Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU. 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG NÚI, DÂN TỘC THIỂU SỐ. . 9
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách và thực thi chính sách. . 9
1.1.1. Khái niệm chính sách . 9
1.1.2. Khái niệm về thực thi chính sách .12
1.2. Chính sách phát triển kinh tế-xã hội vùng núi, vùng dân tộc thiểu số. 16
1.2.1. Chính sách kinh tế là gì? . 16
1.2.2. Chính sách xã hội là gì? . 16
1.2.3. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, dân tộc thiểu số . 17
1.2.4. Đặc điểm của chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, dân tộc
thiểu số. . 18
1.2.5. Vai trò của chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, dân tộc thiểu số .19
1.3. Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, dân tộc thiểu số. .20
1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội
vùng núi, dân tộc thiểu số. .21
1.3.2. Phổ biến, tuyên truyền, thực hiện về chính sách phát triển kinh tế - xã hội
vùng núi, dân tộc thiểu số. .21
1.3.3. Phân công phối hợp thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng núi,
dân tộc thiểu số. .22
102 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/02/2022 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - Xã hội vùng núi, dân tộc thiểu số tại huyện An Lão, tỉnh Bình Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững trường hợp khi thực hiện chính sách bị
vướng mắc mà người dân cố tình cản trở, chây lì không chịu thực hiện, chúng
ta phải thực hiện phương pháp hànhchính để thi hành nhiệm vụ, trên cơ sở vì
mục tiêu chung của chính sách và sự phát triển của đại đa số người dân.
1.6.4. Phương pháp kết hợp
Phương pháp kết hợp, nghĩa là chúng ta sẽ tổ chức triển khai thực hiện
chính sách bao gồm 03 phương pháp trên. Khi thực hiện chính sách chúng ta
phải khéo léo lồng ghép 03 phương pháp trên để nhằm đạt được mục tiêu,
hiệu quả của chính sách.
35
Tiểu kết Chương 1
Qua nội dung chương 1, cho chúng ta thấy được toàn diện và cơ bản
nhất những vấn đề lý luận chung về thực hiện chính sách phát triển kinh tế -
xã hội vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn huyện An
Lão nói riêng. Qua đó thấy được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với
công tác dân tộc, những hoạt động thực tế trong thực hiện chính sách phát
triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số trong thời gian qua. Giúp chúng ta
có cái nhìn sơ bộ về vấn đề thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội
trong giai đoạn hiện nay.
36
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VÙNG NÚI, DÂN TỘC THIỂU SỐ
TẠI HUYỆN AN LÃO, BÌNH ĐỊNH.
2.1. Tổng quan về huyện An Lão, tỉnh Bình Định
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
An Lão là một huyện vùng cao của tỉnh Bình Định, được bao bọc xung
quanh chủ yếu là những dãy núi, có tổng diện tích tự nhiên 69.201 ha, cách
thành phố Quy Nhơn 120 km. Phía Bắc giáp 2 huyện Ba Tơ và Đức Phổ, tỉnh
Quãng Ngãi; phía Nam giáp huyện Hoài Ân và Vĩnh Thạnh; phía Đông giáp
huyện Hoài Nhơn; phía Tây một phần giáp huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình
Định và Huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.
Huyện An Lão có địa hình tương đối phức tạp, chia cắt mạnh, chủ
yếu là đồi núi, độ chênh lệch cao lớn, thấp dần từ Tây sang Đông và từ
Bắc vào Nam.
Đơn vị hành chính trực thuộc gồm 09 xã, đều lấy chữ An làm đầu
(An Hòa, An Tân, An Quang, An Nghĩa, An Toàn, An Trung, An Dũng,
An Vinh, An Hưng), 1 thị trấn (An Lão huyện lỵ), với 57 thôn.
An Lão là huyện có tiềm năng kinh tế nông, lâm nghiệp khá phong
phú, đã và đang được khai thác để phát triển. Tuy nhiên, tiềm lực kinh tế
của huyện còn nhiều hạn chế, đời sống của nhân dân còn thấp.
Núi rừng: Chiếm hầu hết diện tích tự nhiên của toàn huyện. Rừng
núi An Lão có các loại gỗ quý như lim, sơn, chò, nhiều loại thú như hổ,
nai, trăn, nhiều mật ong, song mây.
