MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM 7
1.1. Vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ 7
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư cho phát triển Khoa học và công nghệ 28
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về thu hút các nguồn vốn cho đầu tư phát triển khoa học và công nghệ 33
Chương 2: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY 45
2.1. Thực hiện đa dạng hóa vốn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ 45
2.2. Đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ 69
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 91
3.1. Bối cảnh phát triển khoa học và công nghệ nước ta và phương hướng tăng cường thu hút vốn đầu tư cho hoạt động này 91
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ nước ta trong thời gian tới 99
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 116
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
127 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2860 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thu hút vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hôn ở từng vùng trong tỉnh, chú trọng các vùng miền núi, dân tộc, biên giới, vùng đặc biệt khó khăn, vùng tập trung chuyên canh gắn với cơ sở chế biến sản xuất nông sản hàng hoá. Các chương trình này phải dựa trên cơ sở khoa học, có mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng, có tính khả thi, có sự phối hợp liên ngành, có sự tham gia của các cấp uỷ, chính quyền, hội đồng khoa học của tỉnh.
Trên cơ sở mục tiêu và nhiệm vụ của các chương trình phát triển nông thôn, thực hiện việc lồng ghép, phối hợp các chương trình kinh tế - xã hội, KH&CN được tiến hành trên cùng một địa bàn để tập trung các nguồn lực, giải quyết đồng thời nhiều mục tiêu. Việc phối hợp phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, bảo đảm nội dung, mục tiêu của các dự án được thực hiện có chất lượng, đúng tiến độ; chú ý ứng dụng các thành tựu khoa học mới nhất, đã được các cấp có thẩm quyền giám định, phê duyệt; tạo tối đa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cả về nội dung và tài chính cho người chủ trì dự án, trên cơ sở bảo đảm hiệu quả cuối cùng về kinh tế và xã hội. Các chương trình KH&CN phục vụ nông nghiệp và nông thôn không triển khai riêng biệt mà phải là hạt nhân để thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Các trung tâm khoa học quốc gia, các viện nghiên cứu, các trường đại học, trường chuyên nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có trách nhiệm tham gia trực tiếp vào các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn theo những hình thức thích hợp; chú trọng huy động lực lượng KH&CN tham gia nghiên cứu, ứng dụng vào các lĩnh vực bức thiết như môi trường sống, nước sạch nông thôn và cơ sở hạ tầng khác để nâng cao đời sống của nông dân.
Ba là: Củng cố và tăng cường đầu tư cho một số trung tâm nghiên cứu khoa học cơ bản hiện đại, nhất là về công nghệ sinh học, tạo bước đột phá mới về giống, quy trình sản xuất, bảo quản, chế biến nông - lâm - hải sản để trước mắt khắc phục những yếu kém về năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam, tiến tới có thể xâm nhập sâu rộng ở thị trường nước ngoài.
Hàng năm, các ngành, các cấp phải dành một tỷ lệ ngân sách thoả đáng cho việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch; đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động tại chỗ; xây dựng thí điểm các khu nông nghiệp sử dụng công nghệ cao, tạo ra sản phẩm nông nghiệp có sức cạnh tranh cao, tiến tới nhân rộng cho các địa phương.
Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đặc biệt là với các nước có nền nông nghiệp phát triển về nghiên cứu, ứng dụng KH&CN, đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao để phục vụ trực tiếp cho các mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Đại hội X (năm 2006) của Đảng tiếp tục khẳng định và có những quan điểm mới: Phát triển thị trường KH&CN trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm KH&CN (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ cơ bản xây dựng đường lối, chiến lược, chính sách phát triển) trở thành hàng hóa. Thông tin rộng rãi và tạo môi trường cạnh tranh để các sản phẩm KH&CN được mua bán thuận lợi trên thị trường; phát triển thị trường KH&CN là hệ quả của sự phát triển nền kinh tế thị trường; phát triển của bản thân KH&CN và mối quan hệ cung-cầu giữa KH&CN với sản xuất là quan hệ sản xuất mới; phát triển của nhận thức xã hội: đối với lực lượng KH&CN là một lực lượng sản xuất, đối với một sản phẩm (thành tựu) KH&CN là một sản phẩm hàng hóa...
