Luận văn Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu . .1

 

CHƯƠNG I

THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC

I. Thu hút FDI tại Trung Quốc qua các giai đoạn . 3

1. Giai đoạn thăm dò (1979-1985) . 3

2. Giai đoạn phát triển ổn định (1986-1991) . .3

3. Giai đoạn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ (1992-1993) . 5

4. Giai đoạn điều chỉnh (1994 đến nay) . 6

II. Đặc điểm FDI tại Trung Quốc .8

1. Nguồn vốn đầu tư . . . .8

2. Đối tác đầu tư . . 10

3. Quy mô của các dự án đầu tư 14

4. Hình thức đầu tư .16

5. Lĩnh vực đầu tư 20

6. Địa bàn đầu tư . . 21

III. Những nhân tố tạo nên sức hấp dẫn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc 22

1. Kinh tế tăng trưởng mạnh . .22

2. Tiềm lực thị trường to lớn . 23

3. Giá thành lao động và giá thành đất đai thấp . .24

4. Trung Quốc gia nhập WTO . .24

 

 

 

CHƯƠNG II

NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC

 

I. Tác động của FDI đối với nền kinh tế Trung Quốc . .27

1. Tác động tích cực 27

2. Những tác động tiêu cực . .32

II. Những bài học thành công trong thu hút FDI ở Trung Quốc .33

1. Từng bước mở rộng địa bàn đầu tư .33

2. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư .43

3. Chính sách hợp lý trong đa dạng hoá nguồn đầu tư . .51

III. Những bài học chưa thành công .59

1. Hoạt động quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài còn nhiều

bất cập, cần rút kinh nghiệm . .59

2. Trong thu hút FDI, tài sản của nhà nước bị thất thoát nghiêm trọng 62

3. Chưa có chính sách thích hợp để bảo hộ thị trường trong nước . 62

4. Các nhà đầu tư còn khống chế kỹ thuật trong doanh nghiệp liên doanh . .64

5. Chưa thực sự coi trọng chất lượng của đầu tư trực tiếp nước ngoài 65

 

 

CHƯƠNG III

VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC Ở VIỆT NAM

 

I. Vài nét về sự tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc .67

1. Những nét tương đồng . .67

2. Những khác biệt . .71

 

II. Thực trạng FDI ở Việt Nam trong thời gian qua .73

1. Về số dự án, vốn đầu tư và quy mô dự án . 73

2. Về cơ cấu đầu tư . . 75

3. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư của các dự án FDI tại Việt Nam . 80

4. Tác động tích cực của FDI . 81

5. Những thuận lợi và khó khăn trong thu hút FDI ở Việt Nam hiện nay . 84

III. Vận dụng kinh nghiệm trong hoạt động thu hút FDI của Trung Quốc ở

Việt Nam . . 88

1. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước . 88

2. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, lành mạnh hoá nền kinh tế vĩ mô .89

3. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư . 90

4. Đa dạng hóa các đối tác đầu tư . 92

5. Xây dựng định hướng và quy hoạch tổng thể về thu hút FDI . 92

6. Nâng cao trình độ phát triển nguồn nhân lực . 93

7. Nâng cao hiệu quả các KCN, KCX 94

8. Tăng cường hội nhập, tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới .94

9. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư . 95

Kết luận . . 96

Danh mục tài liệu tham khảo 98

 

 

 