Sông suối: An Lão có mạng lưới sông suối chằng chịt, lớn nhất là
các sông: sông Đinh, sông Vố, sông Đào, chảy về phía hạ lưu là đầu
37
nguồn của sông Lại Giang lớn nhất nhì trong tỉnh Bình Định. Sông suối ở
An Lão có nhiều loại cá, ốc, đặc biệt có đặc sản cá niêng nổi tiếng. Các
sông suối là nguồn nước quan trọng và còn chứa tiềm năng về thuỷ lợi,
thuỷ điện nhằm phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Các sông ở đây đều có
lòng sông đào sâu, khuất khúc, lòng sông dốc, nước chảy xiết, nên thường
gây lũ lớn về mùa mưa và dễ khô kiệt về mùa nắng.
Đồng bằng: Nằm dọc theo thung lũng các sông, đất đai khá màu mỡ,
như đồng bằng dọc sông Đinh chảy qua các xã An Tân, An Hòa. Đồng
bằng thường có các cánh đồng lúa, hoặc trồng các loại hoa màu.
Khoáng sản: Rải rác trong huyện An Lão có đá chẻ và hiện nay Nhà
nước đang có dự án khai thác các mỏ đá này. Cung cấp nguyên vật liệu
trực tiếp cho các công trình đang xây dựng tại huyện.
Nhìn chung, đất đai ở An Lão khá tốt. Các vùng thung lũng nhiều
nơi tương đối thoáng rộng, được cư dân trong vùng khai phá thành đất
canh tác từ lâu đời. Quá trình khai thác, phát triển đất đai ở huyện An Lão
nói chung đã diễn ra nhiều đời, trong khắp huyện.
Khí hậu: Tương tự như khí hậu các huyện miền núi trong tỉnh Bình
Định. Mùa mưa hay đến sớm hơn các huyện đồng bằng và lượng mưa khá
lớn. Khí hậu lúc bình thường ở An Lão khá dễ chịu. Tuy nhiên, huyện An
Lão được hợp thành từ 2 con sông lớn là sông Đinh và sông Vố nên khi
mùa mưa đến lượng nước hợp lại từ 2 con sông này gây lụt cho các hộ
dân ở hạ lưu.
2.1.2. Dân cư, dân tộc
An Lão là một trong 61 huyện nghèo trong cả nước. Địa giới hành
chính được chia làm 9 xã và 1 thị trấn An Lão. Trong đó, 7 xã thuộc xã
đặc biệt khó khăn. Toàn huyện có 57 thôn với tổng dân số hiện có 7.181
hộ, 28.229 khẩu, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số có 2.709 hộ, 10.194
38
nhân khẩu, chiếm 36,11% gồm người Bana, H’re. Tỉ lệ hộ nghèo chung
toàn huyện là 57,42%.
Đồng bào dân tộc Hrê và Bana ở An Lão chủ yếu làm ruộng nước,
nương rẫy, còn lưu giữ được những di sản văn hóa dân tộc quý báu như
cồng chiêng. Dân tộc Kinh cư trú chủ yếu ở huyện lỵ và các xã phía đông
huyện, có đặc điểm chung của người Kinh và có sự giao lưu, giao thoa
văn hóa với các dân tộc anh em trong huyện.
Người H’rê và Bana biết làm lúa nước từ khá sớm, ở vùng cao trước
đây đồng bào sinh sống chủ yếu bằng nghề phát nương, làm rẫy, săn bắn
thú rừng, tính cách thật thà chất phát. Đồng bào có phong tục “ gác chòi
để chứa thóc gạo, để của ở ven khe, không lấy trộm của nhau. Người đồng
bào ở đây sống rất đoàn kết với nhau.
2.1.3. Tình hình kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến việc thực hiện
chính sách.
Về kinh tế: giá trị sản xuất tăng bình quân 14,06 năm; cơ cấu
chuyển dịch đúng hướng; một số mô hình trang trại, vườn rừng được hình
thành và đem lại hiệu quả. Lĩnh lực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ có bước phát triển. Hàng năm giải quyết các công ăn việc làm cho
người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện.