Năm 2003, lần đầu tiên chợ công nghệ và thiết bị được tổ chức ở quy mô toàn quốc, mang tính chất đa ngành, đa lĩnh vực. Đây là khâu đột phá trong việc thu hút vốn đầu tư trên thị trường KH&CN.
Những chủ trương nêu trên là cơ sở quan trọng để định hướng thu hút đầu tư cho phát triển KH&CN ở nước ta từ năm 1996 đến nay.
2.1.2. Qu¸ tr×nh tæ chøc thùc hiÖn
Từ khi bước vào công cuộc đổi mới (năm 1986) đến năm 1996, chính sách và biện pháp thu hút vốn đầu tư cho KH&CN bắt đầu có những đổi mới. Bên cạnh việc cấp vốn của Nhà nước từ ngân sách, Nhà nước còn cho phép các cơ sở nghiên cứu chủ động thiết lập và mở rộng một số hình thức liên doanh, liên kết để ứng dụng thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống. Ngoài ra, đã mở rộng hơn nữa chế độ ký kết hợp đồng. Nhà nước cho phép các cá nhân, các cơ sở sản xuất ngoài Nhà nước có thể ký kết các hợp đồng với các cơ sở nghiên cứu, không chỉ hợp đồng kinh tế mà cả hợp đồng dân sự. Đặc biệt, một số chủ trương đã chứa đựng những tư tưởng mới, cho đến nay vẫn hoàn toàn còn có ý nghĩa, đã được đề xuất những năm 80 thế kỷ XX như: từng bước chuyển các cơ quan nghiên cứu triển khai sang chế độ hạch toán kinh tế và tự cấp vốn; Nhà nước không cấp kinh phí theo tổ chức và biên chế mà chỉ cấp theo nhiệm vụ thông qua các hợp đồng; chuyển một số viện vào công ty bảo đảm quyền tự chủ của các cơ quan nghiên cứu triển khai về vốn cũng như chế độ tuyển chọn chủ nhiệm đề tài.
Tuy nhiên, quy mô thu hút nguồn vốn cho KH&CN vẫn nhỏ, chưa đáp ứng được yếu cầu. Trung ương Đảng có Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 30/3/1991 về KH&CN trong sự nghiệp đổi mới có nhận định: "Khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa đáp ứng được những yêu cầu bức xúc của công cuộc đổi mới". Nghị quyết đã đề ra nhiều biện pháp đẩy mạnh phát triển KH&CN, trong đó có chủ trương nâng chi ngân sách nhà nước cho KH&CN (ít nhất 2% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm). Trên tinh thần đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 35/HĐBT, ngày 28/1/1992 về công tác quản lý KH&CN, khuyến khích thành lập tổ chức KH&CN thuộc mọi thành phần kinh tế. Nghị định này nhằm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ quan nghiên cứu KH&CN, thúc đẩy các cơ quan KHCN của Nhà nước hoạt động tốt hơn. Tuy nhiên, tác động này đã không mang lại hiện quả như mong muốn do thiếu những cơ chế đi kèm như không tạo điều kiện đối xử công bằng giữa các loại hình tổ chức KH&CN, nhất là trong việc tạo điều kiện cho các tổ chức tư nhân và cá nhân tiếp xúc các nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước cho KH&CN, vẫn duy trì tính bao cấp cho các cơ quan KHCN của Nhà nước. Như vậy, vốn đầu tư cho KH&CN vẫn chủ yếu là từ Nhà nước để "nuôi" các cơ sở KHCN của Nhà nước. Như vậy không tạo ra sự cạnh tranh có hiệu quả giữa các cơ sở KH&CN của mọi thành phần kinh tế. Mặt khác, mặc dù chủ trương từng bước áp dụng cơ chế tự hạch toán và tự trang trải đối với một số tổ chức nghiên cứu và triển khai được đặt ra từ cuối năm 1980, nhưng phải nhiều năm sau mới được cụ thể hoá trên thực tế.
Để khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư cho việc ứng dụng KHCN vào sản xuất, Nhà nước còn quy định thể lệ cho vay vốn để ứng dụng KH&CN vào sản xuất với nhiều ưu đãi về điều kiện nay vốn và lãi suất.