doc117 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3684 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư. Tháng 4 năm 1990, Trung Quốc đã tiến hành sửa đổi luật này, có những quy định có lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài ở ba vấn đề: quốc hữu hoá, kỳ hạn hợp doanh và lựa chọn giám đốc: + Nhà nước không thực hiện quốc hữu hoá và trưng thu doanh nghiệp liên doanh. + Người phía nước ngoài có thể làm giám đốc. + Kỳ hạn hợp doanh: được quy định khác nhau đối với các ngành khác nhau, các tình huống khác nhau. Có doanh nghiệp cần phải quy định, có doanh nghiệp không cần. Ở những doanh nghiệp có quy định kỳ hạn hợp doanh, nếu các bên hợp doanh đồng ý kéo dài kỳ hạn, cần phải nộp đơn xin cơ quan có thẩm quyền trước 6 tháng trứoc khi hết hạn hợp doanh. Nhìn chung, bộ luật đầu tư của Trung Quốc đáp ứng được hai nguyên tắc cơ bản mà nước này đề ra, xứng đáng là nền tảng pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Sau khi ban hành bộ luật nói trên, để hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt bộ luật, văn bản dưới luật trên nhiều mặt có liên quan đến hoạt động này, bao gồm: - Về hoạt động của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Trung Quốc đã ban hành các văn bản pháp luật như: Quy định về cách thức đăng ký doanh nghiệp liên doanh vào tháng 8 / 1990; Quy định về lao động trong xí nghiệp liên doanh vào tháng 8 / 1990; Luật thuế thu nhập xí nghiệp nước ngoài vào tháng 12 / 1981; Quyết định sửa đổi thuế thu nhập của doanh nghiệp liên doanh vào tháng 8 / 1993; Luật xí nghiệp 100% vốn nước ngoài vào tháng 4 / 1986...Như vậy, chúng ta thấy các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của xí nghiệp có vốn nước ngoài là khá đầy đủ và chi tiết, từ thủ tục đăng ký kinh doanh đến tuyển dụng lao động, hay các quy định về thuế... Hơn nữa, các quy định này lại rất cụ thể và rõ ràng, tạo rất nhiều thuận lợi cho các xí nghiệp này hoạt động. Theo đánh giá của một số chuyên gia luật nước ngoài thì sự đảm bảo về mặt pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài dưới hình thức lập các xí nghiệp ở Trung Quốc là khá đầy đủ và hiệu quả. - Về việc bảo hộ bản quyền: Trung Quốc đã ban hành những bộ luật sau: Luật nhãn hiệu, Luật li-xăng, Luật quyền tác giả, Điều lệ bảo hộ phần mềm máy tính...Ngoài ra, Trung Quốc còn tham gia các tổ chức quốc tế về bảo vệ quyền tri thức, quyền sở hữu công nghiệp như việc tham gia công ước Paris về bảo vệ bản quyền sở hữu công nghiệp. Trung Quốc còn ký hiệp định bảo hộ đầu tư với 67 nước, ký hiệp ước bảo hộ đa biên...Những việc làm như vậy của Trung Quốc đã tạo được tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các nhà tư bản phương Tây và các công ty xuyên quốc gia bởi họ đặc biệt sợ bị đánh cắp bản quyền khi đầu tư vào những nước đang phát triển như Trung Quốc. - Về định hướng chiến lược thu hút FDI: Đây là một vấn đề không chỉ Trung Quốc mà các nhà đầu tư cũng rất quan tâm. Vấn đề này đã được Trung Quốc đề cập tới khi ban hành “Quy định của Quốc vụ viện về khuyến khích đầu tư nước ngoài” (gọi tắt là quy định “22 điều mục”) năm 1986. Quy định này nhấn mạnh việc ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá và doanh nghiệp kỹ thuật tiên tiến trên 5 mặt: + Hạ thấp phí sử dụng đất đai. Ngoài các khu vực phồn hoa sầm uất của các thành phố lớn, phí khai thác và phí sử dụng tính thu mỗi năm mỗi m2 là 5-20 NDT, phí khai thác tính thu một lần. Nếu các doanh nghiệp trên tự khai phát, phí sử dụng cao nhất được tính là mỗi m2 mỗi năm 3 NDT. + Hạ thấp phí lao động: các công trình thuỷ điện, giao thông, thông tin thu phí theo tiêu chuẩn của các doanh nghiệp quốc doanh địa phương. + Miễn giảm thuế: đối với các sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm dầu thô, thành phẩm dầu và một số sản phẩm khác do nhà nước quy định được miễn thuế công thương thống nhất. + Khích lệ các nhà đầu tư nước ngoài tái đầu tư lợi nhuận. Nếu thời gian kinh doanh của dự án tái đầu tư trên 5 năm, qua cơ quan thuế vụ xét duyệt, người đầu tư sẽ được trả lại 40% thuế thu nhập đã nộp đối với phần tái đầu tư. + Bảo đảm hai điều kiện bên ngoài của doanh nghiệp kinh doanh sản xuất (bao gồm nhập khẩu hàng hoá có liên quan), tạo môi trường hoạt động tiền tệ thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. “22 điều mục” đã tạo một phạm vi rộng đáng kể so với các chính sách trước đó. Trước đây, các cơ sở đầu tư liên doanh được hưởng ưu đãi hơn các cơ sở hợp đồng kinh doanh và cơ sở 100% vốn nước ngoài. Còn “22 điều mục” không tính đến sự phân biệt đó miễn là chúng đủ tư cách là cơ sở kinh doanh xuất khẩu hoặc cơ sở kỹ thuật tiên tiến. - Về mặt đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp có xung đột: Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều hoạt động. Chẳng hạn, nước này đã công bố quy định cho phép các xí nghiệp dùng vốn nước ngoài có quyền từ chối và kiện những ai tuỳ tiện đến thu các khoản lệ phí bất hợp pháp từ cấp chính quyền địa phương cho đến cấp Trung Ương. Việc làm này không những cho phép Trung Quốc giảm đáng kể tình trạng hạch sách của một số cấp chính quyền đối với chủ đầu tư nước ngoài mà còn giúp giải quyết nhanh chóng những thắc mắc của họ. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư nếu phải đưa sự vụ ra trọng tài, Trung Quốc đã tham gia vào Trung Tâm quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID) và phê chuẩn công ước New York về thi hành các bản án của trọng tài nước ngoài. Ngoài ra, các cơ quan trọng tài của nước này cũng đã ký nhiều thoả thuận song phương với các cơ quan nước ngoài như Trung tâm trọng tài Bắc Kinh (BCC) ký thoả thuận hợp tác với Hiệp hội trọng tài Mỹ (AAA) về hợp tác giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Mỹ và Trung Quốc. Gần đây, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã công bố “Bản danh sách về các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài”. Bản danh sách này bao gồm 371 lĩnh vực dành cho đầu tư nước ngoài và có 34 lĩnh vực không dành cho đầu tư nước ngoài. Riêng Bắc Kinh đã mở cửa hoàn toàn với 262 lĩnh vực dành cho các nhà đầu tư. Trước khi gia nhập WTO, con số này chỉ là 186 lĩnh vực. Phần lớn những lĩnh vực tăng thêm gồm các ngành công nghệ sinh học, điện tử, thiết bị viễn thông, dụng cụ và dây chuyền sản xuất. Việc định ra danh sách này thể hiện quyết tâm của Trung Quốc hướng FDI vào những ngành công nghệ hiện đại. Tóm lại, ta thấy chính phủ Trung Quốc đã rất chú trọng đến việc tạo lập và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng tạo nên thành công cho hoạt động thu hút và sử dụng FDI ở Trung Quốc trong những năm qua. 2.1.2. Các ưu đãi tài chính Các ưu đãi tài chính được coi là đòn bẩy trực tiếp vì nó liên quan trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà đầu tư. Do đó, nó được xem như một cơ sở so sánh để nhà đầu tư đi đến quyết định có đầu tư hay không. Bởi vậy, trong những năm qua, Trung Quốc rất quan tâm đến việc thiết lập cơ chế ưu đãi tài chính cho các nhà đầu tư nước ngoài, cụ thể là: - Ưu đãi về khu vực đầu tư: Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xây dựng ở đặc khu kinh tế và các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mang tính chất sản xuất xây dựng ở khu khai phát tại 14 thành phố ven biển được giảm thuế thu nhập 15% theo tỷ lệ thuế. - Ưu đãi về kỳ hạn kinh doanh: Đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất, nếu kỳ hạn kinh doanh trên 10 