Về xã hội: huyện đã tập trung đầu tư vào giáo dục, y tế, chăm sóc
trẻ em, người có công, hỗ trợ người đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể: đã
tập trung xây dựng điện, đường, trường trạm, trong những năm qua huyện
đã xây dựng mới 3/5 trạm y tế xã, đến nay đã có 4/5 trạm y tế đạt chuẩn,
80 % trạm y tế xã có bác sỹ; xây dựng mới các trường học mầm non, tiểu
học trung học cơ sở, đội ngũ giáo viên được chuẩn hóa, hoàn thành phổ
cập giáo dục mần non 5 tuổi, nhờ vậy các em học sinh người dân tộc
39
thiểu số được đến trường đến lớp, được chăm sóc y tế, có điện đường để
sinh hoạt và phát triển kinh tế gia đình.
2.1.4. Nhận xét thuận lợi và khó khăn
Huyện An Lão thuận lợi phát triển cây lâm nghiệp, cây công nghiệp
dài hạn, cây lương thực, nhất là cây lúa nước và cây công nghiệp ngắn
ngày. Nhưng do lượng mưa phân bố không đều trong năm. Vì vậy, vấn đề
thuỷ lợi có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là cho sản xuất
nông nghiệp và sinh hoạt của cư dân.
Với vị trí địa lý nêu trên, điều kiện giao thông hiện tại huyện An
Lão gặp nhiều khó khăn cho giao lưu, phát triển kinh tế - xã hội với khu
bên ngoài, xa tỉnh lỵ, xa các trung tâm kinh tế. Do đó, gặp nhiều khó
khăn, thách thức trong phát triển. Nếu được quan tâm đầu tư thoả đáng về
kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông thì huyện mới có thể bứt phá, phát huy
thế mạnh để hội nhập và phát triển.
Ngoài ra, do ở An Lão thành phần người dân tộc thiểu số chiếm khá
đông trong tổng dân cư, với lối sống cũ xưa, còn nhiều tập tục lạc hậu, cổ
hủ, khó tiếp cận với cơ chế phát triển mà Đảng và Nhà nước đưa ra, tình
trạng nghèo đói vẫn còn kéo dài, cần phải thực hiện các chính sách phát
triển, nâng cao đời sống kinh tế - xã hội cho đồng bào nơi đây.
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội
vùng núi, dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
2.2.1. Quy trình thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện An Lão.
Để thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, dân tộc
thiểu số trên địa bàn huyện An Lão cần thực hiện các bước như sau:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển
kinh tế-xã hội vùng núi, dân tộc thiểu số tại huyện miền núi An Lão.
40
Sau khi có Quyết định của Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của
UBND tỉnh, UBND huyện tiến hành thực hiện bước 1, đây là nội dung công
việc đầu tiên của việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở cấp
huyện, trực tiếp thực hiện nội dung này là phòng Tài chính – Kế hoạch huyện.
Đối với nội dung này hàng năm UBND huyện An Lão luôn thực hiện
tốt và kịp thời theo yêu cầu của UBND tỉnh Bình Định. Một số nội dung kế
hoạch có thể có chất lượng chưa tốt, chưa đảm bảo vì lý do thời gian yêu cầu
báo cáo xây dựng kế hoạch gấp, không có thời gian điều tra khảo sát, rà soát,
kiểm chứng để xây dựng kế hoạch. Nhưng cơ bản các nội dụng kế hoạch đều
thực hiện tốt, đảm bảo có chất lượng đạt 80-90 %.
Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền về chính sách phát triển kinh tế - xã
hội vùng núi, dân tộc thiểu số.
Trên cơ sở nhiệm vụ được phân công, UBND huyện giao cho phòng
Tài chính - Kế hoạch phối hợp với phòng Dân tộc với các đơn vị có liên quan
trên từng chính sách để thực hiện tổ chức phổ biến, tuyên truyền, thực hiện về
chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể một số chính sách:
Thực hiện chính sách theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg ngày
07/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người
dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn, thì tổ chức phối hợp với UBND các xã
tổ chức phổ biến, tuyên truyền và thực hiện trực tiếp đến tận tay người dân
hưởng lợi.
Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện chính phát triển kinh tế - xã hội
vùng núi, dân tộc thiểu số.
Phòng Tài chính – Kế hoạch là cơ quan trực tiếp tham mưu UBND
huyện về tổ chức phân công phối hợp thực hiện chính sách phát triển kinh tế
- xã hội vùng núi, dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua phòng Tài chính –
Kế hoạch đã tham mưu UBND huyện phê duyệt ban hành các văn bản, các
41
quy chế phối hợp giữa các phòng ban, đơn vị địa phương trên địa bàn
huyện về thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, dân tộc
thiểu số.