Nhìn chung, từ năm 1986 đến 1996, vốn đầu tư cho hoạt động KH&CN tuy đã có thay đổi về hình thức, nhưng trên thực tế, chưa thay đổi được nhiều, vốn dành cho KH&CN vẫn chủ yếu từ ngân sách nhà nước chi cho các cơ sở KH&CN của Nhà nước là chính, việc hạch toán kinh tế tuy có được thực hiện nhưng còn mang tính hình thức, chưa có hiệu quả cao.
Kể từ sau Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), chính sách và biện pháp thu hút vốn đầu tư cho KH&CN có những đổi mới căn bản:
- Ngày 18/9/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 119/1999/NĐ-CP về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN. Qua đó nhằm đổi mới, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Theo Nghị định, Chính phủ có chính sách và cơ chế ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) có các hoạt động ứng dụng công nghệ cao, dịch vụ KH&CN được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập thu được từ các hoạt động này như: Thuế suất 25%; thuế suất 20% đối với doanh nghiệp đầu tư ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; thuế suất 15% đối với doanh nghiệp đầu tư ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có dự án đầu tư vào các lĩnh vực ứng dụng và phát triển công nghệ cao, dịch vụ KH&CN được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 20% trong thời hạn 10 năm kể từ khi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các trường hợp thu nhập từ việc thực hiện các hợp đồng nghiên cứu - triển khai; từ việc thực hiện hợp đồng dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp; từ việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ. Các doanh nghiệp thuộc diện ưu đãi theo quy định tại Nghị định này không phải nộp thuế thu nhập bổ sung từ các hoạt động KH&CN theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) có các dự án đầu tư vào hoạt động dịch vụ KH&CN; các dự án đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ được hưởng các ưu đãi như: được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng thêm của năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp 4 năm tiếp theo do đầu tư mới này mang lại. Nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh đóng tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng thêm của 3 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp 5 năm tiếp theo do đầu tư mới này mang lại. Cơ sở sản xuất, kinh doanh đóng tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng thêm của 4 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp 7 năm tiếp theo do đầu tư mới này mang lại. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có các dự án đầu tư vào hoạt động KH&CN được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 1 năm đầu, kể từ khi có thu nhập phải chịu thuế và giảm 50% số thuế thu nhập phải nộp trong 2 năm tiếp theo. Nhà đầu tư nước ngoài dùng thu nhập được chia để tái đầu tư được hoàn lại số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp theo quy định tại Điều 34 Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất đối với doanh nghiệp hoạt động theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) có đầu tư vào hoạt động KH&CN, nếu sử dụng đất được giao hoặc đất thuê để xây dựng cơ sở nghiên cứu KH&CN; phòng, trạm, trại, xưởng thí nghiệm, thực nghiệm thì đối với phần diện tích đất này doanh nghiệp được hưởng các ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và thuế sử dụng đất…
- Ngày 20/6/2000, Quốc hội ban hành Luật KH&CN. Nội dung của Luật qui định mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động KH&CN; trách nhiệm của Nhà nước và của các tổ chức, cá nhân đối với hoạt động KH&CN. Qui định tổ chức KH&CN, cá nhân hoạt động KH&CN với tư tưởng cơ bản là để đẩy mạnh hoạt động KH&CN và đảm bảo đúng hướng, có hiệu quả, làm rõ trách nhiệm, giới hạn hoạt động của các tổ chức này. Qui định, các tổ chức hoạt động KH&CN có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc tiến hành hoạt động KH&CN đã đăng ký; ký kết hợp đồng KH&CN; đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về KH&CN; đăng ký tham gia tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ KH&CN; Thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ KH&CN; Hợp tác, liên doanh, nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân; góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ để tiến hành hoạt động KH&CN và hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật; Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả hoạt KH&CN theo quy định của pháp luật; Công bố kết quả hoạt động KH&CN theo quy định của Luật báo chí, Luật xuất bản và các quy định khác của pháp luật; và các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Đối với các cá nhân, Luật KH&CN qui định: có thể tự mình hoặc hợp tác với tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động KH&CN; ký kết hợp đồng KH&CN; thành lập tổ chức KH&CN trong một số lĩnh vực theo quy định của Chính phủ; đăng ký tham gia tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ KH&CN; được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; bình đẳng, tự do sáng tạo trong hoạt động KH&CN; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả hoạt động KH&CN theo quy định của pháp luật; công bố kết quả hoạt động KH&CN theo quy định của Luật báo chí, Luật xuất bản và các quy định khác của pháp luật; tham gia tổ chức, hội KH&CN; tham gia hoạt động đào tạo, tư vấn, hội nghị KH&CN; góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ vào hoạt động KH&CN, sản xuất, kinh doanh; nhận tài trợ để hoạt động KH&CN theo quy định của pháp luật; đề xuất ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước với cơ quan có thẩm quyền; kế hoạch phát triển KH&CN của tổ chức KH&CN mà mình là thành viên và tham gia giám sát việc thực hiện.
