LỜI CAM ĐOAN . i
LỜI CẢM ƠN. ii
MỤC LỤC. iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT. vi
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ . vii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN . viii
MỞ ĐẦU .1
1. Tính cấp thiết của đề tài.1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài tại Việt Nam và trên thế giới .2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .5
5. Phương pháp nghiên cứu .6
6. Kết cấu luận văn .6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC DỊCH
VỤ .7
1.1. Những vấn đề cơ bản về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.7
1.1.2. Các hình thức đầu tư FDI.10
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ.14
1.2. Tổng quan lĩnh vực dịch vụ .16
1.2.1. Khái niệm về dịch vụ .16
1.2.2. Đặc điểm dịch vụ.17
1.2.3. Vai trò thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ .18
1.3. Thực tiễn thu hút FDI trong lĩnh vực dịch vụ của một số nước tại Châu
Á.24
1.3.1. Trung Quốc .24
1.3.2. Ấn Độ.26
111 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thu hút đầu tư trực tiếp từ hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng số 10 thành phố được FIEs lựa chọn mở
thêm các cửa hàng trong năm 2013. Nhiều tập đoàn phân phối từ ASEAN như
Malaysia, Thái Lan đang triển khai kinh doanh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp Việt Nam cũng từng bước thâm nhập và hoạt động trong linh vực xây
dựng và phân phối. Ví dụ, Myanmar Plaza do doanh nghiệp phát triển bất động sản
của Việt Nam là Hoàng Anh Gia Lai đầu tư đã mở cửa vào 5/12/2015, với hàng loạt
các cửa hàng, nhà hàng và sự kiện đặc biệt.
Đối với Thái Lan là quốc gia có thế mạnh là hàng nông sản và sản xuất các
loại linh kiện điện tử ô tô. Trong đầu tư vào lĩnh vực phân phối tại Việt Nam, Thái
Lan có khả năng dẫn đầu do các doanh nghiệp Thái Lan được cung cấp thông tin cụ
thể và chi tiết về các lĩnh vực xuất nhập khẩu tại Việt Nam, cùng với đó là khả năng
43
cung ứng sản phẩm tốt, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại thị trường Việt Nam. Thông
qua việc thâu tóm các doanh nghiệp tại Việt Nam bằng hình thức sát nhập, Thái Lan
dễ dàng phát triển hoạt động phân phối. Hai thương vụ thâu tóm gần nhất của người
Thái chính là việc Nawaplastic (thuộc Tập đoàn Siam Cement Group - SCG) hoàn
tất nâng sở hữu tại Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh (mã chứng khoán BMP) lên
trên 50%; Vietnam Beverage (thuộc Thaibev) của tỷ phú Charoen
Sirivadhanabhakdi mua lại 53,59% vốn tại Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải
khát Sài Gòn - Sabeco (mã chứng khoán SAB). Bia Sài Gòn, nhựa Bình Minh chỉ là
2 trong nhiều doanh nghiệp Việt đã bị người Thái thâu tóm. Nếu Sabeco là doanh
nghiệp đầu ngành sản xuất bia, chiếm gần 41% thị phần tiêu thụ tại thị trường nội
địa, thì Nhựa Bình Minh thuộc nhóm doanh nghiệp sản xuất ống nhựa hàng đầu
Việt Nam, với 4 nhà máy tổng công suất trên 140.000 tấn mỗi năm. Cuối tháng
12/2012, tập đoàn SCG chi tới 7,2 tỷ baht Thái (gần 5.000 tỷ đồng) để mua lại 85%
vốn Công ty cổ phần Prime Group. Prime cũng chính là doanh nghiệp sản xuất gạch
lát bằng gốm lớn nhất Việt Nam, nắm trên 30% thị phần và chủ yếu phục vụ nội địa.
