Luận văn Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 7

1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 25

1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 27

1.4. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 31

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở TỈNH QUẢNG NINH 35

2.1. Khái quát đặc điểm và tình hình dịch HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh 35

2.2. Những kết quả đạt được và hạn chế của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh 37

Chương 3: CÁC QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở TỈNH QUẢNG NINH 67

3.1. Yêu cầu và quan điểm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh 67

3.2. Mục tiêu thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS tại tỉnh Quảng Ninh 84

3.3. Các giải pháp nhằm bổ trợ thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS tại Quảng Ninh 90

3.4. Một số khuyến nghị 116

KẾT LUẬN 119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121

 

 

 

 

doc127 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3380 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệc làm, tiếp cận với giáo dục và y tế công cộng. Các chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị xã hội tại những nơi có nhóm dân di biến động đến sinh sống và làm việc, chưa thực sự có sự chuyển biến trong việc tạo điều kiện giúp đỡ nhóm người này tham gia vào các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các đoàn thể quần chúng. Họ luôn phải sống trong tình cảnh “danh không chính, ngôn không thuận"; nguy cơ bị bỏ rơi, bị lãng quên trong một xã hội ngày càng văn minh là một hiện tượng đang tồn tại, làm cho rất nhiều người trong số họ bị bế tắc trước sự tấn công của nhiều loại tệ nạn xã hội, đe dọa con đường mưu sinh, tìm kiếm sự cải thiện cuộc sống của họ và gia đình. Một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cơ quan chuyên môn, chưa thực sự có đầu tư nguồn lực cần thiết cho các hoạt động tuyên truyền, giáo dục đối với nhóm dân di biến động ở nước ta hiện nay về sự đe doạ của các loại bệnh dịch nguy hiểm. Vì vậy, nhóm người này đã luôn gặp khó khăn trong việc tiếp cận với thông tin, giáo dục và truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS. Phần đông trong số họ thiếu sự hiểu biết về các nguyên nhân lây nhiễm HIV, không được hướng dẫn về tình dục an toàn và nguy cơ tấn công của HIV đối với cuộc sống của họ. Một số hiện tượng đáng lo ngại nêu trên, cùng tâm lý mặc cảm, tự ti của nhóm dân di biến động đã làm cho họ thường xuyên né tránh các cơ quan công quyền, ít tiếp xúc với cơ quan truyền thông, xa rời hoạt động phim ảnh, phát thanh truyền hình, tham quan, triển lãm và nhiều sinh hoạt văn hoá khác. Tình hình này đang gây trở ngại cho công tác quản lý xã hội và áp dụng các biện pháp tích cực để phòng, chống sự lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng và nó cũng chính là yếu tố gây khó khăn cho công tác phòng, chống HIV/AIDS của tỉnh Quảng Ninh nói riêng của cả nước nói chung. Vì vậy, nhận thức rõ về nhóm người này và đảm bảo tốt các quyền của họ sẽ là một trong cách thức có hiệu quả nhất để ngăn chặn sự lây truyền HIV/AIDS, bảo vệ sức khoẻ và hạnh phúc của cộng đồng. Năm là: Sự vi phạm quyền con người ở môi trường giam giữ trong bối cảnh HIV/AIDS. Trong môi trường giam giữ, có ba dạng chủ thể chủ thể cơ bản có nguy cơ bị xâm hại (hoặc bị ảnh hưởng) đến quyền, bao gồm: những người bị tước tự do sống chung với HIV/AIDS; những người bị tước tự do không có HIV/AIDS và những cán bộ quản lý, y tế của các cơ sở giam giữ. Thứ nhất: Với những người bị tước tự do sống chung với HIV/AIDS: Theo luật quốc tế, khái niệm “người