Tổ chức, cá nhân đầu tư cho việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN là chủ sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện công trình KH&CN là tác giả của công trình đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác trong hợp đồng KH&CN.
Nhà nước ban hành chính sách, biện pháp khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tích cực ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhằm phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tổ chức, cá nhân ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để đổi mới quản lý kinh tế - xã hội, đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm được hưởng ưu đãi về thuế, tín dụng và các ưu đãi khác. Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân hoạt động KH&CN chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và đời sống. Chủ sở hữu, tác giả và người ứng dụng thành công kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được hưởng lợi ích do việc ứng dụng kết quả này vào sản xuất và đời sống theo hợp đồng KH&CN và theo quy định của pháp luật.
Các chính sách và biện pháp nhằm phát triển thị trường KH&CN được Nhà nước ban hành như: Khuyến khích mọi hoạt động chuyển nhượng, chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi; hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; áp dụng các chính sách ưu đãi đối với sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm bằng công nghệ mới; sản phẩm được làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam; hoạt động tư vấn KH&CN; thiết bị công nghệ cao nhập khẩu, xuất khẩu công nghệ; áp dụng chế độ thưởng cho tập thể lao động và cá nhân có sáng chế, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và ứng dụng công nghệ mới được chuyển giao; và các tổ chức KH&CN được thành lập tổ chức dịch vụ KH&CN, doanh nghiệp trực thuộc; được hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân để tiến hành hoạt động chuyển giao công nghệ.
Theo nhận thức ghi trong Luật KH&CN, thì đầu tư cho KH&CN là đầu tư phát triển. Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách KH&CN, bảo đảm tỷ lệ ngân sách nhà nước chi cho KH&CN so với tổng số chi ngân sách nhà nước tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH. Cơ quan tài chính của Nhà nước có trách nhiệm cấp phát kinh phí KH&CN đầy đủ, kịp thời, phù hợp với tiến độ kế hoạch KH&CN. Cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN có trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả phần ngân sách nhà nước đầu tư cho KH&CN.
Ngân sách nhà nước đầu tư cho KH&CN được sử dụng vào các mục đích: thực hiện các nhiệm vụ KH&CN ưu tiên, trọng điểm, nhiệm vụ KH&CN phục vụ lợi ích chung của xã hội; thực hiện nghiên cứu cơ bản có định hướng trong các lĩnh vực khoa học; duy trì và phát triển tiềm lực KH&CN; cấp vốn đầu tư cho các quỹ phát triển KH&CN của Nhà nước theo quy định; xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các tổ chức nghiên cứu và phát triển của Nhà nước; trợ giúp doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm. Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư cho KH&CN.
Doanh nghiệp được dành một phần vốn để đầu tư phát triển KH&CN nhằm đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Vốn đầu tư phát triển KH&CN của doanh nghiệp được tính vào giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp được lập Quỹ phát triển KH&CN để chủ động đầu tư phát triển KH&CN. Doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu những vấn đề KH&CN thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước được xét tài trợ một phần kinh phí nghiên cứu.