Với thương vụ này, cùng với việc sở hữu các nhà máy gạch ốp lát mà SCG đã mua
lại từ Indonesia, Malaysia SCG đã trở thành tập đoàn đa quốc gia sản xuất gạch
ốp lát hàng đầu thế giới, với sản lượng trên 200 triệu m2/năm. Tập đoàn cũng đã
thông qua việc mua 15% vốn cổ phần còn lại tại Prime Group, với giá 2,19 tỷ baht
(1.400 tỷ đồng) để nâng sở hữu tại đây lên 100% vốn. Vào năm 2015, cũng chính
SCG chi 1,5 tỷ baht Thái (tương đương 1.000 tỷ đồng) mua lại 80% vốn Công ty cổ
phần Bao bì nhựa Tín Thành (Batico). Batico là doanh nghiệp thuộc top 5 công ty
lớn nhất Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm bao bì, với công suất 230 triệu
m2/năm. Trước đó, năm 2013, Tập đoàn Berli Jucker (BJC) - một đơn vị thuộc
TCC Holdings của tỷ phú Charoen, đã thâu tóm gần 65% cổ phần của Phú Thái
Group. Đây là một doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ tại khu vực
phía Bắc, với hàng chục công ty thành viên. Năm 2016, thông qua Công ty Frasers
Centrepoint Limited (FCL), ông Charoen mua lại 70% vốn của Công ty cổ phần
44
phát triển nhà GHomes - công ty thành viên của An Dương Thảo Điền (HAR).
[Hoàng Thanh, 2018]
Ngoài việc thâu tóm thành công nhiều doanh nghiệp đầu ngành tại Việt Nam,
người Thái còn đang sở hữu vốn cổ phần tại hàng loạt doanh nghiệp lớn có vốn Nhà
nước. Hiện tại, doanh nghiệp của tỷ phú Charoen là Tập đoàn F&N đang nắm giữ
tổng cộng 19,06% vốn Công ty cổ phần Sữa Việt Nam - Vinamilk (mã chứng khoán
VNM), thông qua 2 pháp nhân F&N Bev Manufacturing và F&N Dairy
Investments. Số cổ phần do F&N nắm giữ tại đây hiện có giá thị trường tới hơn
52.000 tỷ đồng. Trong khi đó, Central Group của gia tộc tỷ phú Thái Chirathivat
cũng từng chi hơn 200 triệu USD mua 49% cổ phần của Công ty Đầu tư phát triển
công nghệ và giải pháp mới NKT (NKT) - đơn vị sở hữu chuỗi siêu thị điện máy
Nguyễn Kim vào năm 2015. Tuy không phải doanh nghiệp của Việt Nam, thương
vụ thâu tóm Metro và BigC của người Thái cũng khiến dư luận chú ý với số tiền chi
ra cực lớn. Theo đó, Berli Jucker đã chi hơn 655 triệu EURO, tương đương hơn 879
triệu USD, theo tỷ giá thời điểm đó để mua lại hệ thống Metro Cash & Carry Việt
Nam từ Tập đoàn Metro (Đức). [Hoàng Thanh, 2018]
Lĩnh vực xây dựng
Đây là ngành hấp dẫn các nhà đầu tư tại ASEAN thực hiện dự án tại Việt
Nam, mặc dù, ới mở cửa, nhưng Đảng và Nhà nước ta đã có chính sách thông
thoáng thu hút đầu tư từ các thành viên ASEAN. Nhiều tập đoàn kinh doanh trong
lĩnh vực bất động sản đã đầu tư nhiều dự án lớn như Singapore, Indonesia, Thái
Lan. Singapore đã luôn là nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam, theo số liệu từ Cục
Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), lũy kế đến nay, số vốn mà doanh
nghiệp Singapore đầu tư là 41,6 tỷ USD, đứng vị trí thứ 3 trong các nước và vùng
lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Rất nhiều dự án của Singapore đã đóng góp lớn cho
kinh tế - xã hội Việt Nam. Một trong những điển hình không thể không nhắc tới là
Sembcorp, với việc liên doanh với Becamex để phát triển chuỗi các khu công
45
nghiệp - đô thị VSIP trải dài khắp Việt Nam, từ Bình Dương, Bắc Ninh, Hải Dương,
tới Quảng Ngãi, Nghệ An, Hải Phòng Đầu năm nay, VSIP lại quyết định đầu tư
một khu công nghiệp thứ ba tại Bình Dương, với tổng vốn đăng ký 284,75 triệu