Nhờ vậy trong những năm qua, việc thực hiện luôn được thực hiện
nghiêm túc và duy trì ổn định, các nội dung công việc được thực hiện nhanh
chóng và kịp thời, các cơ quan phối hợp luôn thực hiện có trách nhiệm trong
việc giải quyết công việc. Gắn với đó hàng năm tổ chức họp đánh giá, biểu
dương, phê bình và khen thưởng các đơn vị phối hợp thực hiện chính sách ,
nhờ đó công tác thực hiện chính sách luôn đảm bảo và khắc phục khuyết điểm
kịp thời.
Nhìn chung trong thời gian qua, tình hình thực hiện công tác phối hợp
là rất tốt. Tuy nhiên vẫn còn có những mặt hạn chế của nó, cụ thể như sau:
- Khi ban hành văn bản thì có đầy đủ các cơ quan đơn vị, phòng ban
liên quan để cùng nhau thực hiện chính sách, nhưng khi thực hiện chính sách
thì chỉ có một vài đơn vị tham gia, có những đơn vị cả năm không tham gia
một lần. Đây là vấn đề rất khó khăn chung đối với các đơn vị ở địa phương.
Thường thì đơn vị nào chủ trì sẽ lo thực hiện toàn bộ các nhiệm vụ thực hiện
chính sách, còn những đơn vị có liên quan thì chủ yếu tham gia trong hội họp,
đánh giá nhận xét, còn ngoài ra thì để cơ quan chủ trì tổ chức thực hiện.
- Các đơn vị phối hợp không tham gia hoặc ít tham gia trong các văn
bản góp ý thực hiện chính sách, ít nhiệt tình trong việc trao đổi và cung cấp
thông tin, thường phải tham mưu cho UBND huyện phải sử dụng văn bản để
yêu cầu các đơn vị báo cáo tổng hợp, mất thời gian.
- Các cơ quan đơn vị chưa phối hợp tốt trong công tác cải cách các thủ
tục hành chính, chưa đưa ra một phương pháp giải quyết chung nhằm giải
quyết các nội dung thực hiện chính sách, lấy một ví dụ cụ thể: đối với hợp
phần phát triển sản xuất, sau khi có Quyết định phân khai vốn của UBND tỉnh
42
về, UBND huyện tổ chức phân khai kinh phí cho các xã, sau đó các xã xây
dựng phương án trình UBND huyện thẩm định, UBND huyện thẩm định xong
UBND các xã mới có thể thực hiện. Đó là đúng quy trình, nhưng quy trình
trên nó thường không được thực hiện suôn sẽ như trên, nó rất mất thời gian để
các cơ quan thực hiện qua các bước đó, thường thì mất khoảng 2 - 4 tháng để
xử lý hoàn thành các thủ tục cho UBND xã thực hiện, đến thời điểm thực hiện
thì không đúng mùa vụ, thời tiết không thuận lợi khó thực hiện. Chính vì vậy
cần phải có một giải pháp chung do các đơn vị liên quan phối hợp đặt ra để
hoàn thành các thủ tục hành chính nhanh hơn, giúp bà con thực hiện đúng
mùa vụ, đảm bảo phát huy tốt các loại giống cây trồng con vật nuôi mà vẫn
đảm bảo về thủ tục hành chính.
Bước 4: Duy trì chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, dân tộc
thiểu số.
UBND huyện giao cho phòng Tài chính – Kế hoạch là cơ quan chủ trì,
tham mưu UBND huyện duy trì việc thực hiện các chính sách phát triển kinh
tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Hàng năm phòng Tài chính – Kế hoạch
huyện An Lão tham mưu UBND huyện ban hành các văn bản chỉ đạo các xã,
các đơn vị liên quan thực hiện các chính sách cụ thể mà UBND tỉnh chỉ đạo.
Tham mưu cho UBND huyện xây dựng kế hoạch, phương án, dự án, kiểm tra,
đôn đốc nhắc nhở, báo cáo việc các đơn vị thực hiện chính sách đó, từ đó đưa
ra phương hướng giải pháp giúp cho các chính sách đồng bào DTTS được duy
trì thường xuyên và đi vào thực tế đời sống của bà con.
