CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG KHI LY HÔN TRONG
TRƯỜNG HỢP VỢ CHỒNG CHUNG SỐNG VỚI GIA ĐÌNH
1.1. Một số khái niệm chung.4
1.1.1 Khái niệm ly hôn .4
1.1.2 Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng .5
1.1.3 Khái niệm vợ chồng sống chung với gia đình .6
1.1.4 Khái niệm chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng sống chung với
gia đình mà ly hôn .7
1.2. Ý nghĩa của quy định về chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp
vợ chồng sống chung với gia đình .8
1.3. Lược sử phát triển quy định pháp luật về chia tài sản chung khi ly hôn
trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình .10
1.3.1 Chế định chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống
chung với gia đình trong Luật Cổ đại.10
1.3.2 Chế định chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống
chung với gia đình trong Luật Cận đại .10
1.3.3 Chế định chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống
chung với gia đình trong Luật Hiện đại.11
1.3.3.1 Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 .12
1.3.3.2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 .12
62 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 37 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực tiễn chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng chung sống với gia đình tại Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài
sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung
mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của
mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình.
Thực tiễn chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình ở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang 26 SVTH: Phan Lâm Hoàng Huynh
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.
Việc vợ chồng tự thỏa thuận về chia tài sản chung khi ly hôn sẽ phù hợp với
nguyện vọng của các bên, tạo điều kiện cho việc thì hành án sau này. Mặt khác tránh tư
tưởng được thua trong khiếu kiện, kéo dài vụ án một cách không cần thiết; tránh được
sự bất đồng, không thỏa mãn với quyết định phân chia của Tòa tạo sự bình thường hóa
quan hệ giữa các bên sau khi ly hôn để có điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con cái, sớm
ổn định cuộc sống gia đình.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
đề cao và tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng, mặc dù quy định việc vợ chồng
có quyền thỏa thuận chia tài sản chung nhưng không đặt ra yêu cầu phải được sự công
nhận của Tòa án. Tuy nhiên để tránh việc thỏa thuận của vợ chồng nhằm mục đích trốn
tránh nghĩa vụ, tẩu tán tài sản, việc thỏa thuận của vợ chồng trong việc chia tài sản
chung khi ly hôn phải phù hợp với các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình.
Truờng hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau, có yêu cầu Tòa án giải
quyết thì Tòa án sẽ thụ lý giải quyết. Về nguyên tắc, phần của vợ chồng trong khối tài
sản chung là ngang bằng nhau, do đó khi vợ chồng ly hôn, tài sản chung được chia đôi.
Tuy vậy, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng và những người khác có
quyền, lợi ích liên quan đến tài sản của vợ chồng, trong từng trường hợp cụ thể, tài sản
chung của vợ chồng không thể chia đôi mà còn phải tuân thủ các nguyên tắc khác, cụ
thể theo quy định tại Khoản 2 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: Việc chia
tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
“ a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét
hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo
lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như
lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên
bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào
nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải
thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.”
Thực tiễn chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình ở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang 27 SVTH: Phan Lâm Hoàng Huynh
Từ bản chất của quan hệ sở hữu chung hợp nhất về tài sản của vợ chồng, mọi tài
sản, thu nhập hợp pháp mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung,
nhưng trong trường hợp vợ chồng chung sống với gia đình tài sản được tính theo phần
trong khối tài sản chung.
Do cuộc sống chung của gia đình không thể tự tay một bên vợ hoặc chồng có thể
xây đắp được, mà nó phải là kết quả đóng góp của các thành viên trong gia đình. Tuy
nhiên vấn đề đặt ra là ý thức của các bên trong việc vun sức xây dựng mái ấm gia đình,
khi một bên tích cực tạo lập, phát triển, duy trì khối tài sản chung, còn bên kia thì
hoang phí, phá tán tài sản chung. Do đó để bảo vệ quyền lợi của bên có ý thức trong
việc xây dựng gia đình, việc phân chia tài sản chung cần có sự cân nhắc về công sức
đóng góp của các bên.
Một điều cần lưu ý, việc xem xét đến “công sức đóng góp” của mỗi bên vào việc
tạo lập, duy trì phát triển tài sản chung không có nghĩa là xem xét xem vợ, chồng ai là
người làm ra nhiều tài sản trong gia đình hoặc ai là người trực tiếp làm ra tài sản. Nếu
hiểu như vậy, vô hình chung không thừa nhận sự tồn tại của sở hữu chung hợp nhất về
tài sản của vợ chồng.