USD. Nhưng câu chuyện không chỉ là khoản vốn mà VSIP bỏ ra để đầu tư hạ tầng
các khu công nghiệp - đô thị này, mà quan trọng hơn, VSIP đã thu hút được hàng
trăm nhà đầu tư thứ cấp, với tổng vốn đăng ký đầu tư lên tới trên 9 tỷ USD, một con
số không hề nhỏ. Không chỉ VSIP, nhiều nhà đầu tư Singapore khác cũng đã thành
công tại Việt Nam và đang tiếp tục đẩy mạnh đầu tư. Năm ngoái, Mapletree
Investment Pte Ltd đã quyết định mua lại tòa nhà Kumho Asiana Plaza Saigon tại
quận 1, TP.HCM từ Kumho Industrial Company Limited và Asiana Airlines
Incorporated. Sau thương vụ này, khối lượng tài sản của Mapletree tại Việt Nam đã
lên tới hơn 1 tỷ đô la Singapore. Trước Mapletree, Keppel Land cũng đã mua lại
40% Dự án Empire City tại quận 2, TP.HCM, tương đương 93,9 triệu USD. Chưa
kể, hàng loạt tên tuổi lớn của quốc đảo này cũng đã đầu tư lớn tại Việt Nam, như
Banyan Tree với Dự án Khu du lịch Laguna Lăng Cô, tổng vốn 875 triệu USD; hay
KinderWorld với loạt trường quốc tế ở nhiều tỉnh, thành phố và vẫn đang tiếp tục
các kế hoạch đầu tư mới [Nguyên Đức, 2018]
Đối với Indonesia, tại diễn đàn “Hợp tác giữa Indonesia và Việt Nam về xây
dựng và bất động sản” nhằm cải thiện hợp tác giữa Indonesia và Việt Nam trong
lĩnh vực xây dựng và kinh doanh bất động sản, như một nỗ lực để thúc đẩy mở rộng
các cơ hội và thiết lập hợp tác, góp phần trong việc đạt được mục tiêu thương mại
song phương 10 tỷ USD vào năm 2020.
Năm 2017, tổng thương mại của Indonesia và Việt Nam đã tăng 16,36% đạt
6,50 triệu USD từ 5,58 triệu USD (2016), bao gồm 3,63 triệu USD giá trị xuất khẩu
của Indonesia sang Việt Nam (tăng 22,51%) và giá trị nhập khẩu của Indonesia từ
Việt Nam đạt 2,61 triệu USD (tăng 9,37%). Với dân số hơn 260 triệu người
Indonesia và 96 triệu người Việt Nam trong năm 2017, Indonesia và Việt Nam nằm
46
trong số các nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, với mức tăng trưởng GDP
của Indonesia là 5,17% và của Việt Nam là 6,81% và mức thu nhập bình quân đầu
người trong năm 2017 của Indonesia đạt 3.859 USD và Việt Nam đạt và 2.385
USD. [Báo Kinh tế & Đô thị, 2018]
Đầu tư của Indonesia tại Việt Nam trong năm 2017 đạt 45,84 triệu USD,
tổng số 69 dự án với trị giá là 477,02 triệu USD, đứng thứ 30 trong số các nước đầu
tư tại Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam có 8 dự án đầu tư ở Indonesia trị giá 51
triệu USD trong ngành công nghiệp khai thác, truyền thông và công nghiệp sản
xuất. Mặc dù hợp tác đầu tư giữa hai nước vẫn còn khiêm tốn, tuy không lớn như
Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore nhưng dòng vốn đầu tư của Indonesia vào Việt
Nam tiếp tục tăng. Các nhà đầu tư Indonesia đang bắt đầu tận dụng tiềm năng và cơ
hội thị trường do Việt Nam cung cấp. Theo ông Budiarsa – Đại sứ Đặc mệnh toàn
quyền Indonesia tại Việt Nam cho biết tiềm năng của thị trường bất động sản ở các
nước đang phát triển đều có điểm tương đồng. Bởi lẽ, sự phát triển của một nền
kinh tế sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới các dự án bất động sản. Hà Nội là một thị
trường tiềm năng phù hợp với những dự án đầu tư lớn mang tính tổ hợp với sự đa
dạng của các loại hình bất động sản. Trong khi đó, TP Hồ Chí Minh cũng được xem
là một trong những thị trường bất động sản lớn của Việt Nam, song lại có quá nhiều
đối thủ cạnh tranh.
