Luận văn Thực hiện pháp luật về hành nghề luật sư – Từ thực tiễn thành phố hồ Chí Minh

MỞ ĐẦU . 1

1. Lý do chọn đề tài. 1

2. Tình hình nghiên cứu . 3

3. Mục tiêu nghiên cứu . 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài. 5

5. Phương pháp nghiên cứu . 5

6. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài. 5

7. Kết cầu của đề tài . 6

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN. 7

PHÁP LUẬT VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ. 7

1.1. Tổng quan về hành nghề luật sƣ và pháp luật về hành nghề luật

sƣ . 7

1.1.1. Nhận thức chung về luật sư và hành nghề luật sư. 7

1.1.2. Pháp luật về hành nghề luật sư. 11

1.2. Khái quát thực hiện pháp luật về hành nghề luật sƣ . 19

1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về hành nghề luật sư . 29

1.2.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về hành nghề luật sư. 21

1.2.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về hành nghề luật

sư .38

pdf100 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 22/02/2022 | Lượt xem: 373 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật về hành nghề luật sư – Từ thực tiễn thành phố hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân chỉ được làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức. Các tổ chức hành nghề luật sư theo quy định tại Điều 32 của Luật Luật sư có quyền lập chi nhánh. Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư là đơn vị phụ thuộc của văn phòng luật sư, công ty luật, hoạt động theo sự ủy quyền của văn phòng luật sư, công ty luật phù hợp với lĩnh vực hành nghề ghi trong giấy đăng ký hoạt động của văn phòng, công ty. Văn phòng luật sư, công ty luật phải chịu trách nhiệm về hoạt động của chi nhánh do mình thành lập. Luật Luật sư quy định điều kiện hành nghề của tổ chức Luật sư nước ngoài, Luật sư nước ngoài và các hình thức hành nghề tại Việt Nam. Luật sư thành lập văn phòng luật sư, công ty luật, tổ chức luật sư nước ngoài thành lập chi nhánh hoặc công ty luật phải tiến hành đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. 1.3.4. Thực hiện quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý hành nghề luật sư Trách nhiệm quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư được quy định tại Điều 83 Luật Luật sư như sau: 38 - Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. - Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: + Xây dựng, trình Chính phủ quyết định chiến lược phát triển nghề luật sư, ban hành chính sách hỗ trợ cho Đoàn luật sư các tỉnh đặc biệt khó khăn và các chính sách khác hỗ trợ phát triển nghề luật sư; + Xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về luật sư; + Cấp phép thành lập cơ sở đào tạo nghề luật sư; quy định chương trình khung đào tạo nghề luật sư; quy định chế độ bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư; phối hợp với Bộ Tài chính quy định học phí đào tạo nghề luật sư; quản lý, tổ chức việc bồi dưỡng, đào tạo nghề luật sư; + Cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư; + Cấp, thu hồi, gia hạn Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài; + Cấp, thu hồi Giấy phép thành lập tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam; + Tổng kết, báo cáo Chính phủ về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư; + Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư; tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam; + Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư; + Quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về luật sư; + Đình chỉ việc kiểm tra, hủy bỏ kết quả kiểm tra tập sự hành nghề luật sư khi phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng theo quy định của Luật Luật sư và các quy định khác của pháp luật có liên quan; 39 + Đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn luật sư Việt Nam trái với quy định của Luật Luật sư; + Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật Luật sư. - Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. - Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: + Cho phép thành lập Đoàn luật sư; quyết định việc giải thể Đoàn luật sư sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; + Phê duyệt đề án tổ chức đại hội của Đoàn luật sư; + Tổ chức cấp, thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam; + Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức, hoạt động của Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại địa phương; + Đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những nghị quyết, quyết định, quy định của Đoàn luật sư trái với quy định của Luật Luật sư; + Định kỳ báo cáo Bộ Tư pháp về tình hình tổ chức luật sư và hành nghề luật sư Việt Nam, tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại địa phương; + Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư tại địa phương; + Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. 