bị tước tự do" được hiểu là tất cả những người mà, theo quyết định của một cơ quan tư pháp, hành pháp hay của một cơ quan công quyền khác, đang bị áp dụng bất kỳ hình thức giam giữ nào (không chỉ là những người đang thi hành án phạt tù) mà trong đó họ không thể tự do rời khỏi nơi giam giữ. Còn ở Việt Nam, “những người bị tước quyền tự do" sẽ bao gồm: những phạm nhân đang thi hành án phạt tù, những bị can đang bị giam tại các trại tạm giam chờ xét xử, những người bị tạm giữ (liên quan đến các vi phạm hành chính hoặc hình sự), những người bị Toà án kết án với hình thức quản chế không được tự do đi khỏi nơi cư trú, những trẻ em và người chưa thành niên đang học tập tại các trường giáo dưỡng (địa phương quản lý), những người nghiện ma tuý đang cai nghiện ở các trung tâm cai nghiện tập trung, những phụ nữ hành nghề mại dâm đang học tập tại các Trung tâm giáo dục, dạy nghề cho phụ nữ mại dâm. Bị phân biệt đối xử: Diễn ra phổ biến nhất, thể hiện cụ thể ở việc những người bị tước tự do sống chung với HIV/AIDS bị giam giữ, cách ly, bị ngăn cấm hay cản trở tham gia các hoạt động có tính chất tập thể, hoặc không được hưởng các chế độ về dinh dưỡng hay điều trị y tế một cách bình đẳng như những người bị tước tự do bình thường khác... sự phân biệt đối xử có thể xuất phát từ các quản giáo, nhân viên phục vụ và từ những người bị tước tự do khác. Họ bị bỏ mặc: đây vừa là biểu hiện vừa là hậu quả của sự phân biệt đối xử, đặc biệt thể hiện khi những người bị tước tự do sống chung với HIV/AIDS bị đau ốm. Trên thực tế, khi chưa phát bệnh, những người bị tước tự do sống chung với HIV/AIDS vẫn cần phải được theo dõi, chăm sóc và điều trị (nếu có điều kiện), song điều này có thể không được quan tâm. Khi phát bệnh, họ có thể bị bỏ mặc, không được điều trị kịp thời và thích đáng, xuất phát từ suy nghĩ rằng “trước sau thì họ cũng sắp chết", và có thể cả từ sự coi thường hay kinh sợ bị lây nhiễm của các nhân viên y tế. Cần hiểu sự bỏ mặc không chỉ xuất phát từ các nhà quản giáo, nhân viên y tế, mà còn từ những người bị tước tự do khác và chính những người thân trong gia đình họ. Bị hạ nhục: Đây có thể coi là mức độ nghiêm trọng nhất của sự phân biệt đối xử. Hành vi hạ nhục có thể thể hiện qua lời nói, hành động hoặc không hành động, có thể xuất phát từ các quản giáo, nhân viên phục vụ, người thân trong gia đình và những người bị tước tự do khác. Bị xâm hại riêng tư: Điều này có thể thể hiện ở hai khía cạnh: Một là, những người bị tước tự do có thể bị bắt buộc làm xét nghiệm HIV khi bị đưa vào cơ sở giam giữ. Hai là, những thông tin liên quan đến tình trạng bệnh tật của họ không được giữ bí mật, khiến cho họ trở thành nạn nhân của sự phân biệt đối xử, bị bỏ mặc hay hạ nhục. Tại nhiều nơi trên thế giới, do vị thế yếu thế của mình, những người bị tước tự do là phụ nữ và trẻ em có thể phải đối mặt với nguy cơ ở mức độ cao hơn và phải chịu những hậu quả nặng nề hơn so với những người bị tước tự do là nam giới đã thành niên. Đặc biệt, họ là những đối tượng có nguy cơ cao bị xâm hại tình dục trong các cơ sở giam giữ. Thứ hai: Những người bị tước tự do không có HIV. Trong môi trường giam giữ, những người bị tước tự do không có HIV có thể bị lây nhiễm một cách trực tiếp từ việc tiếp xúc, quan hệ tình dục (tự nguyện hay bị buộc...) với những người bị tước tự do sống chung với HIV/AIDS, hoặc gián tiếp thông qua các dịch vụ y tế ở cơ sở giam giữ. Thứ ba: Với những cán bộ quản lý, y tế ở các cơ sở giam giữ. Ở môi trường giam giữ trong bối cảnh HIV/AIDS, những cán bộ quản lý, cán bộ y tế cũng là những đối tượng dễ bị tổn thương. Họ có thể bị phơi nhiễm HIV từ quá trình công tác, đặc biệt là những người trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc, điều trị cho những người bị tước tự do sống chung với HIV/AIDS. Luật quốc tế về nhân quyền chú trọng đặc biệt đến các đối tượng dễ bị tổn thương (dễ bị vi phạm các quyền). Những đối tượng này được đặt ở vị trí “ưu tiên" trong bảo đảm quyền con người so với các đối tượng bình thường khác. Sự ưu tiên này không có nghĩa là phân biệt đối xử, mà chỉ là sự bù đắp những thiệt thòi mà những đối tượng dễ bị tổn thương phải gánh chịu, trong nỗ lực đặt họ vào vị thế ngang bằng với những đối tượng bình thường ở điểm xuất phát của việc hưởng thụ các quyền. Trên thực tế, luật nhân quyền quốc tế đưa ra một tập hợp các quyền áp dụng chung cho tất cả mọi người, đồng thời có những quyền riêng áp dụng cho từng nhóm xã hội nhất định, căn cứ vào đặc thù của mỗi nhóm. Có thể thấy rằng, người bị tước tự do sống chung với HIV/AIDS vừa là đối tượng ưu tiên, vừa là đối tượng bị hạn chế trong việc hưởng thụ quyền con người. Là đối tượng ưu tiên bởi họ thuộc vào nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Đặc biệt, so với những người sống chung với HIV/AIDS bình thường (không bị tước tự do), tính dễ bị tổn thương của họ cao gấp hai lần, do họ còn thuộc vào nhóm những người bị tước tự do. Là đối tượng bị hạn chế quyền là bởi, với vị thế là những người đang bị giam giữ... họ bị tạm thời hạn chế một số quyền, chủ yếu là quyền tự do đi lại, cư trú (trong trường hợp với tù nhân, còn có thể bị hạn chế quyền bầu cử, ứng cử). Ngoài ra, với vị thế của những người mang trong mình căn bệnh nguy hiểm, họ còn phải tuân thủ những quy định nhất định nhằm bảo đảm không để bệnh tật lây lan trong môi trường giam giữ. Sáu là: Do hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến HIV/AIDS còn chưa hoàn thiện, đặc biệt là còn thiếu các dịch vụ hỗ trợ pháp lý miễn phí cho người nhiễm HIV/AIDS Khi giải quyết các vấn đề ma tuý, mại dâm hay HIV/AIDS, các văn bản quy phạm mới chỉ quan tâm và đề cập từng vấn đề riêng rẽ mà chưa đề cập cùng một lúc. Vì vậy, giải quyết vấn đề này thì không giải quyết được vấn đề kia và việc giải quyết vấn đề kia lại mâu thuẫn về mặt pháp luật với vấn đề này. Bảy là: Do quyền con người của người có HIV/AIDS trong bối cảnh đại dịch HIV/AIDS bị vi phạm dẫn đến tình trạng họ chán nản, buồn phiền, trầm cảm và tuyệt vọng, giảm sút lòng tự trọng, hận thù đời. Nguy hiểm hơn là có người trở nên vô đạo đức, hận đời, trả thù đời bằng các hành vi đồi truỵ để lây nhiễm HIV sang những người khác, do đó làm tăng khả năng và nguy cơ lây lan bệnh tật cho cộng đồng. Trong bối cảnh HIV/AIDS hiện nay, một số quyền cơ bản của người có HIV/AIDS rất dễ bị vi phạm như: quyền được bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; quyền tự do đi lại, quyền về việc làm, quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền riêng tư, quyền được tiếp cận thông tin..., do đó, để đảm bảo cho người có HIV/AIDS thực hiện các quyền cơ bản này, tỉnh Quảng Ninh phải có một chiến lược tổng thể với sự phối hợp đa ngành, sự đồng tâm thực hiện của cả cộng đồng, tạo cơ hội bình đẳng cho người có HIV/AIDS hưởng thụ quyền. Người có HIV trước hết họ là một con người nên họ có các quyền cơ bản như mọi thành viên khác trong xã hội. Ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm tốt các quyền của người có HIV/AIDS vừa là nghĩa vụ pháp lý vừa là nghĩa vụ đạo đức. Người có HIV/AIDS là nhóm người dễ bị tổn thương, họ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong việc hưởng thụ quyền. Nhà nước, gia đình, xã hội và cộng đồng có trách nhiệm quan tâm và có những ưu tiên hỗ trợ, tạo cơ hội bình đẳng cho họ hưởng thụ các quyền cơ bản của mình. Các quyền cơ bản của người có HIV/AIDS được đảm bảo là một biện pháp hữu hiệu trong cuộc chiến phòng, chống HIV/AIDS. HIV/AIDS không chỉ là một dịch bệnh đơn thuần mà đã thật sự trở thành một vấn đề xã hội bức xúc trên nhiều phương diện. Vì thế, tuyên bố UNGASS về HIV/AIDS ngày 27/06/2001 đã nhận định: “đại dịch toàn cầu là một tình trạng khẩn cấp và là một trong những thách thức ghê gớm nhất đối với cuộc sống, nhân phẩm và sự hưởng thụ quyền con người, đối với sự phát triển kinh tế. Nó ảnh hưởng đến mọi cấp độ của xã hội, từ các quốc gia đến các cá nhân". Và “thừa nhận rằng quyền và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người mang tính thiết yếu trong việc giảm sự dễ bị tổn thương của HIV/AIDS. Tôn trọng quyền của những người đang sống cùng HIV/AIDS sẽ là một sự phòng chống hiệu quả". Khi được sống trong môi trường cởi mở, có sự quan tâm, hỗ trợ người có HIV/AIDS hưởng thụ các quyền thì chính những người có HIV/AIDS sẽ là những người tích cực nhất trên mặt trận phòng, chống nạn đại dịch này. Ngược lại, nếu tiếp tục phân biệt đối xử, vi phạm các quyền cơ bản của người có HIV/AIDS, sẽ là nguyên nhân làm tăng số lượng người nhiễm HIV. Tám là: Truyền thông HIV đã đi lệch hướng. Khi truyền thông HIV/AIDS, chúng ta thường tạo ra các tiểu phẩm, áp phích rùng rợn về căn bệnh này, chúng làm cộng đồng quá ghê sợ HIV và những người mang nó, gây kỳ thị- một rào cản của việc phòng, chống HIV/AIDS. Thật trớ trêu là cách truyền thông trước đây đã vô tình làm suy yếu những cố gắng tốt đẹp của chương trình phòng, chống HIV/AIDS nhằm làm giảm sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người có HIV. Các loại hình truyền thông như báo chí, sân khấu, ca nhạc, tranh áp phích... thường gắn căn bệnh này với tệ nạn xã hội với những hình ảnh ghê sợ như đầu lâu xương chéo, quả cầu gai, máu me, quan tài, những hình người gầy guộc tiều tuỵ. Những hình ảnh này tuy giúp người dân cảnh giác với HIV và nhận biết sự nguy hiểm của mại dâm, ma tuý, nhưng nó làm tăng sự kỳ thị với người mắc bệnh. Từ trước tới nay, các phương tiện truyền thông khi nói về HIV/AIDS đều có xu hướng áp dụng thủ pháp “hù doạ", gây sợ hãi. Giáo sư Chung Á, nguyên Phó chủ nhiệm Uỷ ban quốc gia phòng, chống AIDS nói: “Người ta chỉ tập trung miêu tả phần đen tối nhất trong cuộc sống của người nhiễm HIV, hầu như chỉ kể về họ ở giai đoạn AIDS khiến người dân hiểu rằng đã nhiễm vi rút này là hết đời, là đầy mình mụn mủ. Họ sẽ không biết hoặc quên mất rằng trước khi trở thành bệnh nhân AIDS, người nhiễm HIV còn có nhiều năm sống khoẻ mạnh và vẫn có thể làm việc, cống hiến rất nhiều cho xã hội". Trên thực tế, rất nhiều người nhiễm HIV vẫn khoẻ mạnh và đóng góp nhiều cho cộng đồng. Đặc biệt, trong lĩnh vực truyền thông phòng, chống căn bệnh này, không ai hiệu quả hơn chính những người nhiễm HIV vì họ đã mang đến cho cộng đồng bằng chứng sống động về khả năng làm việc của mình. Họ lập thành các nhóm tự lực để chia sẻ, giúp đỡ nhau và giúp cộng đồng có thêm kiến thức phòng, chống HIV/AIDS. Tuy nhiên, phần lớn người có HIV/AIDS vẫn co mình lại vì sợ ánh mắt của những người xung quanh. Họ giấu bệnh càng lâu càng tốt, từ chối khám và điều trị vì sợ mọi người biết mình nhiễm HIV. Nguy cơ bệnh lan ra cộng đồng do đó cũng tăng lên. Bên cạnh đó, truyền thông về HIV/AIDS ở Việt Nam thời gian qua còn có một sự chệch hướng nữa, đó là gắn HIV với tệ nạn xã hội. Trong nhiều bức tranh, những chữ ma tuý, mại dâm và HIV/AIDS thường đi liền với nhau mang ngụ ý những hiện tượng này là bạn đồng hành và HIV cũng là tệ nạn. Đây là một trong những nguyên nhân khiến bệnh nhân bị miệt thị, xa lánh. Khi được hỏi về thái độ người nhiễm HIV, chị Thanh một nhân viên mỏ than Hà Lầm nói: “Đó