Đối với Indonesia, tăng trưởng ngành xây dựng là đồng phụ thuộc vào cơ sở
hạ tầng với mức tăng được dự báo là 5,9% mỗi năm từ 2017-2026, cao vượt mức
tăng trưởng hàng năm dự kiến của ngành xây dựng là 3,9%. Cả hai lĩnh vực dân cư
và phi dân cư sẽ được hưởng lợi dân số của Indonesia và tỷ lệ đô thị hóa cao tới
53%.[Báo Kinh tế & Đô thị, 2018]
Dự án được hỗ trợ bởi kế hoạch cải thiện cơ sở hạ tầng 436 tỷ USD của Tổng
thống Joko Widodo. Các chương trình như xây dựng đường xá mới, đường sắt, nhà
47
máy điện và hệ thống nước sẽ là chìa khóa mở đường cho phát triển dân cư, thương
mại và công nghiệp ở khu vực thành thị và nông thôn.
Các dự án của Thái lan tập trung chủ yếu vào xây dựng hạ tầng cơ sở cho
khu công nghiệp, trung tâm đô thị mới tại Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội và
TP.HCM. Theo Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, gần 67% các
dự án của Thái lan tại Việt Nam là 100% vốn nước ngoài, chiếm 56% số vốn đăng
ký và 27,6% các dự án là của các công ty liên doanh, chiếm 43% vốn đăng ký.
Trong số các dự án thành công của Thái lan tại Việt Nam, phải kể đến Công
ty sản xuất thức ăn gia súc CP Vietnam tại Đồng Nai với số vốn đầu tư 328 triệu
USD, Công ty Siam Cement Group đầu tư vào 5 dự án về hóa chất và vật liệu xây
dựng tại KCN Bình Dương và Đồng Nai
Lĩnh vực du lịch
Du lịch được xem như là một lĩnh vực đặc trửn ảnh hưởng từ hội nhập kinh
tế khu vực. Đây là ngành có tiềm năng phát triển, bởi vì xuất phát từ nhu cầu của
người dân đối với dịch vụ ngày càng gia tăng, với chương trình du lịch đa dạng. Tại
Việt Nam, chính phủ đã xây dựng chiến lược thu hút phát triển du lịch từ các quốc
gia ASEAN. Theo đánh giá của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), nếu như năm
2015, tăng trưởng du lịch trung bình trên thế giới là 6% thì tại ASEAN đã đạt đến
7%. Thực tế, các quốc gia trong khu vực đã đầu tư ngân sách lớn cho quảng bá du
lịch và phát triển ngành này không chỉ trong nước mà còn khu vực quốc tế. Tại Việt
Nam, quy mô khách du lịch đến từ các quốc gia là thành viên ASEAN đã tăng lên
nhanh chóng. Các địa điểm như Nha Trang, Phú Quốc, Đà Lạt thường nằm trong
lịch trình du lịch ưa thích của các vị khách đến từ Singapore, Malaysia, Thái Lan.
Theo đó, Việt Nam nằm trong danh sách 5 địa điểm hàng đầu khu vực Đông Nam Á
và danh sách 100 điểm đến hấp dẫn nhất của du lịch thế giới. Hơn nữa, các quy định
liên quan đến du lịch giữa các nước cũng được thuận lợi hóa, cụ thể là quy định lien
quan đến xuất nhập cảnh. Bên cạnh đó, thực thi Kế hoạch Chiến lược du lịch
48
ASEAN 2015 – 2020 cũng đang được triển khai tích cực nhằm tạo thuận lợi cho di
chuyển của các hướng dẫn viên du lịch thông qua các thỏa thuận công nhận lẫn
nhau. Hiên nay, hội nhập du lịch tại ASEAN khá năng động, với Hướng dẫn chuẩn
của lao động được minh chứng từ các thành viên ASEAN; Chương trình cụ thể hóa
liên quan đến lao động trong khu vực có chung cấp độ với các quốc gia thành viên
mà phù hợp với tiêu chuẩn khác nhau trong khu vực. Việt Nam đa ký nghị định thư
Hội nhập ngành du lịch ASEAN cũng như tham gia tích cực và toàn diện và có
đóng góp tích cực đối với du lịch tại ASEAN. Như vậy, chính sự năng động của lao
động cũng sẽ đống góp vào phát triển công nghệ và tạo nên sự kết nối trong hợp tác
lao động giữa các nước tại ASEAN.