40 Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương (gồm cả luật sư và tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài). 1.3.5. Thực hiện quy định về thanh tra, xử lý vi phạm liên quan đến hành nghề luật sư Việc kiểm tra nhằm đánh giá việc chấp hành các quy định pháp luật về luật sư của tổ chức hành nghề luật sư, qua đó kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các vi phạm, thiếu sót và áp dụng biện pháp xử lý thích hợp theo quy định của pháp luật. Đồng thời, qua kiểm tra tiếp nhận những phản ánh, kiến nghị; phát hiện những nội dung chưa phù hợp, bất cập của pháp luật để từ đó có biện pháp tháo gỡ vướng mắc trong lĩnh vực luật sư. Thực hiện Luật Luật sư, Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư và các văn bản pháp luật có liên quan, UBND tỉnh, thành phố ban hành Kế hoạch kiểm tra về tổ chức, hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn hàng năm. Việc kiểm tra nhằm đánh giá việc chấp hành các quy định pháp luật về luật sư của tổ chức hành nghề luật sư, qua đó kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các vi phạm, thiếu sót và áp dụng biện pháp xử lý thích hợp theo quy định của pháp luật. Đồng thời, qua kiểm tra tiếp nhận những phản ánh, kiến nghị; phát hiện những nội dung chưa phù hợp, bất cập của pháp luật để từ đó có biện pháp tháo gỡ vướng mắc trong lĩnh vực luật sư, tổng kết, đánh giá việc thi hành Luật Luật sư. Kiểm tra việc chấp hành các quy định của Luật Luật sư và các văn bản pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, trong đó tập trung những nội dung: Việc thực hiện các quy định về đăng ký hoạt động, thay đổi đăng ký hoạt động, công bố nội dung đăng ký hoạt động, 41 thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư; Việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động trong trường hợp có thuê lao động; mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư hành nghề tại tổ chức mình theo quy định; Việc thực hiện các quy định của pháp luật về thuế, tài chính, kế toán, thống kê; Việc ký kết và thực hiện Hợp đồng dịch vụ pháp lý theo quy định của pháp luật; Việc báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất; Lưu trữ các giấy tờ tài liệu theo quy định của Luật Luật sư và các quy định khác của Luật luật sư và pháp luật có liên quan. Đoàn kiểm tra của cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương được thành lập gồm có Trưởng đoàn là lãnh đạo Sở Tư pháp; các thành viên Đoàn kiểm tra là đại diện các cơ quan: Cục Thuế, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn phòng UBND tỉnh/thành phố, Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư, công chức phòng quản lý các hoạt động bổ trợ tư pháp, thanh tra Sở Tư pháp và đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan. Tiểu kết chƣơng 1 Với vai trò là chương quy định những vấn đề chung về hành nghề luật sư. Tác giả tập trung làm rõ một số nội dung sau: Thứ nhất, làm rõ một số khái niệm, luật sư, nghề luật sư, hành nghề luật sư, pháp luật về hành nghề luật sư, thực hiện pháp luật về hành nghề luật sư. Thứ hai, làm rõ vai trò của pháp luật về hành nghề luật sư, vai trò vị trí, chức năng xã hội của luật sư trong đời sống. Thứ ba, phân tích các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về hành nghề luật sư như yếu tố chính trị, yếu tố kinh tế, yếu tố pháp luật, yếu tố con người. Thứ tư, làm rõ các nội dung thực hiện pháp luật về hành nghề luật sư về điều kiện hành nghề, phạm vi hành nghề, tổ chức hành nghề luật sư, trách 42 nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý hành nghề luật sư, thanh tra, xử lý vi phạm liên quan đến hành nghề luật sư. Trên cơ sở phân tích những vấn đề chung thực hiện pháp luật về hành nghề luật sư ở chương 1 là cơ sở để tác giả phân tích thực trạng về hành nghề luật sư ở chương 2. 