là cái giá mà họ phải trả cho cuộc sống trụy lạc. Nếu không dính vào ma tuý và ăn chơi đàng điếm thì đời nào lây cái bệnh chết người ấy“. Rất nhiều người khác cũng nghĩ như chị Thanh. Phải lập tức thay đổi cách thức truyền thông về AIDS, đó là ý kiến của Giáo sư Chung Á và nhiều chuyên gia khác. Các tranh ảnh, tiểu phẩm, ca khúc, phóng sự về HIV/AIDS sẽ sử dụng những mảng màu tươi sáng hơn. Phó Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương Đào Duy Quát cho biết sẽ tập huấn cho các hoạ sĩ vẽ tranh cổ động và gỡ bỏ các họa phẩm cũ trên đường phố. Những bức tranh mới sẽ nói rằng: phải luôn cảnh giác với HIV/AIDS, nhưng nó cũng là một căn bệnh chứ không phải tệ nạn xã hội; và người nhiễm HIV có thể sống bình thường về mọi mặt mà không gây hại cho cộng đồng nếu biết cách phòng ngừa. Chín là: Kinh phí Nhà nước cũng như tỉnh Quảng ninh cấp cho công tác phòng, chống HIV/AIDS tuy đã có sự đầu tư, quan tâm hơn nhưng còn eo hẹp so với yêu cầu nhiệm vụ. Nguồn tài chính bảo đảm cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh phần lớn vẫn dựa trên nguồn tài trợ, hỗ trợ từ các dự án hợp tác quốc tế. Do kinh phí không đủ nên việc huy động các cộng tác viên gặp nhiều khó khăn, trong khi một phần không nhỏ phải dành để mua trang thiết bị, sinh phẩm. Chí phí y tế như đảm bảo an toàn truyền máu và điều trị bệnh nhân AIDS hết sức tốn kém nên phần kinh phí dành cho công tác can thiệp dự phòng bao gồm cả can thiệp dự phòng xã hội và can thiệp dự phòng y tế, đào tạo lại cán bộ chưa được đầu tư thỏa đáng. Các kinh phí đào tạo nâng cao về quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ chuyên trách hầu như không có. Chính phủ Việt Nam ước tính rằng, tổng đóng góp tài chính hàng năm từ các hợp tác song phương, đa phương và các tổ chức quốc tế cho nỗ lực phòng, chống AIDS Quốc gia vào khoảng 2-3 triệu đô la Mỹ. Tuy nhiên, các nguồn tài chính trên thường được phân bổ chỉ cho những hoạt động nghiên cứu cụ thể hoặc mang tính địa phương, manh mún, thiếu điều phối. Phần lớn là thực hiện các nghiên cứu can thiệp thí điểm trên phạm vi nhỏ. Cho tới nay, ngoại trừ một vài nghiên cứu mang tính thí điểm, chưa có dự án nào đầu tư một cách toàn diện cho công tác chăm sóc hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Rất nhiều dự án do quốc tế tài trợ không thể duy trì được khi dự án kết thúc. Do đó, cần có nguồn trợ giúp tài chính, kỹ thuật lâu dài, ổn định để hỗ trợ cho chương trình chăm sóc và dự phòng HIV/AIDS. Mười là: Việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của công tác phòng, chống HIV/AIDS theo các giai đoạn còn chưa được chú trọng, chưa theo kịp được sự phát triển của thực tiễn. Còn thiếu những quyết sách kịp thời đáp ứng yêu cầu mới, thiếu định hướng mang tính chiến lược cho công tác phòng, chống HIV/AIDS trong từng năm và trong từng giai đoạn cụ thể, do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau và chưa được sự nhận thức thống nhất chung. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống HIV/AIDS còn chậm được đổi mới, công tác kiểm tra, giám sát vẫn chưa đảm bảo thường xuyên, liên tục. 2.2.2.3. Những bài học kinh nghiệm Qua công tác thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau: Thứ nhất, cần có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, ý nghĩa thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh. Qua thực tiễn thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh, nhận thấy cần phải quán triệt và nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS trong điều kiện Nhà nước đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Thực tế, thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh cho thấy, chính