Luật cho phép thành lập và phát triển "Quỹ phát triển KH&CN" các cấp: quốc gia, bộ, cấp tỉnh thành phố và của các tổ chức, cá nhân nhằm thu hút, tạo vốn và tạo cơ chế phân bổ nguồn vốn cho đầu tư phát triển KH&CN:
+ Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia được ban hành theo Nghị định số 122/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003. Hoạt động của Quỹ là không vì mục đích lợi nhuận, có chức năng tài trợ, cho vay để thực hiện nhiệm vụ KH&CN do tổ chức, cá nhân đề xuất. Quỹ trực thuộc Bộ KH&CN, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và tại các ngân hàng trong và ngoài nước. Có trụ sở chính tại Hà Nội, Văn phòng đại diện ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác.
Ðối tượng tài trợ, cho vay của Quỹ là các nghiên cứu cơ bản, các nhiệm vụ KH&CN đột xuất mới phát sinh có ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn, các nhiệm vụ KH&CN có triển vọng nhưng có tính rủi ro; các dự án sản xuất thử nghiệm; nhiệm vụ KH&CN thuộc hướng ưu tiên của Nhà nước do doanh nghiệp thực hiện; các dự án ứng dụng, chuyển giao kết quả nghiên cứu KH&CN nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả các hoạt động kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc tài trợ, cho vay của Quỹ là nhiệm vụ KH&CN do tổ chức, cá nhân đề xuất xin tài trợ, vay vốn của Quỹ, được xét chọn công khai, dân chủ, bình đẳng thông qua Hội đồng KH&CN do Quỹ thành lập. Nội dung nghiên cứu của nhiệm vụ KH&CN do Quỹ tài trợ không được trùng lắp với các nghiên cứu đã hoặc đang thực hiện bằng nguồn vốn của Quỹ hoặc nguồn vốn khác của Nhà nước. Quỹ tài trợ, cho vay để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN không thuộc các chương trình, đề tài, dự án trong kế hoạch của Nhà nước, có ý nghĩa tầm quốc gia, liên ngành, vùng và do tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đề xuất.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Quỹ là tiếp nhận các nguồn vốn của Nhà nước; huy động các khoản đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài để tài trợ, cho vay thực hiện các nhiệm vụ KH&CN; quản lý và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn vốn của Quỹ. Công bố các định hướng ưu tiên, nội dung, yêu cầu và thể thức cụ thể để mọi tổ chức, cá nhân đề xuất nhiệm vụ KH&CN thích hợp đề nghị Quỹ tài trợ, cho vay. Tổ chức việc xét chọn nhiệm vụ KH&CN để Quỹ tài trợ, cho vay. Kiểm tra, đánh giá về nội dung chuyên môn và tài chính của các nhiệm vụ KH&CN được Quỹ tài trợ, cho vay. Tổ chức đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN do Quỹ tài trợ, cho vay. Đình chỉ việc tài trợ, cho vay hoặc thu hồi kinh phí đã tài trợ, cho vay khi phát hiện tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ vi phạm các quy định về sử dụng vốn của Quỹ. Hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế về các vấn đề liên quan đến hoạt động của Quỹ…
Nguồn vốn hoạt động của Quỹ bao gồm: Vốn được cấp năm đầu khi thành lập là 200 tỷ đồng từ ngân sách sự nghiệp khoa học. Hàng năm, Quỹ được cấp bổ sung để bảo đảm vốn hoạt động từ nguồn ngân sách ít nhất bằng 200 tỷ ðồng. Được huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách (các khoản đóng góp tự nguyện, hiến tặng của tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài; các khoản lãi cho vay đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN và các nguồn khác.
Phương thức hỗ trợ tài chính của Quỹ là tài trợ không hoàn lại toàn phần hoặc một phần cho việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN do các tổ chức, cá nhân đề xuất. Tài trợ có thu hồi từ 60% đến 100% vốn cho các dự án sản xuất thử nghiệm, không nằm trong kế hoạch phát triển KH&CN của Nhà nước. Tài trợ không thu hồi không quá 30% kinh phí cho doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ KH&CN thuộc hướng khoa học và công nghệ ưu tiên của Nhà nước. Cho vay không lấy lãi đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát triển được tạo ra trong nước. Cho vay với mức lãi suất thấp đối với các dự án đổi mới công nghệ, chú trọng đến công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh cao…
+ Quỹ phát triển KH&CN của bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Mục đích của quỹ này nhằm phục vụ cho các yêu cầu về vốn đầu tư phát triển KH&CN thuộc ngành và cấp của mình. Nguồn vốn của quỹ này được hình thành từ: vốn được cấp một lần ban đầu từ ngân sách nhà nước dành cho phát triển KH&CN của bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; vốn bổ sung hằng năm từ kết quả hoạt động KH&CN; các khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của tổ chức, cá nhân; và các nguồn khác.