Bên cạnh xem xét “công sức đóng góp”, “hoàn cảnh của mỗi bên” cũng được nhà
làm luật quan tâm và xem như một tiêu chí khi phân chia tài sản chung của vợ chồng.
Tòa án xem xét đến khả năng lao động, điều kiện sức khỏe của các bên vợ, chồng để
phân chia tài sản chung, nhằm tạo điều kiện nhanh chóng ổn định cuộc sống của các
bên sau khi ly hôn.
Khoản 2 Điều 96 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 và Khoản 2 Điều 61 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp vợ chồng sống chung với
gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định
được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản
chung đó để chia.”
Sau khi ly hôn việc đảm bảo đời sống kinh doanh sản sản xuất được quy định cụ
thể trong Điểm c Khoản 2 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điểm c
Khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “Bảo vệ lợi ích chính đáng của
mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao
động tạo thu nhập”.Theo nguyên tắc này Tòa án phân chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn thì cần phải căn cứ vào đặc điểm nghề nghiệp, điều kiện lao động sản xuất,
hoàn cảnh sống của mỗi bên vợ chồng để phân chia tài sản chung của vợ chồng cho phù
Thực tiễn chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình ở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang 28 SVTH: Phan Lâm Hoàng Huynh
hợp, đảm bảo cho các bên vợ, chồng sau khi ly hôn được nhanh chóng đi vào ổn định
cuộc sống riêng.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào
nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh
toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch .Theo nguyên tắc này thì những tài sản có thể
chia bằng hiện vật thì chia theo hiện vật, nếu không thể chia bằng hiện vật thì chia theo
giá trị, tức là thanh toán bằng tiền. Và cũng để đảm bảo công bằng trong quyền lợi của
mỗi bên thì bên nhận được vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng sẽ thanh toán
phần giá trị chênh lệch .
Ngoài ra, Khoản 1 Điều 95 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 và Khoản 4 Điều
59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản riêng của vợ, chồng. Trong
đó tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên ấy, trường hợp có tranh
chấp về tài sản riêng thì vợ, chồng phải có nghĩa vụ chứng minh, nếu không chứng
minh được thì đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, trên cơ sở việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải tuân thủ
nguyên tắc chung thì các Tòa án khi xem xét giải quyết các vụ việc trong thực tiễn, còn
phải biết kết hợp hài hòa các nguyên tắc trên; có như vậy mới đảm bảo được quyền, lợi
ích hợp pháp của các bên về vấn đề tài sản, đồng thời tránh được những tranh chấp kéo
dài giữa vợ chồng mà có thể bị kháng nghị đến cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm.
2.3 Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong trường
hợp vợ chồng chung sống với gia đình ly hôn.
Hậu quả của việc ly hôn sẽ kéo theo sự chấm dứt hoàn toàn của quan hệ nhân
thân và quan hệ tài sản.
Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ
chồng chung sống với gia đình ly hôn chính là vấn đề của sự rạch ròi về tài sản chung
và tài sản riêng của vợ chồng và của cả gia đình.
Điều 96 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“1. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản
của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc
chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức
đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như
vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ
chồng thoả thuận với gia đình; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải
quyết.
Thực tiễn chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình ở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang 29 SVTH: Phan Lâm Hoàng Huynh
2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng
trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn,
phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia.”
Khi nói đến những hậu quả của ly hôn là nói đến những hệ luỵ ảnh hưởng đến
bản thân những người trong cuộc, gia đình và cả xã hội. Khi bản án ly hôn được tuyên
nó thừa nhận sự tan vỡ của một gia đình, mọi quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên
trong gia đình được giải quyết dựa trên cơ sở quyết định hoặc bản án của Toà án, không
loại trừ các thoả thuận khác của các bên đương sự. Hậu quả pháp lý của việc chia tài
sản chung của vợ chồng chung sống với gia đình ly hôn nằm trong những hậu quả của
ly hôn.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, việc phát triển về nội dung ở khoản
2 Điều 61 không làm thay đổi tinh thần của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Cụ
thể Khoản 2 Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường
hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản
chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ
chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của
Luật này”.
Trong quan hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng đây là là mối quan hệ thiêng liêng về
bản chất không vụ lợi, sẵn sàng chia sẽ và hi sinh vì nhau, là quan hệ nền tảng để xây
dựng một gia đình hạnh phúc nền vững. Các cuộc hôn nhân tan vỡ dẫn đến ly hôn, về
bản chất đều xuất phát từ mối quan hệ này bị một trong hai bên phá vỡ. Về nguyên tắc
khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, sự chấm dứt quan hệ vợ chồng
là hậu quả mà các bên ý thức được rõ ràng, quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng
sẽ chấm dứt hoàn toàn, dẫn theo mối quan hệ gia đình giữa người con rể với gia đình
bên vợ hay người con dâu với gia đình bên chồng chấm dứt.