năm, tính từ năm bắt đầu có lãi, năm thứ nhất và năm thứ hai họ được miễn thuế thu nhập, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 họ được giảm một nửa thuế thu nhập. - Ưu đãi dành cho hành vi tái đầu tư. - Đãi ngộ dành cho hành vi tái đầu tư thông thường: người đầu tư nước ngoài dùng số lợi nhuận thu được của xí nghiệp để tái đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp đó, hoặc đầu tư để xây dựng doanh nghiệp khác, nếu kỳ hạn kinh doanh không dưới 5 năm thì được trả lại 40% thuế thu nhập đã nộp với phần tái đầu tư. - Ưu đãi dành cho hành vi tái đầu tư đặc biệt: các nhà đầu tư tái đầu tư xây dựng ở một số lĩnh vực đặc biệt như mở rộng xí nghiệp có kỹ thuật tiên tiến, mở rộng xí nghiệp xuất khẩu sản phẩm hoặc đầu tư cho các hạng mục xây dựng cơ bản và mở mang nông nghiệp trong đặc khu kinh tế Hải Nam thì có thể được trả lại toàn bộ số thuế thu nhập đối với phần tái đầu tư. Những xí nghiệp trên nếu chưa đạt tiêu chuẩn xí nghiệp xuất khẩu sản phẩm hoặc chưa được xác nhận là xí nghiệp có kỹ thuật tiên tiến, trong thời gian 3 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh thì phải nộp lại 60% số thuế đã được truy lĩnh. Từ tháng 1 / 1994, nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Trung Quốc đã tiến hành cải cách về thuế ở một số mặt sau: - Thực hiện một chính sách thuế thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế nhằm đảm bảo sự bình đẳng về thuế, thúc đẩy cạnh tranh, thuế đánh không phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI. - Thay thế thuế doanh nghiệp bằng thuế giá trị gia tăng và đơn giản hóa cơ cấu thuế suất. - Giảm thuế thu nhập đánh vào các doanh nghiệp để kích thích sản xuất kinh doanh phát triển. Mở rộng diện thu thuế thu nhập cá nhân. - Xóa bỏ dần các ưu đãi miễn giảm thuế và chuyển sang hình thức tài trợ cho các trường hợp đặc biệt cần thiết bằng chi ngân sách. - Bổ sung một số loại thuế mới như thuế tài nguyên, thuế sở hữu. Hiện nay, Trung Quốc đang đi vào xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng và tự do. Những chính sách ưu đãi về thuế tuy đôi lúc có bộc lộ những yếu điểm nhưng đã tỏ rõ tác dụng trong việc thu hút vốn bên ngoài, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại ở Trung Quốc. 2.2. Cải thiện môi trường đầu tư “cứng” Để tạo sức hấp dẫn với các nhà đầu tư, Trung Quốc dùng vốn ngân sách hoặc vốn vay để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo thứ tự ưu tiên vùng theo kiểu bậc thang, trước hết ở những vùng có điều kiện thuận lợi rồi tiếp đến là những vùng khó khăn hơn. Điển hình là kinh nghiệm xây dựng cơ sở hạ tầng ở các đặc khu kinh tế của Trung Quốc rất đáng được học tập. Với quan điểm “Làm tổ cho chim phượng hoàng vào đẻ trứng”, Trung Quốc muốn huy động tối đa vốn từ nước ngoài vào xây dựng và phát triển các đặc khu. Những chi phí chính của việc thành lập các ĐKKT có thể được chia làm hai phần: một phần liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng, bao gồm việc san lấp và khai phá mặt bằng, lắp đặt hệ thống cấp thoát nước, xây dựng mạng lưới điện, mắc điện thoại, làm đường sá, cầu cống. Theo thông lệ, phần chi phí này do những nhà đầu tư và chính phủ Trung Quốc cùng chịu. Phần do các nhà đầu tư nước ngoài chịu thay đổi tuỳ theo loại hợp đồng liên doanh ký kết giữa hai bên hay tuỳ thuộc vào phương thức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào đặc khu. Chẳng hạn trong hợp đồng chế biến nguyên liệu, chi phí này thuộc về Chính phủ Trung Quốc. Nhưng theo các phương thức “Liên doanh”, “Hợp đồng hợp tác kinh doanh”, các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đấu thầu thường phải cung cấp thiết bị và vốn, Chính phủ Trung Quốc cung cấp đất xây dựng, nhà xưởng, nhân