Bảng 2.3. Thống kê cơ sở lưu trú của ngành du lịch tại Việt Nam năm 2017
Số lượng Số phòng
Khách sạn 1.904 53.026
Nhà nghỉ 68 7.603
Biệt thự 52 1.310
Làng du lịch 11 357
Căn hộ cho thuê 91 249
Bãi cắm trại 8 83
Cơ sở lưu trú khác 1.205 9.876
Tổng 3.267 72.504
(Nguồn: Website: www.Vietnamtourism.gov, năm 2017)
Việt Nam phải đối mặt với những thách hức hướng đến phát triển du lịch bền
vững. Một là thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao trong lĩnh vực dịch vụ. Bên
cạnh đó, phải giải quyết việc thiếu hụt cũng như cải thiện kỹ năng của lao động
trong lĩnh vực này. Hiện tại, Việt Nam có đến 300.000 việc làm liên quan đến du
lịch mỗi năm. Ngoài rào cản thiếu lao động có thể nói tiếng Anh, khó có thể cạnh
tranh với lao động nước ngoài tạo môi trường thu hút khách du lịch, Việt Nam còn
gặp khó khăn về ý thức xã hội khi còn một số khu vực xảy ra tình trạng đẩy giá quá
49
cao khiến cho khách du lịch không quay trở lại. Các nước thành viên như Thái Lan
trong quá trình thu hút và phát triển lĩnh vực này đã nhận được nhiều dự án đầu tư
hơn vì có môi trường đầu tư hấp dẫn hơn thay vì Việt Nam. Dù còn mắc nhiều khó
khăn trong thu hút đầu tư, nhưng thời gian vừa qua Việt Nam vẫn ký kết được nhiều
dự án đầu tư vào ngành này từ các nước như Singapore, Thái Lan, Malaysia,
Indonesia.
Tài chính – Ngân hàng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với ngân hàng trong ASEAN nhiều buổi tọa
đàm thu hút, ví dụ như Thái Lan đã nhìn thấy thị trường tín dụng Việt Nam sẽ là
mảnh đất màu mỡ cho KasikornBank, với 70 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân
hàng, khi đầu tư vào thị trường non trẻ với nhiều tiềm năng như Việt Nam,
KasikornBank sẵn lòng phục vụ, chia sẻ kinh nghiệm lâu đời trong việc hỗ trợ vay
vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Dưới chiến lược là ngân hàng chung của cả Cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC) cộng 3, Kasikorn đã kết nối doanh nghiệp khắp khu
vực Đông Nam Á, thông qua việc xây dựng các ngân hàng địa phương, chi nhánh
và văn phòng đại diện, bao gồm cả hợp tác với các ngân hàng hàng đầu ở 66 chi
nhánh tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và trong khu vực Đông Nam Á. Vậy
nên, ngân hàng này không chỉ củng cố vấn đề tài chính của chuỗi cung ứng giữa các
doanh nghiệp, mà còn làm trung gian kết nối các đối tác thương mại với nhau.
Trong trường hợp KasikornBank được cấp giấy phép cho doanh nghiệp SME vay
vốn ở Việt Nam, ông Pattanapong Tansomboon kỳ vọng đến năm 2020 sẽ tiếp cận
được với 1 triệu doanh nghiệp SME ở Việt Nam. Cùng với KasikornBank, từ năm
2015 đến nay, các ngân hàng lớn của Thái Lan như Bangkok, Siam... đã gia tăng
hiện diện tại Việt Nam khi hai nước phấn đấu đưa kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 20
tỷ USD vào năm 2020. Đặc biệt, kể từ khi Cộng đồng kinh tế ASEAN được thành
lập, các ngân hàng Thái không muốn mất miếng bánh ngân hàng bán lẻ tại Việt
Nam. Trong khi đó, khả năng tài chính của ngân hàng trong nước không đủ đáp ứng
50
nhu cầu của 97% doanh nghiệp SME. Hiện chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp SME
tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng trong nước. Còn lại, họ phải sử dụng nguồn vốn tự
có hoặc vay từ nguồn vốn khác với chi phí rất cao, nhiều rủi ro. Nâng cao năng lực
tiếp cận tín dụng cho các doanh nghiệp SME là một trong những giải pháp đề ra tại
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
12/6/2017, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2018). Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu
tư Nguyễn Văn Hiếu cho biết, hệ thống bảo lãnh tín dụng, ngân hàng Thái Lan có
nhiều kinh nghiệm trong hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt nâng cao năng
lực tiếp cận tín dụng sẽ gợi mở các giải pháp chính sách để có cơ chế chia sẻ thông
tin doanh nghiệp hiệu quả hơn, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tín
dụng tốt hơn trong thời gian tới. [Báo Đầu tư, 2018]
Thương mại điện tử
Hiện nay, các nước tại ASEAN đã khẩn trương đẩy mạnh ứng dụng và phát
triển thương mại điện tử (TMĐT), xây dựng một không gian ASEAN số hóa thống
nhất. TMĐT tại các nước này đang có xu hướng chuyển sang thương mại di động.