Bước 5: Điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình duy trì hoạt động chính sách phát triển kinh tế - xã hội
dân tộc, sẽ có những nảy sinh, những nội dung không phù hợp cần điều chỉnh,
UBND huyện đã chỉ đạo Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện thường xuyên
theo dõi, tham mưu cho UBND huyện để đề xuất cấp trên điều chỉnh các
43
chính sách cho phù hợp, ví dụ trong thời gian vừa qua đã tham mưu điều
chỉnh Quyết định 102/2009/QĐ-TTg ngày 07/8/2009 về chính sách hỗ trợ
trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn, Quyết định số
33/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 về chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định
canh, định cư cho đồng bào DTTS, đến nay một số chính sách đã được Chính
phủ quan tâm điều chỉnh, bổ sung, hoặc sửa đổi.
Bước 6: Kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách.
Các khâu kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm là những nội dung rất quan
trọng, quyết định sự thành công, hay thất bại của việc thực hiện chính sách.
Một chính sách khi được ban hành và thực hiện, muốn nó đi vào cuộc sống
phải tiến hành kiểm tra, giám sát để đánh giá, phân tích và biết được tính ưu
việc của nó, giúp cho chúng ta nhận định, phân tích chính sách công một cách
rõ ràng hơn, sát và đúng với thực tế hơn. Huyện An Lão, việc thực hiện chức
năng nhiệm vụ phát triển kinh – tế xã hội cho bà con vùng đồng bào DTTS
luôn được phân công phân nhiệm rõ ràng cho từng cấp và các cơ quan đơn vị
có liên quan. Vì vậy tùy theo nội dung cụ thể mà phòng Tài chính – Kế hoạch
sẽ tham mưu cho UBND huyện hoặc cùng các đơn vị liên quan tiến hành thực
hiện xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm.
Trong những năm qua, việc kiểm tra giám sát luôn được thực hiện một
cách thường xuyên, đặc biệt và luôn được quan tâm trong thực hiện kiểm tra
giám sát, đó là chính sách 30a, chương trình 135, dự án tái định canh định cư,
dự án hỗ trợ trực tiếp theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg ngày 07/8/2009 của
Thủ tướng Chính phủ, trong những đợt kiểm tra này, qua quá trình kiểm tra
cũng đã kịp thời chấn chỉnh những nội dung sai phạm của các đơn vị thi công,
xử lý các trường hợp thực hiện thi công không đảm bảo chất lượng công trình,
dự án nào không đạt phải hoàn trả lại kinh phí cho huyện, kiểm điểm một số
cá nhân trong việc thiếu trách nhiệm dẫn đến sai phạm. Song bên cạnh những
44
kết quả đạt được thì vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém trong việc kiểm tra
giám sát, xử lý vi phạm khi thực hiện chính sách này, đó là:
- Chưa thực sự chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra, chỉ khi có kế
hoạch của tỉnh, UBND huyện thì cơ quan thực hiện chính sách phát triển kinh
tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số mới tiến hành phối hợp kiểm tra.
- Việc kiểm tra, đánh giá hiệu quả không mang tính kịp thời, bất ngờ.
Khi cơ quan chức năng xây dựng kế hoạch và thông báo xuống kiểm tra thì
nội dung thực hiện chính sách luôn được thực hiện tốt, suôn sẽ, đúng quy
định. Vẫn có những lần kiểm tra, giám sát thực hiện gặp trường hợp sai trái,
nhưng cơ bản vẫn là nhắc nhở, đề nghị sửa chữa rồi cho qua.
- Việc kiểm tra chỉ mới nhìn bên ngoài để đánh giá để nhận định, chưa
thật sự đi sâu vào chất lượng công trình, chất lượng cây con giống và tính
hiệu quả của đầu ra sản phẩm, nên kết quả kiểm tra chưa phản ánh đúng với
thực tế.
- Trong đoàn kiểm tra, thường có rất ít người có chuyên môn về lĩnh
vực mà mình đi kiểm tra.
Bước 7: Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách
phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, dân tộc thiểu số.
Trong những năm qua, việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc
thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện thường xuyên
trên địa bàn huyện An Lão, cụ thể: Tổng kết chương trình 135, Tổng kết công
tác dân tộc quý, năm và giai đoạn. Thông qua việc tổng kết, đánh giá, rút kinh
nghiệm đã kịp thời chấn chỉnh những khuyết điểm trong quá trình thực hiện,
đồng thời đề xuất những thay đổi trong thực hiện chính sách và nội dung
chính sách, giúp chính sách ngày càng hiệu quả hơn.
Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, đó là: Một số đợt tổng kết chỉ thực
hiện theo kịch bản cho kịp thời gian, chưa dành nhiều thời gian để cán bộ thực
45
hiện chính sách và những đơn vị có liên quan tham gia ý kiến chuyên sâu vào
quá trình thực hiện chính sách cũng như nội dung chính sách dân tộc; một số
cán bộ phát hiện sai phạm không giám phát biểu trong cuộc họp nhưng có
những ý kiến bên ngoài phía sau mỗi đợt tổng kết; chưa thật sự có nhiều ý
kiến đóng góp trong quá trình thực hiện chính sách, cũng như nội dung chính
sách của Chính phủ để có hướng điều chỉnh, bổ sung khi thấy không phù hợp.
2.2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của cán
bộ làm công tác thực hiện chính sách dân tộc ở cấp huyện, cấp xã.
Năng lực quản lý lãnh đạo, điều hành, quản lý là những nội dung
luôn được đề cập quan tâm nhiều nhất, bởi một lãnh đạo của một địa
phương khi thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội hay bất kỳ
chính sách khác, nếu không có năng lực lãnh đạo, không có năng lực quản
lý và điều hành tốt thì sẽ làm giảm đi tính hiệu quả của việc thực hiện
chính sách, thậm chí còn thực hiện không đúng các chính sách của Nhà
nước. Nói về năng lực nó thể hiện thông qua việc họp hành, điều hành,
quyết định, quản lý nhân viên, một cán bộ có năng lức tốt sẽ biết xử lý
như thế nào cho đúng, hợp lý và hợp tình, không để việc sai trái xảy ra mà
không biết. Có thể nói hiện nay, vấn đề năng lực cán bộ luôn được đề cập
và nhắc tới, nó vừa là mặt để đánh giá cán bộ vừa là cơ sở để khi xảy ra
vụ việc cán bộ có thể đỗ lỗi do trình độ năng lực yếu kém.
Đối với huyện An Lão, là một huyện miền núi, thuộc 61 huyện
nghèo nhất cả nước, cán bộ cấp xã đa số là người dân tộc thiểu số, trình
độ mặt bằng chung của cán bộ huyện và xã, theo nhận định cá nhân có thể
nói ở mức trung bình khá (tức là có thể nhận định và xử lý các chính sách
theo yêu cầu nhưng chưa có thể tận dụng chính sách để phối hợp phát
triển kinh tế - xã hội một cách triệt để). Một chính sách của Chính phủ
ban hành thường đòi hỏi tính hiệu quả và tác động lan toả nhằm gắn kết
46
đẩy mạnh phát triển của cả vùng, địa phương. Nếu một cán bộ có năng lực
lãnh đạo, biết quản lý và điều hành tốt thì sẽ tận dụng những chính sách
này, biến nó thành lợi thế nhằm phát triển địa phương. Về vấn đề này,
thời gian qua, cán bộ lãnh đạo huyện chưa làm tốt, cụ thể: Hàng năm
huyện An Lão có các chính sách 30a, Chương trình 135, các nguồn vốn
vay, vốn hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoàinước, từ nguồn thu ngân
sách, tất cả những nguồn vốn đó thường được tập trung đầu tư vào các cơ
sở hạ tầng như điện, đường, trường trạm, thủy lợi và phát triển nông , lâm
nghiệp. Đây là những công việc cần thiết không thể thiếu, nhưng thiết
nghĩ vẫn chưa đủ, nếu lãnh đạo có năng lực tốt, có khả năng quản lý điều
hành sẽ biết kết hợp từ các nguồn lực sẵn có từ các chính sách của Chính
phủ ban hành, tạo cơ chế mở, thông tin kịp thời để thu hút doanh nghiệp
vào phối hợp với huyện, với các chính sách nhằm tạo ra con đường lưu
thông hàng hóa, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Hiện nay, các
chính sách, đặc biệt chính sách hỗ trợ về nông nghiệp, các hợp đồng mua
cây cây con giốngchưa có đầu ra, chưađược tính toán một cách lôgic khoa
học kết nối được các cơ sở kinh doanh với nguời mua để tạo đầu ra ổn
định cho các hộ kinh doanh.