Sau khi bản án hoặc quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì quan
hệ tài sản giữa vợ, chồng cũng hoàn toàn chấm dứt. Tài sản riêng của người nào thì vẫn
thuộc sở hữu riêng của người đó, nhưng phải có nghĩa vụ chứng minh, nếu không
chứng minh được thì sẽ coi đó là tài sản chung. Về tài sản chung với gia đình sẽ chia
theo phần trên cơ sở xem xét đến công sức đóng góp và hoàn cảnh của các bên. Mỗi
bên được sở hữu một phần tài sản và hoàn toàn độc lập trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt đối với tài sản đó.
Quan hệ tài sản chấm dứt nói lên tính chất của vấn đề ly hôn, hậu quả pháp lý của
việc chia tài sản đầu tiên ảnh hưởng đến chính những người trong cuộc, đời sống sau
Thực tiễn chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình ở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang 30 SVTH: Phan Lâm Hoàng Huynh
này của bản thân. Sự thiếu công bằng là điều khó tránh khỏi nhưng vẫn phải đảm bảo
sự chính xác tối đa khi phân chia, dựa trên nguyên tắc tự thoả thuận, nói khác hơn đó là
sự tự nguyện của đôi bên, đây cũng là bản chất tốt đẹp của hôn nhân, mang giá trị nhân
văn sâu sắc khi bước ra khỏi cuộc sống hôn nhân và gia đình cần nêu cao tinh thần
nhân ái, hạn chế tối đa những xung đột giữa vợ, chồng làm tổn thương gia đình, cha mẹ
vợ, chồng và chính các con là người chịu hậu quả nặng nề nhất về vật chất lẫn tinh
thần.
Việc yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản khi vợ chồng chung sống với gia đình
ly hôn tuân thủ theo Điều 96 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000: tài sản của vợ chồng
trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia
một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ
chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống
chung của gia đình.
Khoản 2 Điều 96 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định : “Trong trường hợp
vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung
của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng
được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia.”
Hậu quả của việc “trích” ra từ khối tài sản chung của gia đình để chia cho vợ hoặc
chồng từ tài sản chung thành tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Công việc trích ra này do
đương sự tự thoả thuận hay Toà án đứng ra xem xét và trích phần tài sản xác định được.
Việc xác định tài sản chung, tài sản riêng tuỳ vào từng vụ án cụ thể mà có những
khó khăn khác nhau. Đối với những tài sản đã được xác định là tài sản chung nhưng
việc chia lại gặp vướng mắc trong việc định giá tài sản, sau đó nhận phần chênh lệch
khi xác định tài sản chung.
Việc chia tài sản chung là cần thiết để đảm bảo điều kiện sống cho mỗi bên sau khi
ly hôn. Song đây cũng là hậu quả pháp lý nặng nề nhất, về vật chất lẫn tinh thần của vợ
chồng, của cả gia đình với tư cách là một tế bào của xã hội.
Thực tiễn chia tài sản chung khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình ở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang 31 SVTH: Phan Lâm Hoàng Huynh
CHƯƠNG 3
THỰC TIỂN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN TRONG TRƯỜNG
HỢP VỢ CHỒNG CHUNG SỐNG VỚI GIA ĐÌNH LY HÔN Ở TOÀ ÁN NHÂN
DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH
3.1 Tình hình giải quyết các vụ án Hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp nằm dọc theo Quốc lộ 80, Số
82, thị trấn Cái Tàu Hạ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Địa điểm Toà án nằm
ngay trung tâm kinh tế xã hội của huyện, thuận tiện cho việc tiếp xúc giải quyết yêu
cầu, thưa kiện của người dân trong và ngoài địa bàn.
Biên chế của Toà án nhân dân huyện Châu Thành gồm có 01 Chánh án, 02 Phó
Chánh án, 07 Thẩm phán, 05 Thư ký, 01 Bảo vệ.
Tuy còn gặp không ít khó khăn về môi trường làm việc, cũng như áp dụng pháp
luật vào công việc xét xử và giải quyết án nhưng toàn thể công nhân viên chức luôn cố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thuc_tien_chia_tai_san_chung_khi_ly_hon_trong_truon.pdf