ASEAN là khu vực có tốc độ phát triển số người sử dụng điện thoại thông minh
(smartphone) lớn nhất thế giới. Đây là một trong ố 12 nhóm ngành ưu tiên tại AEC
trong thời gian tới. Áp dụng TMĐT trong kinh doanh là một xu hướng tất yếu của
thương mại hiện đại, nhằm xây dựng ASEAN số hóa thống nhất. Cụ thể, nó thể hiện
lực lượng của website bán hàng ở Việt Nam cũng như các nước trong khu vực.
Đồng thời sử dụng nền tảng di động thay cho máy tính cá nhân là một trong những
dịch chuyển quan trọng. Hơn nữa, người tiêu dùng tiếp tục chi tiền nhiều hơn cho
mua bán trực tuyến với số lượng ngày càng lớn. Đảng và Nhà nước cũng đang có kế
hoạch đẩy mạnh thương mại điện tử trong hệ thống ngân hàng nhằm đáp ứng thực
tiễn nhu cầu phát triển của lĩnh vực này và trong tương quan tổng thể chính sách của
các quốc gia tại ASEAN.
51
Giáo dục
Ở Việt Nam đã hình thành nhóm dân cư có mức thu nhập trung bình và họ có
kế hoạch gửi con đi học tập ở nước ngoài tại các nước phát triển trong khu vực
ASEAN như Singapore, Malaysia, Indonesia. Các nước phát triển cung quan tâm
đến địa điểm đầu tư tại Việt Nam nhằm phát triển trung tâm đào tạo lao động giúp
cho Việt Nam có thể tham gia vào bối cảnh môi trường lao động quốc tế. Chiong
Woan Shin, Giám đốc đặc trách khu vực Việt Nam và Campuchia của Tổ chức
International Enterprise Singapore cho biết: “Việt Nam là một thị trường hấp dẫn,
đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư giáo dục Singapore”. Theo bà Chiong, phần lớn
những người trẻ của Việt Nam có xu hướng chuyển về các đô thị lớn để học tập và
sinh sống. Kết quả là cư dân đô thị ngày càng tăng và tạo ra một thị trường lớn cho
dịch vụ giáo dục mầm non. Các nhà đầu tư Singapore cho rằng họ có đủ kinh
nghiệm và khả năng cạnh tranh trong mục tiêu đầu tư này. Gina Kek, Phó giám đốc
phân ngành dịch vụ kinh doanh của tổ chức IE Singapore tin rằng các nhà đầu tư
giáo dục của nước mình có lợi thế cạnh tranh ở thị trường Việt Nam, hơn hẳn nhiều
đối thủ khác. Lý do bà nêu ra là vì “Singapore là một thương hiệu về chất lượng và
uy tín”. Theo bà Gina, hệ thống giáo dục song ngữ hiệu quả từ lâu của Singapore rất
hấp dẫn đối với phụ huynh Việt Nam vì “Singapore nổi tiếng với các chương trình
đào tạo song ngữ có tầm quốc tế, có chất lượng cao và được nghiên cứu rất kỹ”.
[Giaoducedu, 2017]
Y tế
Việt Nam là một trong những thị trường tiềm năng phát triển y tế với các yếu
tố như: dân số đông (đứng thứ 4 ASEAN); chi phí y tế đạt mức 13 tỷ USD năm
2015, chiếm 5,8% GDP, cao nhất khu vực; 90% thiết bị y tế hiện nay là nhập khẩu.