Đến nay, người dân huyện An Lão phát triển đến ngày hôm nay đó
là nhờ công rất lớn đối với các lãnh đạo qua các thời kỳ đã tập trung đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, tập trung chỉ đạo sản xuất để người
dân có điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng phải
nhìn nhận một thực tế rằng chính nhờ các nhà máy keo, nhà máy mỳ của
các địa phương khác mà cây keo, cây mỳ được người dân trồng lên, đã
góp phần không nhỏ giúp người dân huyện An Lão thay da đổi thịt, người
dân đã từng bước ổn định đời sống, có nhà cửa, ti vi, xe máy, cuộc sống
đầy đủ sung túc hơn so với trước đây.
47
2.2.3. Thực trạng công tác ngăn ngừa, đấu tranh chống tham ô,
tham nhũng
Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành không chỉ thể hiện qua việc
lãnh đạo cầm tờ giấy đọc những gì của người tham mưu viết, không chỉ
thể hiện tác phong đi lại phát biểu, không chỉ dừng lại ở những lời hứa mơ
hồ mà nó thể hiện ở cái chúng ta làm được gì? Làm ra cái gì? Và làm như
thế nào? Đó mới là năng lực lãnh đạo thực sự của những người biết lãnh
đạo, điều hành, quản lý.
Đây là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp nhất trên địa bàn huyện.
Hàng năm Đảng ủy - UBND huyện và các đơn vị có liên quan đều ra sức
thực hiện nội dung này bằng các khẩu hiệu tuyên truyền, bằng các văn bản
cụ thể như Nghị quyết, chỉ thị, đăng ký thi đua. Nhìn chung trên địa bàn
chưa có trường hợp nào phải đưa ra và xử lý trước công chúng, cơ quan
đơn vị.
Huyện An Lão là một huyện miền núi nghèo, thuộc 61 huyện nghèo
cả nước, có diện tích nhỏ hẹp. Hàng năm, huyện được Nhà nước phân bổ
kinh phí về để thực hiện rất nhiều các chương trình dự án, như: chương
trình 135, chương trình 30a, Quyết định 102/2009/QĐ-TTg, vốn ngân
sách, vốn nước ngoài, nên các hợp đồng luôn được thực hiện trong năm
với các nội dung và dự án khác nhau. Việc có hay không chuyện tham ô,
tham nhũng trong các dự án, chương trình này không khó trả lời, ai cũng
biết, ai cũng hiểu, nhưng có một thực tế có thể khẳng định rằng, huyện An
Lão chưa có vụ việc tham ô, tham nhũng nào bị đưa ra trước công luận.
Đến nay có thể gọi cán bộ huyện An Lão trong sạch.
48
2.2.4. Thực trạng triển khai thực hiện các chính sách phát triển kinh tế
- xã hội vùng núi, dân tộc thiểu số ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước với sự phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, dân tộc thiểu số huyện An
Lão. Ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, dự án và tổ chức
triển khai thực hiện trên các lĩnh vực, đã góp phần phát triển hệ thống cơ sở
hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi, dân tộc thiểu số. Công tác
phối hợp, tổ chức triển khai thực hiện của các cấp, các ngành và nỗ lực
của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện nên tốc
độ phát triển kinh tế ổn định; sản xuất nông lâm nghiệp có bước phát
triển; quản lý điều hành của chính quyền các cấp có tiến bộ; khối đại đoàn
kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố, công tác quản lý đầu tư xây dựng
cơ bản được chú trọng chỉ đạo, nguồn vốn được đầu tư có trọng điểm nên
công trình đưa vào sử dụng phục vụ tốt. Để góp phần tạo nên sự thay đổi
bộ mặt của huyện nhà, Đảng và Nhà nước đã tập trung thực hiện các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số của
huyện,như:
2.2.4.1.Chương trình 135 của Chính phủ giai đoạn 2016 – 2020.
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
vùng dân tộc thiểu số và miền núi (hay đọc là: "chương trình một-ba-
năm"), là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do
Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Chương trình được biết đến
rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135 do Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg 31/7/1998. Theo kế hoạch ban
đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1
từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến
năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước quyết định kéo dài
49
chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I.
Tiếp theo là giai đoạn II (2006-2010). Hiện nay Thủ tướng Chính phủ vừa
phê duyệt danh sách 2.275 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn
khu của 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vào diện đầu tư của
Chương trình 135 năm giai đoạn 2016-2020.
Kết quả thực hiện: qua các năm UBND huyện đã chủ động thường
xuyên phân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thuc_hien_chinh_sach_phat_trien_kinh_te_xa_hoi_vung.pdf