công và số tiền tuỳ theo tính chất của hợp đồng. Đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì nhà đầu tư phải chịu các chi phí về công trường và nhà xưởng. Trong hầu hết các trường hợp, Chính phủ Trung Quốc phải trang trải các khoản chi phí liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Phần chi phí thứ hai liên quan đến việc phát triển đô thị trong những ĐKKT như: nhà ở, trường học, bệnh viện và các trung tâm công cộng... phần lớn do Chính phủ Trung Quốc chịu. Theo chủ trương “chính phủ chỉ cho chính sách, không cho tiền”, chính quyền ở các ĐKKT đã phải vận dụng mọi khả năng để tự trang trải kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản. Để huy động vốn xây dựng đặc khu, ngoài biện pháp vay ngân hàng, các đặc khu mà đầu tiên là Thâm Quyến đã có một giải pháp mới là bán quyền sử dụng đất. Trong thời kỳ 1980 -1985, công ty nhà đất Thâm Quyến đã bán 45.400 m2 đất, thu về 4 tỷ HKD. Từ cuối năm 1987, Thâm Quyến đã cho công khai bán đấu giá quyền sử dụng đất với thời hạn sử dụng là 50 năm. Một biện pháp khác là huy động vốn ứng trước từ những người sẽ sử dụng công trình hoặc hưởng lợi trực tiếp từ công trình với phương châm “Mượn gà đẻ trứng”. Các nhà đầu tư theo kiểu này sẽ được thuê công trình với những điều kiện ưu đãi nhất định. Nhiều công trình hạ tầng ở các ĐKKT Trung Quốc đã được xây dựng theo phương thức này. Nhờ mạnh dạn sử dụng vốn ngân sách cũng như triệt để tận dụng các nguồn vốn để đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng mà Trung Quốc đã tạo lập được một hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hiện đại, tăng cường sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư. 3. Chính sách hợp lý trong đa dạng hoá nguồn đầu tư 3.1. Đối với Hoa kiều Ngay từ khi thực hiện chính sách mở cửa, chính phủ Trung Quốc đã sớm nhận ra tiềm lực to lớn của bà con Hoa kiều. Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 57 triệu Hoa kiều đang sinh sống tại nhiều vùng lãnh thổ khác nhau. Ở bất cứ nơi nào, cộng đồng Hoa kiều cũng luôn chứng tỏ được vị trí và vai trò của mình trong xã hội. Chẳng hạn theo số liệu thống kê, ở Đông Nam Á có khoảng 24 triệu người Hoa sinh sống nhưng họ chi phối tới 60% nền kinh tế trong vùng. Thái Lan có khoảng 3,5-5 triệu người Hoa nhưng họ chiếm tới 90% các tập đoàn tài phiệt ở nước này và chiếm tới 89% tổng kim ngạch trên thị trường cổ phiếu Băng Cốc. Ở Inđônêsia, người Hoa chiếm tới 73% trong tổng số 200 xí nghiệp lớn nhất nước. 10 tập đoàn lớn nhất nước này do người Hoa quản lý. Theo tin từ một tạp chí châu Mỹ, châu Á có 49 tỷ phú người Hoa trong đó 12 người sống ở Đài Loan, 10 người sống ở Hồng Kông, 9 người ở Thái Lan, 6 người ở Inđônêsia, 5 người ở Malaysia, 4 người ở Singapore và 3 người ở Phillipine. Người giầu nhất là một trùm bảo hiểm và kinh doanh bất động sản ở Đài Loan với mức tài sản khổng lồ lên tới 5,4 tỷ USD. Hoa kiều không chỉ mạnh về tiềm lực kinh tế mà còn rất thành đạt trong khoa học kỹ thuật. Riêng ở Mỹ, hiện có trên 100 nghìn chuyên gia, học giả người gốc Trung Quốc, chiếm 8% tổng số Hoa kiều sinh sống ở đây. Đến nay, đã có 4 người Hoa ở hải ngoại được tặng giải thưởng Nobel, riêng ở Mỹ đã có 3 người. Người Hoa dù ở Mỹ, Nhật hay Tây Âu cũng đều được coi là “kho nhân tài”, chiếm 1/2 tổng số chủ tịch các phân hội thuộc Hội Công trình cơ giới của Mỹ, 1/3 số kỹ sư cao cấp của hãng máy tính lớn nhất của Mỹ IBM, 12,5% tổng số người làm trong các ngành đòi hỏi tri thức cao như nghệ thuật, kiến trúc tại Nhật Bản. Với sức mạnh kinh tế ngày càng được tăng cường và lực lượng nhân tài hùng hậu, Hoa kiều được các nước phương Tây coi như một đế quốc thực sự: một đế quốc không biên giới, không thủ đô, không quốc kỳ, một