quyền cơ sở nào quan tâm gắn kết hoạt động công tác phòng, chống HIV/AIDS vào các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, thì nơi đó sẽ hạn chế được dịch bệnh HIV/AIDS hoành hành, người dân sẽ yên tâm hơn, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của chính quyền địa phương. Thứ hai, cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, phải chú trọng khâu tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa người dân với pháp luật, với hoạt động của cơ quan công quyền để không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nhiễm HIV/AIDS cùng với gia đình họ, cũng chính là bảo vệ cộng đồng xã hội mà còn bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Muốn làm được như vậy, phải tiếp tục hướng công tác phòng, chống HIV/AIDS vào cộng đồng xã hội, để mỗi người dân có ý thức tham gia vào công tác thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS một cách hiệu quả và thiết thực. Thứ ba, muốn thành công phải phát huy sức mạnh của toàn dân mà trước hết và chủ yếu là sức mạnh của toàn hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt và chủ đạo. Có thể nói, nguyên nhân của những kết quả đạt được trong công tác thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua, là do sự cố gắng, nỗ lực đầy tính chủ động, sáng tạo và có hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện của hệ thống các cơ quan, đoàn thể, tổ chức trong đời sống xã hội, có Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS làm đầu mối triển khai các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn, sử dụng nguồn lực hợp lý và có hiệu quả. Sự tham gia tích cực của các Sở, Ban ngành, các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội và sự tham gia tích cực của người nhiễm HIV trong các hoạt động truyền thông thay đổi hành vi thì thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS mới đi vào thực chất và đạt hiệu quả. Kết luận chương 2 Như vậy, với sự ra đời của Luật phòng, chống HIV/AIDS đã đánh dấu một bước phát triển về chất của công tác thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh, không chỉ khẳng định sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn tạo lập cơ chế đồng bộ trong việc ngăn chặn và đẩy lùi căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh một số kết quả đạt được trong thời gian vừa qua thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định, nguyên nhân của những hạn chế đó xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội của Quảng Ninh trong thời gian qua, cũng như các điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trên cơ sở các đặc điểm tình hình ở Quảng Ninh có ảnh hưởng đến hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, phân tích những điểm hạn chế của quá trình thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh, chỉ ra những nguyên nhân của nó, làm cơ sở thực tiễn cho việc xác định quan điểm định hướng, đề ra những giải pháp thiết thực nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa năng lực thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh trong thời gian tới. Chương 3 CÁC QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở TỈNH QUẢNG NINH 3.1. YÊU CẦU VÀ QUAN ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở TỈNH QUẢNG NINH 3.1.1. Những yêu cầu khách quan của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh, việc bảo đảm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS là đòi hỏi tất yếu, khách quan trong điều kiện của đất nước ta hiện nay, những yêu cầu đó bao gồm: Thứ nhất là: Bảo đảm việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS tại tỉnh Quảng Ninh xuất phát từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đặc biệt quan tâm tới việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp với điều kiện mới. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, năm 1994, Đảng đã khẳng định phương hướng xây dựng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tại Hội nghị lần thứ VIII của Ban chấp hành Trung ương khoá VII (năm 1995) Đảng ta cũng đã khẳng định các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN. Như vậy, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đã được chính thức khẳng định trong các văn kiện của Đảng kể từ Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII, đến văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, và được thể chế hoá tại Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung một số điều 2001 đó là: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X một lần nữa khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân cùng với việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là những vấn đề có tính quy luật, đồng thời là yêu cầu khách quan, cấp bách trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là quá trình nhận thức, kết tinh quan điểm, tư tưởng tích cực, tiến bộ về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật kiểu mới, và thực tiễn cũng như yêu cầu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền có nhiều nội dung, nhưng một trong những nội dung quan trọng nhất đó là sự ngự trị pháp luật, pháp luật là công cụ chủ yếu và hiệu quả nhất để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Pháp luật đóng vai trò như là những quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc đối với mọi chủ thể trong xã hội, tạo ra hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội. Đối với pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS cũng vậy, đó phải là pháp luật thể hiện đầy đủ bản chất của nhà nước pháp quyền nhất, bảo đảm phù hợp với thực tiễn khách quan, đồng thời phải đảm bảo tính công bằng, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo tính nhân đạo, thể hiện ý chí của nhân dân lao động, tôn trọng và bảo đảm trên thực tế các quyền tự do cơ bản, lợi ích chính đáng, danh dự nhân phẩm của người nhiễm HIV/AIDS; bảo vệ lợi ích cho người nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ, không phân biệt đối xử, coi họ là những người bệnh thông thường trong xã hội, vì tất cả chúng ta đều không may nhiễm phải căn bệnh này. Như vậy, một trong những yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay là phải xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao, thể hiện được ý chí của nhân dân, đặc biệt là những người không may nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ. Để có một hệ thống pháp luật như thế, đòi hỏi phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện từng ngành luật trong hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS, làm cho các quy định của pháp luật có tính khả thi trên thực tế. Thứ hai là: Bảo đảm việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Thực tiễn thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh trong những năm qua cho thấy, tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS tại Quảng Ninh đã giảm nhiều so với các năm trước, từ 1 tỉnh đứng đầu toàn quốc vào những năm 2002-2005, đến nay Quảng Ninh đã xếp thứ 10 so với toàn quốc với tỷ lệ hiện nhiễm 0,40%, đó là sự cố gắng nỗ lực trong công tác phòng, chống HIV/AIDS của Quảng Ninh đã được sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp, sự tham gia tích cực của các ban ngành và các tổ chức đoàn thể của tỉnh, và sự tham gia tích cực của người nhiễm HIV, sự quan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn.doc
Tài liệu liên quan