQL chuẩn để tương tác với cơ sở dữ liệu. Chương 4 NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ QUẢNG CÁO TRÊN WEB Có nhiều mô hình để xây dựng một chương trình quảng cáo, tuy nhiên tất cả đều tuân theo một số tiêu chuẩn chung. Khi khách hàng đăng ký quảng cáo, tất cả họ đều phải tuân theo những quy định này. I. Một số định nghĩa Advertiser : Cá nhân hoặc công ty muốn quảng cáo một hay nhiều sản phẩm trên một trong nhiều site Internet của một công ty nào đó. Campaign : Tập hợp của vài mục quảng cáo khác nhau cho một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Một Advertiser có thể tạo ra và sửa đổi campaign theo ý của mình. Advertisement, Ad : Banner quảng cáo phong bì điện tử hay bất kỳ phương tiện nào được sử dụng để quảng cáo. Tần số (Frequency): là số lần một người sử dụng trên Web thấy một ad banner. Banner burn-out : những thống kê cho thấy sau 3 đến 4 lần nhìn thấy một banner nào đó, người sử dụng không muốn click vào chúng nữa (gọi là banner burn-out). Để tránh banner burn-out, người ta sẽ theo dõi số lần thấy ad banner của user để điều khiển tần số của chúng. Impression : Là số lần xuất hiện của ad banner trên một hay nhiều sites của công ty được quảng cáo. Nói cách khác trong bất kỳ trường hợp nào, cứ một lần ad banner xuất hiện thì được coi là một impression. Thông thường số impression mà một Advertiser muốn đặt cho một hoặc nhiều ad banner là khá lớn (hàng trăm ngàn impressions) Click-through : hành động mà người sử dụng click vào ad banner và được định hướng tới web site của advertiser. Số click-through : Là số lần người sử dụng click vào ad banner để được định hướng tới trang Web nằm dưới ad banner. Khi user click through, chương trình sẽ nhận được một yêu cầu GET và định hướng browser của user tới URL của site của Advertiser. Click-rate (hay rate): Là đơn vị dùng để đánh giá mức độ hiệu quả của ad banner, được tính bằng công thức : click-rate = số click-through / số impression. Ad banner nào có click-rate càng lớn có nghĩa là ad banner đó thu hút nhiều người xem, cũng có nghĩa là có nhiều người click trên ad banner đó. Khi biết được tỷ lệ click-through, Advertiser sẽ quan tâm nhiều đến ad banner có click-rate cao hơn, và sửa đổi (hoặc thay thế) những ad banner có tỷ lệ click-rate thấp. Mức giá quảng cáo: Impression, click-through và click-rate là được xem như là những thông số quan trọng nhất trong quảng cáo trên Web. Vì thông số này quyết định lợi nhuận thu được của AdMaster. Mức giá quảng cáo tính theo số impression và click-through. Chẳng hạn như đối với impression, giá thường được tính theo đơn vị : số tiền/1000 impressions. Thời hạn quảng cáo : Thời hạn cho một lần quảng cáo được qui định tuỳ theo người quản lý chương trình. Thời hạn này có thể được tính theo tháng. Thông thường, thời gian này là từ một tới ba tháng. Đến hết thời hạn, Advertiser nếu muốn quảng cáo tiếp thì phải liên hệ lại với người quản lý chương trình. Có khi Advertiser còn yêu cầu số thêm impression cho các ad banner của họ trong một ngày hoặc một giờ. Cũng có khi thời hạn quảng cáo được tính theo số impression. Advertiser đặt số impression tối đa cho các ad banner, cứ mỗi lần ad banner hiện lên thì con số này lại giảm đi cho đến 0. Khi số lần xuất hiện hết, ad banner sẽ không hiện lên nữa. Advertiser vào chương trình kiểm tra, nếu muốn quảng cáo lại thì phải liên hệ lại với người quản lý chương trình. II. Chiến lược quảng cáo : 1. Dạng file của Ad banner : File ad banner có thể gồm nhiều loại, tùy theo mức độ hỗ trợ của browser đối với các dạng file. Nếu browser không hỗ trợ dạng file nào đó, người viết chương trình phải xử lý quá trình nhận dạng loại file này trong chương trình của mình. Trước đây, hai dạng file hay được sử dụng nhất là GIF và JPG, và tất cả phiên bản của các browsers đều hỗ trợ chúng. Tuy nhiên gần đây, một dạng file rất hay được sử dụng là Shockware