cường quốc kinh tế thứ tư ở Châu Á sau Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Chính bởi tiềm lực Hoa kiều mạnh như vậy nên Trung Quốc rất muốn tiếp cận với vốn, kỹ thuật và bí quyết sản xuất của họ, đặc biệt là sự hợp tác của Hoa kiều trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới. Người Hoa và Hoa kiều sẽ là những người trung gian tốt nhất để giúp Trung Quốc mở cửa ra bên ngoài, là cầu nối để Trung Quốc mở rộng thương mại, đầu tư với thế giới. Hơn thế nữa, thu hút đầu tư của Hoa kiều còn có những thuận lợi lớn mà chủ đầu tư khác không có được, đó là: - Người Hoa ở hải ngoại có một đặc điểm nổi bật, đó là lòng tự hào dân tộc, truyền thống yêu nước sâu sắc đã gắn vào máu thịt của người dân và được truyền từ đời này sang đời khác. Bởi vậy, dù ở bất cứ đâu, họ luôn hướng về tổ quốc. Khi Trung Quốc mở cửa, người Hoa đầu tư ồ ạt vào Trung Quốc. Họ có thể dễ dàng chấp nhận thua lỗ trong đầu tư với nội địa, bởi họ luôn nghĩ rằng họ đóng góp giúp Tổ quốc phát triển kinh tế và xây dựng đất nước hiện đại hóa. - Người Hoa khi đầu tư về Trung Quốc có nhiều thuận lợi, họ có ngôn ngữ chung, có nền văn hoá chung. Đặc biệt mức độ hiểu biết về phong tục tập quán lễ nghi tôn giáo và đặc điểm tâm lý của người Trung Quốc của họ hơn hẳn các nhà đầu tư khác. Vì vậy, họ dễ dàng hợp tác với các nhà đầu tư trong nước, dễ khắc phục những trở ngại trong quá trình liên doanh liên kết. Với những đặc điểm dân tộc, truyền thống văn hoá chung này, loại hình hợp tác đầu tư của người Hoa và Hoa kiều có tiềm lực rất lớn. Nhận thức được vai trò của đầu tư Hoa kiều đối với phát triển đất nước, từ cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc đưa ra nhiều biện pháp để thu hút đầu tư của Hoa kiều. Trung Quốc coi người Hoa và Hoa kiều ở nước ngoài là hậu duệ của Trung Quốc, coi người Hoa ở Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan là đồng bào, là máu mủ ruột thịt. Trung Quốc tuyên truyền giáo dục về văn hoá, truyền thống Trung Hoa cho cộng đồng người Hoa và Hoa kiều ở nước ngoài nhằm mục đích làm cho họ hướng về đất nước, vị trí của người Hoa sẽ được nâng cao khi Trung Quốc giầu mạnh và có uy tín trên trường quốc tế. Sự tuyên truyền này đã góp phần làm cho cộng đồng người Hoa và Hoa kiều ở nước ngoài được củng cố, gắn kết lại thành một khối. Năm 1989, Trung Quốc đưa ra “Những quy định về việc khuyến khích đồng bào Đài Loan đầu tư”. Những năm sau đó, một loạt các quy định liên quan đến đầu tư của Hoa kiều đã ra đời, bao gồm “Những quy định về việc khuyến khích Hoa kiều và đồng bào Hồng Kông, Ma Cao đầu tư” (năm 1990), “Luật bảo vệ quyền lợi và lợi ích của quy kiều và kiều quyến” (năm 1990) và “Luật bảo hộ đầu tư của Đài Loan” (năm 1994). Những chính sách khuyến khích đầu tư của Hoa kiều bao gồm: + Người đầu tư là Hoa kiều có thể đầu tư trong các tỉnh, các khu tự trị, thành phố trực thuộc, ĐKKT của Trung Quốc. + Có thể mở các doanh nghiệp “ba vốn”, triển khai mậu dịch bồi hoàn, mua cổ phiếu, chứng khoán doanh nghiệp. + Khích lệ các nhà đầu tư Hoa kiều mở các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm, các doanh nghiệp kỹ thuật tiên tiến và có những ưu đãi tương ứng. + Có thể đầu tư bằng cách trao đổi tiền tệ tự do, các thiết bị máy móc hoặc các hiện vật khác. + Nhà nước Trung Quốc bảo vệ tài sản, quyền sở hữu công nghiệp, lợi nhuận thu được của các nhà đầu tư Hoa kiều. Các nhà đầu tư có thể chuyển nhượng, thừa kế theo luật pháp. + Nhà nước không thực hiện quốc hữu hoá, không trưng thu tài sản của các nhà đầu tư Hoa kiều. Khi thực hiện trưng thu đối với các doanh nghiệp đầu tư của Hoa kiều sẽ bồi thường tương ứng theo pháp luật. + Các doanh nghiệp Hoa kiều về nước đầu tư được hưởng chính sách ưu đãi