Quan trọng là cung vẫn chưa đáp ứng được cầu”, ông Đức cho biết. Nhiều chuyên
gia trong ngành cũng cho rằng, với dân số, tuổi thọ và tầng lớp trung lưu ngày càng
tăng, nhu cầu dịch vụ y tế tại Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục tăng. Do đó, việc
mở rộng cơ sở y tế tư nhân chất lượng cao sẽ thêm lựa chọn cho người Việt, thay vì
52
phải ra nước ngoài. Theo ước tính của Bộ Y tế, hàng năm, người Việt Nam chi
khoảng 2 tỷ USD đi chữa bệnh ở nước ngoài. Đây là cơ hội cho những nhà đầu tư
nước ngoài như Singapore. Parkway Health, tập đoàn y tế tư nhân hàng đầu châu Á,
đã thâm nhập thị trường Việt Nam thông qua thành lập Liên doanh Hoa Lâm -
Shangri-La năm 2010 nhằm phát triển một khu y tế công nghệ cao tại huyện Bình
Chánh, TP.HCM. Cũng như Parkway, Tập đoàn Thomson Medical Centre Limited
đã ký thỏa thuận hợp tác với Công ty cổ phần Bệnh viện đa khoa quốc tế Hạnh Phúc
để quản lý Bệnh viện Hạnh Phúc tại Bình Dương. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp
Singapore hoạt động trong lĩnh vực y tế tại Việt Nam cho biết, họ đang có những
khó khăn và rào cản nhất định. Các doanh nghiệp muốn được đơn giản hóa thủ tục
hành chính hơn, có hành lang pháp lý rõ ràng, thuận lợi cho các hoạt động của cơ sở
y tế tư nhân cũng như tạo điều kiện thuận lợi trong việc mời các chuyên gia nước
ngoài đến giao lưu, giảng dạy và trao đổi kinh nghiệm. Bên cạnh đó, khó khăn về
vốn đầu tư và nhân lực trình độ cao cũng đang là bài toán khó giải. Tuy nhiên, mọi
việc đang chuyển động theo đà thuận lợi, nhất là khi Việt Nam là thành viên của
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và đang tham gia các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Riêng thống kê của Hội đồng Du lịch Y tế Malaysia cho thấy, năm 2016, chi
phí cho du lịch khám chữa bệnh của người Việt Nam tại Malaysia đã tăng đến 86%
(khoảng 9.800 bệnh nhân). Trong đó, mảng điều trị ung thư và các bệnh lý về tim
mạch chiếm phần lớn doanh thu lên tới 10,8 triệu RM tại các bệnh viện. Với việc ký
kết biên bản Ghi nhớ phát triển du lịch y tế Việt Nam - Malaysia dựa trên những
yếu tố tiềm năng đó, Bệnh viện Chuyên khoa KPJ Penang (KPJ PENANG) và Công
ty Phuoc Loc Intenational (PLI) vừa ký Biên bản Ghi nhớ (MOU) nhằm chính thức
thiết lập khuôn khổ hợp tác lâu dài và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển du
lịch chăm sóc sức khỏe tại Penang. Đây là một trong những trung tâm du lịch nghỉ
dưỡng và chăm sóc sức khỏe đang thu hút khách du lịch tại Malaysia.
Không chỉ đa dạng hơn về đối tác đầu tư, về địa bàn đầu tư cũng có những
chuyển biến tích cực, đó là vốn FDI vào ngành y tế đã tăng cường vai trò hơn vào
hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho toàn xã hội bao gồm cả bộ phận dân cư thu nhập
53
trung bình, thậm chí thấp hơn, vì một số tỉnh nghèo ở cả Bắc, Trung, Nam như
Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Thái Bình, Thái Nguyên, Hoà Bình, Lâm
Đồng đã được các nhà đầu tư chú ý với một số dự án bệnh viện, trung tâm điều
dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, hay sản xuất thuốc.
2.2.3. Nhân tố ảnh hưởng thu hút FDI từ ASEAN vào Việt Nam
2.2.3.1. Thực trạng cơ chế chính sách thu hút FDI
Về lĩnh vực đầu tư, Việt Nam thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư, đầu
tư có điều kiện và cấm đầu tư với một số lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu
phát triển. Về lĩnh vực khuyến khích đầu tư, chính sách của Việt Nam là ưu tiên,
khuyến kích phát triển các ngành dịch vụ đóng góp vào mục tiêu kinh tế, xã hội và
môi trường. Về điều kiện các dự án hưởng ưu đãi, theo Luật Đầu tư 2014 cũng thay
đổi theo hướng minh bạch hơn. Quy định này hướng tới khuyến khích các nhà đầu
tư ASEAN thực hiện các dự án quy mô lớn nhằm đóng góp cho tăng trưởng kinh tế,
tạo nhiều việc làm và nâng cao thu nhập, đời sống người lao động; chính sách này
cũng thúc đẩy các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vụ đóng góp tích cực hơn cho phát
triển khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng dự án, thực hiện phát triển bền vững
về kinh tế, các dự án có đóng góp trực tiếp cho giải quyết việc làm ở khu vực nông
thôn.