43 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Khái lƣợc Đoàn Luật sƣ Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh và tình hình hành nghề luật sƣ tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 2.1.1. Khái lược Đoàn Luật sư Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh Theo sách “Lịch sử nghề luật sư Việt Nam” của tác giả Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa, có thể nói rằng, Sài Gòn là cái nôi của nghề luật sư Việt Nam. Ngày 26-11-1867, Thống đốc nam kỳ De La Grandière ban hành Nghị định về việc hành nghề bào chữa trước các Tòa án Pháp. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên về nghề luật sư được chính quyền thực dân ban hành ở xứ “Nam Kỳ thuộc Pháp”. Người hành nghề bào chữa lúc đó gọi là “biện hộ viên” (défenseur); sau (từ 1884) gọi là “luật sư biện hộ” (avocat défenseur). Qua lịch sử nghề nghiệp, có thể nói luật sư Phan Văn Trường là nam luật sư đầu tiên, luật sư Bùi Thị Cẩm là nữ luật sư đầu tiên người Việt Nam, cả hai luật sư tiền bối này lúc đó là thành viên của luật sư đoàn Tòa thượng thẩm Sài Gòn. Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thống nhất nước nhà, luật sư Nguyễn Hữu Thọ vốn hành nghề ở Sài Gòn và các tỉnh miền Tây vào những năm 30 trước Cách mạng Tháng Tám 1945, đã tham gia lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và trở thành Quyền Chủ tịch nước (1980-1981), Chủ tịch Quốc hội (1981-1987), Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1987-2002) Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hơn một tháng sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 10- 10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46 tổ chức đoàn thể luật sư. Theo đó, các tổ chức luật sư cũ được duy trì với một số điểm sửa đổi cho phù 44 hợp với tình hình mới. Do điều kiện lúc bấy giờ, số lượng luật sư ở nước ta, cả trong Nam ngoài Bắc, đều rất ít. Thực tế ở Sài Gòn lúc đó, Việt Minh giành được chính quyền chỉ có 28 ngày thì phải tiến hành cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương. Một số trí thức đang hành nghề luật sư ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ, từ đấu tranh yêu nước đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng hành cùng lịch sử tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị kéo dài suốt 9 năm (1945-1954). Trong hàng ngũ kháng chiến, các luật sư đã được bố trí sử dụng vào những chức vụ quan trọng như: Luật sư Phạm Văn Bạch, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ; Luật sư Phạm Ngọc Thuần, Phó Chủ tịch có thời kỳ giữ Quyền Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ, kiêm nhiệm Chính trị Ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ phụ trách 3 quân khu 7, 8 và 9; Luật sư Trương Tấn Phát, Giám đốc Sở Tư pháp; Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, Giám đốc Sở Tài chánh; Luật sư Lê Đình Chi, Trưởng phòng Quân pháp Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Luật sư Thái Văn Lung, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh quận Thủ Đức, v.v.. Sau Hiệp định Genève năm 1954 đến tháng 4 năm 1975, đất nước tạm phân chia thành hai miền Nam – Bắc. Miền Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa có hai quy chế luật sư lần lượt được ban hành: Quy chế theo Luật số 1/62 ngày 8-1-1962 thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và quy chế theo Sắc luật số 025/66 ngày 7-7-1966 thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Văn phòng Luật sư đoàn Sài Gòn đặt trong trụ sở Tòa Thượng thẩm Sài Gòn (số 131 đường Công lý, nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa).. Sau ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975, Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền 45 Nam Việt Nam cho thực hiện và triển khai tổ chức bào chữa viên nhân dân theo Thông tư số 06/BTP-TT ngày 11-6-1976 của Bộ Tư pháp. Theo đó, lúc này, ở thành phố Hồ Chí Minh thiết lập một Phòng Bào chữa viên, đặt tại địa chỉ 97 Nguyễn Thị Minh Khai (nay là đường Pasteur) quận 1. Những bào chữa viên đầu tiên công tác ở thành phố Hồ Chí Minh là những cán bộ công chức nhà nước. Ngày 31-10-1983, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 691/QLTPK hướng dẫn kiện toàn tổ chức bào chữa. Thực hiện Thông tư này, Ủy ban nhân dân thành phố ra quyết định thành lập Đoàn bào chữa viên nhân dân với 28 người, gồm những bào chữa viên đã tham gia hoạt động này từ ngày mới giải phóng và bổ sung thêm một số thành viên mới đã dự xong lớp bồi dưỡng pháp lý xã hội chủ nghĩa do Bộ tư pháp tổ chức dành cho các trí thức ngành luật cũ ở miền Nam. Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh ra đời ngày 24-10-1989. Ngày 18-12-1987, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức luật sư. Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh đã được Ủy ban nhân dân thành phố ra Quyết định số 633, 634 và 635/QĐ-UB cùng ngày 24-10-1989 thành lập, với nhân sự gồm 68 thành viên (28 luật sư và 40 luật sư tập sự). Từ lúc mới thành lập, trụ sở Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh đặt tại số 104 Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, quận 1. Đến nay, đã trải qua hơn 25 năm với 6 nhiệm kỳ Ban Chủ nhiệm lần lượt kế tiếp nhau: nhiệm kỳ I (1995-1998), nhiệm kỳ II (1998-2002), nhiệm kỳ III (2002-2005), nhiệm kỳ IV (2005-2008), nhiệm kỳ V (2008-2013). Đại hội Đại biểu Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI, nhiệm kỳ VI (2013-2018) đã được triệu tập trong 2 ngày 12 và 13-10-2014, tại Hội trường 46 Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, với gần 600 luật sư đại diện cho 3.786 luật sư thành viên tham dự, đã bầu ra Ban Chủ nhiệm nhiệm kỳ VI với 15 thành viên và Hội đồng Khen thưởng – kỷ luật nhiệm kỳ VI gồm 9 thành viên. Trong chức năng xã hội, tham gia các hoạt động ngoài dịch vụ pháp lý, một số luật sư của Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh đã từng là Đại biểu Quốc hội, thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ, Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố, quận, phường Một số luật sư đã và đang là thành viên Hội đồng luật sư toàn quốc, Ban Thường vụ và Thường trực Liên đoàn luật sư Việt Nam, Ban chấp hành Hội Luật gia Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học – kỹ thuật thành phố, Hội Luật gia thành phố, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố, Hội Bảo trợ trẻ em thành phố, Hiệp hội Bất động sản thành phố Về hoạt động ngoại giao nhân dân và hội nhập quốc tế, Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua đã có quan hệ với nhiều Đoàn luật sư nước ngoài và các tổ chức luật sư quốc tế. Đoàn đã tổ chức thành công hai sự kiện lớn về hợp tác quốc tế về luật sư: Hội nghị các Chủ tịch Đoàn luật sư châu POLA (The Presidents of Law Association in ASIA) và Hội nghị thường niên Hội Luật châu – Thái Bình Dương LAWASIA (The Law Association for Asia and the Pacific). Dân số hiện tại của Việt Nam là 96.851.768 người vào ngày 18/11/2018 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc. Theo kết quả tổng hợp sơ bộ, dân số của thành phố Hồ Chí Minh đến thời điểm ngày 23/1/2019 là 8.859.688 người, tăng 64.823 người so với thời điểm 30/6/2018 (số liệu dân số của TP.HCM đến thời điểm 30/6/2018 là 8.794.865 người). Số liệu này chưa tính lực lượng bộ đội và công an ở tại hộ. 47 Cơ cấu dân tộc, người Kinh chiếm 92,91% dân số thành phố, tiếp theo tới người Hoa với 6,69%, còn lại là các dân tộc Chăm, Khmer Những người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh cư trú ở khắp các quận, huyện, nhưng tập trung nhiều nhất tại Quận 5, 6, 8, 10, 11 và có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đi đầu trong kinh tế của Việt Nam. Năm 2018, kinh tế thành phố tiếp tục tăng trưởng, GRPD tăng 8,3%, hoàn thành chỉ tiêu đề ra, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu kinh tế tiếp tục tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố đạt 78,69 tỷ USD; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt 7,39 tỷ USD; tổng thu ngân sách nhà nước đạt 378.543 tỷ đồng; tổng lượng khách quốc tế đến thành phố đạt 7,5 triệu lượt khách Thành phố đã đạt và vượt 17 chỉ tiêu trong 20 chỉ tiêu kinh tế - văn hóa - xã hội theo kế hoạch năm. Đáng chú ý, kinh tế thành phố vẫn duy trì vị trí đầu tàu kinh tế của cả nước. Trong đó, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), đạt hơn 1,33 triệu tỷ đồng, ước tăng 8,3% (cùng kỳ tăng 8,25%). Điều kiện về dân cư và kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh như đã nêu trên cũng đặt ra những điều rất riêng cho hoạt động của Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh với vai trò là Đoàn Luật sư hàng đầu của cả nước về thành viên và dịch vụ pháp lý. 2.1.2. Tình hình hành nghề luật sư tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay Hiện nay, Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh có số lượng luật sư chiếm tỷ lệ trên 40% tổng số luật sư của cả nước, trong đó có nhiều luật sư chuyên về thương mại và đầu tư, chẳng những thông thạo tiếng Anh mà còn có thể tranh luận về các vấn đề pháp lý bằng tiếng Anh với các luật sư nước 48 ngoài. Những luật sư trên có khả năng tham gia bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp trong các vụ tranh chấp thương mại quốc tế khi có yêu cầu Số lượng luật sư và tập sự hành nghề luật sư của Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh từ sau khi Luật Luật sư có hiệu lực đã có bước phát triển nhảy vọt. Năm 2015, tổng số luật sư: 4.208 người, tập sự hành nghề luật sư: 2.038 người [23, tr.1]. Năm 2016, tổng số luật sư: 4.530 người, tập sự hành nghề luật sư: 2.299 người [24, tr.1]. Năm 2017, tổng số luật sư: 4.985 thành viên luật sư (chiếm 42% trên tổng số 11.879 luật sư cả nước), tập sự hành nghề luật sư: 2.507 người [25, tr.1]. Nhưng đến nay, tính đến cuối tháng 11 năm 2018, Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh có tổng cộng 5.527 thành viên, trong đó số luật sư nam: 3292. Số luật sư nữ: 2.235. Tổng số tập sự hành nghề luật sư của Đoàn 2.539 người, trong đó số người tập sự nam: 1.232, số người tập sự nữ: 1.307 [26, tr.1]. Tổ chức hành nghề luật sư cũng tăng nhanh hàng năm với các con số cụ thể như sau:  Năm 2015 [32, tr.1], 1. Số văn phòng luật sư : 838. 2. Số công ty luật : 538. 3. Số chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư đặt tại địa phương: 232. 4. Số luật sư hành nghề với tư cách cá nhân : 120. 5. Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài : 59.  Năm 2016 [33, tr.1], 1. Số văn phòng luật sư : 859. 2. Số công ty luật : 603. 3. Số chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư đặt tại địa phương: 232. 4. Số luật sư hành nghề với tư cách cá nhân : 173. 49 5. Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài : 63.  Năm 2017 [34, tr.1], 1. Số văn phòng luật sư : 970. 2. Số công ty luật : 676. 3. Số chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư đặt tại địa phương: 232. 4. Số luật sư hành nghề với tư cách cá nhân : 286. 5. Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài : 64.  Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay có 1.538 tổ chức hành nghề luật sư. 1. Số văn phòng luật sư : 837. 2. Số công ty luật : 701. 3. Số chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư đặt tại địa phương: 130. 4. Số luật sư hành nghề với tư cách cá nhân : 266. 5. Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài : 64. Đây là số liệu đáng mừng cho thấy nhu cầu tư vấn pháp lý trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh rất cao và cũng khẳng định vị trí của nghề luật sư trong cộng đồng (Số liệu cập nhật 11/2018) [35, tr.1]. 2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hành nghề luật sƣ tại thành phố Hồ Chí Minh. 2.2.1. Các phương diện đánh giá 2.2.1.1. Về thực hiện quy định về điều kiện hành nghề luật sư Xuất phát từ các quy định tại Điều 2, Điều 10, Điều 11 của Luật Luật sư quy định về điều kiện hành nghề luật sư, người muốn trở thành luật sư sau khi có bằng cử nhân luật, phải học lớp luật sư được đăng ký tại Học viện tư pháp (quy định hiện hành được học trong 12 tháng), sau đó đạt kết quả qua kỳ thi tốt nghiệp của Học viện tư pháp, và được cấp bằng tốt nghiệp lớp luật sư. Sau khi tốt nghiệp lớp đào tạo luật sư, cá nhân bắt buộc phải đăng ký tập sự tại một tổ chức hành nghề luật sư với thời gian 12 tháng. Sau khi hoàn thành 50 thời gian tập sự, người tập sự được tham gia kỳ kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư. Nếu đạt điểm thì được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Sau khi được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư thì luật sư được lựa chọn tổ chức hành nghề luật sư để hành nghề, hoặc hành nghề với tư cách cá nhân và phải đăng ký với Sở tư pháp địa phương nơi hành nghề. Thực hiện quy định nêu trên, các cá nhân muốn trở thành luật sư tại thành phố Hồ Chí Minh đã nỗ lực học tập và rèn luyện. Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh, đã phối hợp tốt với các tổ chức hành nghề luật sư, Sở tư pháp thành phố Hồ Chí Minh, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Bộ tư pháp trong việc tập sự, thi hết tập sự, cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, thẻ Luật sư và gia nhập Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh một cách nhanh chóng, đúng quy định của pháp luật. Thực tế tại thành phố Hồ Chí Minh số lượng học viên học lớp đào tạo về luật sư không ngừng tăng lên, số tập sự hành nghề luật sư, và luật sư gia nhập Đoàn vẫn gia tăng không ngừng. Tuy nhiên, sự gia tăng về số lượng, nhưng chất lượng luật sư không đồng đều. Luật sư là một nghề đòi hỏi kiến thức sâu rộng về mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực pháp luật. Để có lượng kiến thức đó, người hành nghề phải được đào tạo cơ bản tại những cơ sở đào tạo có chất lượng đồng thời phải không ngừng học hỏi trong sách vở, trong thực tế để tích luỹ kinh nghiệm, kỹ năng phục vụ cho quá trình hành nghề. Đào tạo nghề luật được bắt đầu bằng việc giảng dạy tại một trường đại học chuyên ngành luật ở Việt Nam hoặc nước ngoài. Hầu hết các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam thiên về lý thuyết, sinh viên ít được đào tạo về vấn đề thực hành nghề luật, ít có cơ hội tiếp cận thực tế nên chất lượng đào tạo chưa cao, hầu hết sinh viên ra trường phải mất một thời gian dài mới đáp ứng được nhu cầu của công việc. 51 Việc tập sự trong quá trình hành nghề luật sư ở nhiều nơi, nhiều trường hợp vẫn mang tính thủ tục hành chính, chưa chú tâm học hỏi và rèn luyện thật sự, nên chất lượng hành nghề khi trở thành luật sư đối với các trường hợp này là không cao. Mặc khác, tại khoản 4, Điều 14 Luật Luật sư quy định “Người tập sự hành nghề luật sư được giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp nhưng không được đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng tại phiên tòa, không được ký văn bản tư vấn pháp luật”. Quy định này cũng làm cho người tập sự hành nghề luật sư không được “học bơi” thật sự trong quá trình tập sự hành nghề luật sư. Trong đội ngũ luật sư của Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh, trong lĩnh vực tố tụng và tư vấn pháp luật có nhiều luật sư giỏi, chất lượng hoạt động tham gia tố tụng và tư vấn pháp luật tương đối tốt, được sự tín nhiệm của nhân dân và doanh nghiệp. Nhưng chất lượng hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ luật sư của Đoàn không đồng đều. Cũng có khá nhiều luật sư trong đó kỹ năng trong hoạt động tham gia tố tụng và tư vấn pháp luật còn hạn chế, thậm chí một số ít luật sư kỹ năng hành nghề rất kém không được khách hàng tín nhiệm. Riêng đội ngũ tập sự hành nghề luật sư không được phép tham gia tố tụng trong suốt 12 tháng tập sự hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư, nên họ không có điều kiện thông qua thực tiễn để rèn luyện kỹ năng tham gia tố tụng. Nhiều tập sự hành nghề luật sư sau khi đậu trong các đợt kiểm tra hết tấp sự hành nghề luật sư, trở thành luật sư nhưng kỹ năng tham gia tố tụng rất hạn chế. Để nâng cao chất lượng luật sư trong thời gian tập sự, theo tác giả cần thiết cho người tập sự hành nghề luật sư tham gia phiên tòa sơ thẩm, cấp quận, huyện trong thời gian tới. 52 Ngoài ra, cần tiêu chuẩn hóa về kiến thức, đạo đức đối với luật sư. Không thể chấp nhận luật sư nguyên là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên chưa tốt nghiệp đại học luật. Được biết theo quy định của Luật Luật sư thì tất cả thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên sau khi “về vườn” đều có thể gia nhập đội ngũ luật sư. Nghề luật sư cũng như tất cả các nghề nghiệp trong xã hội phải trải qua thời gian học việc. Ông cha ta lưu truyền câu nói “trăm hay không bằng tay quen”! Muốn được công nhận luật sư thì thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên phải có thời gian tập sự hành nghề luật sư. Dù trước đây họ là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên cao cấp, trung cấp hay sơ cấp cũng phải trải nghiệm thực tiễn vì trong quá trình công tác, chưa hẳn tất cả các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đều thành thạo nghiệp vụ mọi lĩnh vực hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Chẳng hạn, điều tra viên sơ cấp chỉ được giao nhiệm vụ điều tra án ít nghiêm trọng, nghiêm trọng; điều tra viên trung cấp, cao cấp mới có chức năng điều tra án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Các vụ án không phải là án hình s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_thuc_hien_phap_luat_ve_hanh_nghe_luat_su_tu_thuc_ti.pdf
Tài liệu liên quan