thuế: 2 năm đầu được miễn thuế, 3 năm sau giảm một nửa. + Các doanh nghiệp Hoa kiều nhập khẩu các thiết bị máy móc, phương tiện xe cộ trong sản xuất và các thiết bị làm việc, mà doanh nghiệp cần trong tổng mức đầu tư của họ, cũng như các phương tiện giao thông và đồ dùng sinh hoạt với số lượng hợp lý cần thiết trong thời gian công tác, miễn nộp thuế quan nhập khẩu, thuế thống nhất công thương, miễn giấy phép nhập khẩu. + Các doanh nghiệp Hoa kiều nhập khẩu nguyên vật liệu, nhiên liệu, linh kiện rời, linh kiện phụ kiện, linh kiện đồng bộ, sử dụng vào sản xuất, xuất khẩu sản phẩm được miễn thuế nhập khẩu, thuế công thương thống nhất, miễn giấy phép nhập khẩu. Nếu tiêu thụ các linh kiện này ở trong nước phải làm bổ sung các thủ tục nhập khẩu và bù thuế. + Có thể thế chấp tài sản doanh nghiệp đầu tư để vay vốn trong và ngoài nước. + Việc xác định thời hạn kinh doanh do Hội đồng quản trị hữu quan các bên bàn bạc. + Sản phẩm của doanh nghiệp được bán trên thị trường nội địa. + Có thể mời nhân viên kỹ thuật và quản lý từ nước ngoài. + Có thể uỷ thác cho bạn bè người thân làm đại diện cho họ. Có thể thành lập thương hội của đồng bào Hoa kiều. + Chính quyền các cấp trả lời giấy xin phép mở doanh nghiệp đầu tư của đồng bào Hoa kiều trong vòng 45 ngày. + Có thể mời trọng tài của Trung Quốc hoặc Hoa kiều giải quyết các vụ tranh chấp. Với những chính sách trên, Trung quốc đã thu hút được những khoản đầu tư lớn của Hoa kiều. Từ năm 1979 đến năm 1993, đã có 44 tỷ USD của đồng bào Hoa kiều được đầu tư vào Trung Quốc, chiếm 80% số vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn đó. Trong đó, Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan chiếm 65% tổng số vốn. Bên cạnh đó, lực lượng người Hoa ở các nước ASEAN cũng đầu tư khá lớn vào Trung Quốc. Họ chiếm khoảng 10 -15% vốn đầu tư trong đó nổi bật là đầu tư của Hoa kiều ở Singapore. Những năm tiếp theo, đầu tư của người Hoa ở nước ngoài không ngừng tăng lên về giá trị tuyệt đối tuy tỷ trọng trong tổng luồng FDI có giảm xuống do các nhà đầu tư khác đã để ý nhiều hơn đến thị trường Trung Quốc. Hiện nay, Hoa kiều chiếm trên 70% số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trên 50% tổng số vốn FDI tại Trung Quốc. 3.2. Đối với các công ty xuyên quốc gia (Trans National corporations-TNCs) Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) là các công ty được thành lập do vốn đóng góp của một nước và địa bàn hoạt động của nó được triển khai ở nhiều nước. TNCs đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 60.000 TNCs, trong đó 49.000 công ty thuộc các nước công nghiệp phát triển và 11.000 công ty thuộc các nước đang phát triển. Các công ty xuyên quốc gia có mạng lưới chân rết hoạt động rộng khắp thế giới với khoảng 500.000 công ty con ở nước ngoài. Doanh thu của các công ty con thường đạt mức 6.000 tỷ NDT/năm (bằng 120% so với tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp năm 1999 của toàn thế giới). Hơn 80% đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới là do các công ty xuyên quốc gia tiến hành, 90% kết quả nghiên cứu và triển khai kỹ thuật là thuộc các công ty xuyên quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia cũng là nguồn cung cấp vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu đối với các nước đang phát triển. Từ đầu những năm 1990, nhận thức được thực tế là các nước công nghiệp phát triển dư thừa tiền vốn, có xu hướng chuyển vốn đầu tư sang các nước đang phát triển để chuyển giao những công nghệ đã phần nào lạc hậu và tận dụng nguồn nguyên liệu, lao động tại chỗ rẻ, Trung Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp hợp lý để thu hút các TNCs. Với phương châm “Lấy thị trường đổi lấy kỹ thuật”, “Lấy thị trường đổi lấy vốn”, “Lấy thị trường để phát triển”, Trung Quốc quyết định nhường một phần thị trường trong nước cho các nhà đầu tư nước ngoài để đổi lấy sự đầu tư lớn hơn nữa. Những chính sách mà Trung Quốc áp dụng để thu hút các TNCs bao gồm: - Giảm dần chế độ ưu đãi, cung cấp đãi ngộ quốc dân cho các nhà đầu tư nước ngoài để họ tiến hành cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước trên cơ sở bình đẳng và công bằng. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với các TNCs hơn là các ưu đãi về thuế. Bởi vì, cho dù Trung Quốc có cho họ hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập thì họ vẫn phải giao nộp cho nhà nước họ phần tiền thuế được thêm này theo luật thuế nước họ quy định. Như vậy, người thực tế được lợi không phải là các TNCs mà là các chính phủ của các công ty này. Đây là một đặc điểm rất riêng của TNCs. Hơn nữa với thực lực tiền vốn hùng hậu của mình họ hoàn toàn có khả năng cạnh tranh được trong đầu tư. - Các nhà đầu tư được đảm bảo an toàn về tính mạng và tài sản. - Các quyền hợp pháp của các nhà đầu tư được bảo vệ. Lợi nhuận của họ được chuyển ra nước ngoài. - Các doanh nghiệp chung vốn với TNCs được giao quyền độc lập và tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. - Các tranh chấp kinh tế được giải quyết theo luật định. - Đơn giản hóa các thủ tục đầu tư. - Các nhà đầu tư được tiêu thụ một phần sản phẩm của mình trên thị trường Trung Quốc. - Đầu tư của TNCs nhằm khai thác thị trường đã có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển hệ thống thị trường trong nước. Do vậy, Trung Quốc đã chú ý tăng cường vai trò của chính phủ trong cơ chế thị trường. Nhà nước Trung Quốc đã thiết lập và phát triển hệ thống thị trường, đặt ra các quy tắc cạnh tranh công bằng và hợp lý làm giảm đi sự biến động của các loại thị trường. - Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất, phá vỡ sự chia cắt và bao vây giữa các ngành, các khu vực, hình thành thị trường lớn thống nhất, mở cửa, cạnh tranh có trật tự. - Thiết lập cơ chế giá, chủ yếu do thị trường hình thành, nới lỏng giá dịch vụ và các mặt hàng có tính chất cạnh tranh. Xoá bỏ chế độ hai giá đối với tư liệu sản xuất, thị trường hoá giá cả các yếu tố sản xuất. - Phát triển thị trường hàng hoá về tư liệu sản xuất, hàng công nghiệp tiêu dùng, các mặt hàng nông sản lớn, tạo ra mạng lưới thị trường hàng hoá kết hợp giữa lớn, vừa và nhỏ, cùng tồn tại nhiều hình thức kinh tế và phương pháp kinh doanh. Chống cạnh tranh không chính đáng như sản xuất tiêu thụ hàng giả, hàng kém phẩm chất. - Phát triển hoàn thiện thị trường tiền tệ: phát triển trái phiếu, cổ phiếu, hình thành thị trường chứng khoán. Trung Quốc đã tiến hành thử nghiệm ở Thượng Hải, Thâm Quyến từ năm 1987, cho phép các ngân hàng nước ngoài vào tự do cạnh tranh, ngăn chặn các hoạt động tập hợp vốn trái phép. - Từng bước hình thành thị trường lao động: coi trọng việc khai thác, lợi dụng và phân phối hợp lý nguồn nhân lực. Mở rộng và sắp xếp việc làm cho lao động thành thị, khuyến khích nhân công dư thừa ở nông thôn từng bước chuyển sang các ngành phi nông nghiệp và di chuyển có trật tự giữa các vùng. Vận dụng các biện pháp kinh tế để điều tiết cơ cấu việc làm. - Phát triển thị trường nhà đất: thực hiện chế độ chuyển nhượng đất đai có bồi thường và có thời hạn. Thiết lập cơ chế giá về quyền sử dụng đất theo thị trường. - Phát triển thị trường kỹ thuật và thông tin. Thực hiện chuyển nhượng thành quả kỹ thuật có bồi thường, thương nghiệp hoá và công nghiệp hoá các sản phẩm tin học. Đặc biệt, sự tăng trưởng kinh tế hiện nay, chủ yếu được quyết định ở nguồn vốn và nhân lực có tính sáng tạo. Do vậy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam.doc