Về chính sách ưu đãi thuế, bao gồm những ưu đãi về thuế suất và thời gian
miễn giảm thuế thể hiện rõ định hướng của nước ta trong thu hút FDI từ các nước
trong khối ASEAN tới ngành dịch vụ nhằm thực hiện mục tiêu phát triển. So sánh
với khung hệ thống chính sách FDI trong lĩnh vực dịch vụ toàn cầu, cấp độ chính
sách thu hút FDI của Việt Nam có thể được đánh giá là tương đối hoàn thiện về các
văn bản pháp luật quy định cũng như hiệu quả của các chính sách.
Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện và cải tiến thủ tục hành chính theo hướng
thông thoáng và hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư, tuy nhiên vẫn còn có nhiều vấn đề
chưa rõ ràng, không thống nhất, và nhiều kẽ hở. Những thay đổi này mang ý nghĩa
rất tích cực trong việc làm rõ ràng và bổ sung các quan điểm, chính sách hợp lý của
Việt Nam về đầu tư nước ngoài, từ đó thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước
54
ngoài chưa đầu tư vào Việt Nam và làm vững tâm các nhà đầu tư nước ngoài đã và
đang đầu tư vào Việt Nam. Đến Luật đầu tư sửa đổi năm 2014, có thể thấy, các quy
định đối với nhà đầu tư nước ngoài đã được nới rộng rất nhiều, trong đó:
Nhìn chung, các thay đổi về thủ tục hành chính của Việt Nam là tương đối
cạnh tranh so với một số quốc gia khác:
Bảng 2.4. Bảng so sánh những quy định về cấp phép đầu tư và hình thức đầu tư
của Việt Nam với một số quốc gia Đông Nam Á
Quốc gia Hình thức công ty và lĩnh vựchoạt động Quy định về cấp phép đầu tư
Việt Nam
Mở rộng quyền cho doanh nghiệp
tự lựa chọn hình thức đầu tư, cho
phép doanh nghiệp 100% vốn, trừ
một số lĩnh vực quan trọng và nhạy
cảm;
Được chuyển đổi sang công ty cổ
phần, được tự do lựa chọn đối tác
đầu tư.
Một số lĩnh vực chỉ cần đăng ký
đầu tư, còn lại vẫn phải xin phép
đầu tư;
Phân cấp cho địa phương, khu
công nghiệp cấp phép đối với dự
án đầu tư nhỏ và vừa.
Trung
Quốc
Doanh nghiệp 100% vốn FDI phải
xin phép, chỉ ở trong lĩnh vực định
hướng xuất khẩu; Một số lĩnh vực
quy định mức đầu tư tối thiểu trong
nước;
Được chuyển đổi hình thức đầu tư;
được tự lựa chọn hình thức đầu tư.
Yêu cầu có giấy phép đầu tư;
Phân cấp cho địa phương xét dự
án nhỏ và vừa;
Thành lập trung tâm dịch vụ đầu
tư nước ngoài một cửa ở nhiều
địa phương.
Malaysia
Chỉ cho phép doanh nghiệp 100%
vốn FDI đối với dự án định hướng
xuất khẩu, còn hạn chế đối với các
lĩnh vực khác
Mọi dự án FDI đều phải xin
phép thời hạn từ 6 – 8 tuần hoặc
dài hơn.
Thái Lan
Không hạn chế đầu tư vào các linh
vực; Doanh nghiệp được tự lựa
chọn hình thức đầu tư, trừ một số ít
lĩnh vực cấn hay hạn chế FDI.
Chỉ yêu cầu giấy phép nếu muốn
hưởng chính sách khuyến khích;
Nhà đầu tư chỉ phải đăng ký với
Bộ thương mại và Cục thuế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thu_hut_dau_tu_truc_tiep_tu_hiep_hoi_cac_quoc_gia_d.pdf