+ Quỹ phát triển KH&CN của tổ chức, cá nhân được Nhà nước khuyến khích tổ chức và thành lập theo quy định của pháp luật. Quỹ này hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận để tài trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay với lãi suất thấp hoặc không lấy lãi nhằm hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân hoạt động KH&CN. Nguồn xủa Quỹ này được hình thành từ: vốn đóng góp của các tổ chức, cá nhân sáng lập không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; các khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của tổ chức, cá nhân; và các nguồn vốn khác trong xã hội.
+ Quỹ Hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) được thành lập từ tháng 11/1992, giờ đây được củng cố và mở rộng quy mô hoạt động không chỉ thực hiện việc hỗ trợ cho các công trính sáng tạo, mà còn để thu hút vốn làm tăng thêm nguồn lực cho Quỹ hoạt động được tốt hơn.
Luật quy định Nhà nước ban hành các chính sách ưu đãi và hỗ trợ nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào KH&CN; bao gồm:
Ưu đãi về thuế, tín dụng, ưu đãi xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật để phát triển KH&CN.
Ví dụ, ưu đãi về thuế: Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng đối với máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong nước chưa sản xuất được; công nghệ trong nước chưa tạo ra được; tài liệu, sách báo nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật đối với các sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm; sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam; các hoạt động tư vấn KH&CN; chuyển giao công nghệ, thiết bị công nghệ cao nhập khẩu; xuất khẩu công nghệ. Ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp thực hiện đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ. Ưu đãi về tín dụng như: hạ lãi suất và mở rộng điều kiện vay vốn đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung hạn, dài hạn để tiến hành hoạt động KH&CN. Ưu tiên xét cho sử dụng vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đối với những chương trình, đề tài, dự án KH&CN có yêu cầu sử dụng vốn lớn. Ưu đãi xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật để phát triển KH&CN như: Chính phủ có kế hoạch huy động các nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của các tổ chức KH&CN quan trọng; khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; đầu tư xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế trong các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, trọng điểm; ban hành Quy chế sử dụng phòng thí nghiệm trọng điểm để thu hút các nhà khoa học đến làm việc.
Hỗ trợ thông tin KH&CN như: Chính phủ đầu tư xây dựng hệ thống thông tin KH&CN quốc gia hiện đại, bảo đảm thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về các thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực KH&CN ở trong nước và trên thế giới; ban hành Quy chế quản lý thông tin KH&CN; hằng năm công bố danh mục và kết quả thực hiện các nhiệm vụ KH&CN trong nước.
Hỗ trợ và khuyến khích hợp tác KH&CN với nước ngoài. Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2000/NĐ-CP, ngày 6/3/2000 về khuyến khích các nhà khoa học và các tổ chức KH&CN mở rộng giao lưu, hợp tác nghiên cứu và hợp tác đầu tư với cộng đồng các nhà KH&CN nước ngoài. Các tổ chức KH&CN của Việt Nam được phép hợp tác, liên doanh với nước ngoài thành lập cơ sở liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài.
Cho phép các tổ chức KH&CN trong nước được mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về KH&CN. Các tổ chức, cá nhân Việt Nam được tạo điều kiện để hợp tác về KH&CN với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, các tổ chức quốc tế. Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi.
Ban hành và thực thi chính sách thu hút trí thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các chuyên gia giỏi của thế giới tham gia phát triển KH&CN Việt Nam.
Khuyến khích hợp tác quốc tế về KH&CN. Cho phép các tổ chức, cá nhân hoạt động KH&CN của Việt Nam được nhận tài trợ, tham gia tổ chức KH&CN, hội KH&CN, tham gia hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, hội nghị KH&CN của tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- bia ngoai.doc