Flash(*.swf). So với hai loại file trên, file SWF có ưu điểm là số frame trong một hình có thể khá nhiều nhưng kích thước của file lại không lớn lắm, do đó thời gian nạp file lên trang web giảm xuống đáng kể. Trong một trang Web, thông thường có hai loại ad banner đó là ad banner nằm trên đỉnh (top_banner) của trang và ad banner nằm ở lề trái hoặc phải (side_banner) của trang. Để đảm bảo ad banner được đưa ra trang Web một cách tối ưu, kích thước của ad banner được qui định như sau (lấy ví dụ file ảnh dạng GIF). Định dạng file : Đối với top_banner : rộng 468 pixels, cao 60 pixels. Đối với side_banner : rộng 120 pixels, cao 60 pixels hoặc rộng 60 pixels cao 120 pixels. Kích thước file tĩnh : tối đa 8KB. Kích thước file động : tối đa 12KB (số frame chuyển động không quá 3 frames). 2. Alt Text : Khi ad banner xuất hiện trên trang Web (tại bất kỳ vị trí nào). Tại ad banner đó sẽ tồn tại một siêu liên kết tới trang Web khác, thường trang Web này là trang chủ của người đăng ký quảng cáo (advertiser). Đồng thời, bên dưới ad banner sẽ tồn tại một đoạn ngắn văn bản, đoạn văn bản này được thể hiện bởi thuộc tính “ALT” của ngôn ngữ HTML, khi ta đưa chuột vào vùng của ad banner sẽ thấy đoạn văn bản này xuất hiện. Tuy là bộ phận nhỏ nhưng đoạn văn bản này khá quan trọng trong việc định hướng người dùng tới trang web của Advertiser, vì đoạn văn bản với những từ ngữ gây ấn tượng sẽ kích thích trí tò mò của người sử dụng và do đó họ sẽ rất dễ nhấn vào ad banner. 3.Đưa ad banner ra trang web (Ad-Delivery) : Đối với ứng dụng trên Web, một trong những vấn đề người ta quan tâm hàng đầu là tốc độ. Một ứng dụng server có thể chạy rất nhanh trên máy đơn, nhưng khi đặt trên Web server để cho nhiều người khác cùng truy cập tới, nó lại chạy khá chậm vì không chịu được lượng tải lớn. Đối với chương trình quản lý quảng cáo cũng vậy, các ad banners quảng cáo phải được đưa ra trang Web với tốc nhanh nhất có thể có được. Điều này không có nghĩa là chúng xuất hiện quá nhanh làm cho người sử dụng không thể thấy được mà điều này có nghĩa là thời gian đưa ad banner lên trang web kể từ khi người sử dụng vào một trang đến khi ad banner hiện lên là phải tối thiểu. Đối với những ad banner xuất hiện luân phiên nhau, người ta cố gắng làm cho trong hai lần xuất hiện kế tiếp nhau, hai ad banner không giống nhau. Điều này được thực hiện vì hai mục đích: đưa được nhiều ad banner ra trang Web và thu hút sự chú ý của người sử dụng vào ad banner hơn. Khi người sử dụng vào một trang Web có quảng cáo của Advertiser. Chương trình sẽ đọc header HTTP từ người sử dụng và ghi nhận thông tin về loại browser và phiên bản của chúng, thông tin về hệ điều hành người sử dụng đang chạy. . những thông tin này đôi khi được sử dụng trong việc target ad banner. Khi browser của người sử dụng cho phép cookie, một danh hiệu cookie được gán cho người sử dụng. Mỗi người sử dụng sẽ được gán một danh hiệu duy nhất, chủ yếu để chương trình theo dõi được số lần người sử dụng thấy ad banner để điều khiển tần số hoặc đưa ad banner tuần tự ra cho người sử dụng. Chương trình sẽ xem xét trên nhiều ad banner đang chờ để được đưa ra trang Web, xem ad banner nào phù hợp với tiêu chuẩn của người sử dụng nhất. Nếu người sử dụng lần đầu truy cập trang Web, thông tin của người sử dụng sẽ được ghi nhận lại để sử dụng cho những lần sau. Khi người sử dụng click trên ad banner, sẽ có một tham chiếu đến địa chỉ IP của Advertiser. Chương trình sẽ thực thi quá trình tái định hướng người dùng tới site của Advertiser. Tất cả thông tin thu thập được luôn được cập nhật để có thể đưa ra báo biểu thống kê. Thường người ta thống kê theo 24giờ/ngày, 365ngày/năm. 4. Sắp Xếp Ad Banner (Banner Placement) Hầu hết những web site thực hiện dịch vụ quảng cáo xắp xếp ad banner quảng cáo theo độ ưu tiên như sau : 1. Ad banner có khả năng target cao. 2. Ad banner không target. 3. Ad banner khác của các công ty bạn hàng. 4. Ad banner của công ty quảng cáo. Khi người sử dụng truy xuất vào trang Web có quảng cáo, browser của người sử dụng sẽ thực hiện một yêu cầu về ad banner đến chương trình. Chương trình quảng cáo sẽ truy xuất thông tin về người sử dụng dựa trên địa chỉ IP và cookie ID, rồi tiến hành quá trình so sánh với dữ liệu đã có trong database của mình. Sau đó chương trình sẽ xác định ad banner theo thứ tự như sau : Ad banner phù hợp nhất với người sử dụng và mô tả trang Web. Xem xét tần số của ad banner (nếu như tần số được thiết lập cho banner), liêu người sử dụng đã đạt đến tần số tối đa được thiết lập cho ad banner chưa. Đối với những ad banner phù hợp với người sử dụng và trang web, chương trình sẽ xác định ad banner nào đang chờ lâu nhất trong hàng đợi và đưa nó ra trang Web. Nếu tất cả ad banner được target đã được đưa ra như đúng lịch trình, chương trình sẽ đưa ad banner không được target đang chờ lâu nhất trong hàng đợi. Nếu tất cả ad banner không được target đều được đưa ra hết, chương trình sẽ đưa ad banner của công ty bạn hàng. Nếu còn ad banner nào khác sẽ đưa ra ad banner cho site của công ty quảng cáo (nhằm mục tiêu phát triển công ty). 2 HIỆN THỰC CHƯƠNG TRÌNH CHƯƠNG I PHÂN TÍCH CHƯƠNG TRÌNH I. Phân tích chương trình Hệ thống quản lý quảng cáo trên Web được thực hiện theo mô hình sau: Hình 2.1 Hai thực thể chính của hệ thống là người phụ trách quảng cáo (AdMaster) và người đăng ký quảng cáo (Advertiser). Advertiser tiến hành đăng ký quảng cáo trên các trang Web của AdMaster. Trong hệ thống này, AdMaster có mọi quyền thao tác. Giao tiếp giữa AdMaster và Advertiser thông qua Web browser. Phía người phụ trách quảng cáo (ADMASTER) Cho phép Advertiser log vào hệ thống để thực hiện các tác vụ của họ. Theo dõi quá trình đăng ký quảng cáo. Thay đổi các thông tin liên quan đến Advertiser, Campaign, Ad Banners. Quyết định ad banner nào sẽ xuất hiện dựa vào các thông số từ Advertiser. Điều khiển tần số xuất hiện Phía người đăng ký quảng cáo (ADVERTISER) Đăng ký quảng cáo trên Web site của Admaster Thay đổi thông tin liên quan đến quảng cáo của mình Theo dõi (thống kê) các Ad Banners và Campaign của mình. Do đó những thông tin cần có để cung cấp cho chương trình sẽ như sau : Advertiser Campaign mà Advertiser sẽ đặt quảng cáo của mình trong đó. Advertisement : là những thông số của từng ad banner quảng cáo. Logs : những thông tin dùng để thống kê và theo dõi chương trình. Thông tin dùng để target người sử dụng. 1. Advertiser Là tài khoản (account) của advertiser. Account này chứa những thông tin của cá nhân hay tổ chức đăng ký quảng cáo. Thông tin này bao gồm : username, mật khẩu truy cập hệ thống, và địa chỉ liên lạc (địa chỉ thông thường, địa chỉ email, số điện thoại) của Advertiser. 2. Campaign (hay Order) Tập hợp những mục quảng cáo cho một loại sản phẩm sẽ được tổ chức thành từng campaign. Thông tin trong campaign bao gồm : số hiệu của campaign, tên campaign, tên của người quản lý campaign, tổng số impression, tổng số click-through, trạng thái của hợp đồng giữa AdMaster và Advertiser, thời điểm campaign được tạo ra. Vì trong campaign sẽ có nhiều mục quảng cáo, trong mỗi mục lại có những ad banner quảng cáo khác nhau, nên ta sẽ gán tổng số impression và click-through cho campaign thay vì gán cho từng ad banner. Điều này sẽ thuận lợi hơn trong việc đưa ad banner ra trang web hoặc thêm ad banner vào campaign. Khi thêm ad banner vào campaign, ta không cần phải quan tâm đến số impression và số clicks của nó vì số này đã gán cho campaign chứa nó. Mặt khác điều này cũng thuận lợi trong việc tính toán những thông số cho việc thống kê. Trạng thái của hợp đồng giữa AdMaster và Advertiser : khi Advertiser đã đăng ký vào hệ thống nhưng chưa ký hợp đồng, họ có quyền thay đổi thông tin tron

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvan.doc
Tài liệu liên quan