LỜI CÁM ƠN2 T.7
2 TMỤC LỤC2 T .8
2 TDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT2 T .11
2 TMỞ ĐẦU2 T.12
2 T1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI2 T.12
2 T2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU2 T.14
2 T3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU2 T .14
2 T4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC2 T .14
2 T5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU2 T .14
2 T6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU2 T.14
2 T7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU2 T .16
2 TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG2 T .17
2 T1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề2 T .17
2 T1.1.1. Hoạt động bồi dưỡng giáo viên phổ thông2 T.17
2 T1.1.2. Quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở các trường phổ thông2 T .19
2 T1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu2 T.21
2 T1.2.1. Bồi dưỡng - Bồi dưỡng giáo viên2 T .21
2 T1.2.2. Năng lực sư phạm2 T .23
2 T1.2.3. Bồi dưỡng năng lực sư phạm2 T.24
2 T1.2.4. Quản lý - Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên2 T .25
121 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1932 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở các trường trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thức khác có thực hiện nhưng không đều. Tuy nhiên, hình thức thao
giảng lại được đa số CBQL và GV đồng ý là hình thức kiểm tra phù hợp cho GV ( x = 2.28;
y = 2.23), qua thao giảng sẽ đánh giá mức độ tiếp nhận kiến thức cũng như sự học hỏi của
từng cá nhân GV sau khi được bồi dưỡng. Hình thức làm bài thu hoạch cá nhân được GV
đánh giá tương đối phù hợp ( y = 2.08), nhưng CBQL cho rằng hình thức kiểm tra này ít
phù hợp với GV ( x = 1.77). Tuy nhiên mức độ khác biệt ý kiến giữa các CBQL và GV về
các hình thức kiểm tra khác không nhiều (s < 1).
2.2.6. Hiệu quả hoạt động bồi dưỡng GV THPT
Kết quả khảo sát ở bảng 2.13 cho thấy hầu hết CBQL và GV các trường đều có đánh
giá tương đối giống nhau về mức độ triển khai các nội dung bồi dưỡng vào quá trình dạy
học và giáo dục; trong đó các nội dung được triển khai vào dạy học khá nhiều là Phương
pháp soạn đề thi trắc nghiệm ( x = 2.96; y = 2.87); Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của HS ( x =2.93; y = 2.83); Cập nhật kiến thức hiện đại trong chương trình,
SGK mới ( x = 2.85; y = 2.68); Nội dung và phương pháp công tác chủ nhiệm lớp ( x = 2.92;
y = 2.73); Phương pháp hướng dẫn HS tự học ( x = 2.77; y = 2.93); Ứng dụng CNTT – sử
dụng phương tiện KT vào dạy học ( x = 2.76; y = 2.69). Một số nội dung được triển khai rất
ít bao gồm kỹ năng tham vấn học đường ( x = 1.87; y = 1.97); Phương pháp nghiên cứu
khoa học giáo dục ( x = 1.88; y = 1.78). Giao tiếp ứng xử sư phạm là một trong những nội
dung được CBQL và GV đánh giá có bồi dưỡng tương đối thường xuyên nhưng mức độ áp
dụng nội dung này vào quá trình giảng dạy và giáo dục lại chỉ ở mức độ trung bình ( x =
2.48; y = 2.32).
Bảng 2.13. Đánh giá việc triển khai các nội dung bồi dưỡng vào hoạt động dạy học - giáo
dục (ĐTB của thang = 2.5)
STT
Nội dung
Mức độ áp dụng
CBQL GV
x S y S
1 Cập nhật kiến thức hiện đại trong
chương trình, sách giáo khoa mới
2.85 0.5 2.68 0.5
2 Lựa chọn và vận dụng các PPDH
tích cực
2.44 0.5 2.61 0.53
3 Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của HS
2.93 0.58 2.83 0.59
4 Phương pháp soạn đề thi trắc
nghiệm
2.96 0.63 2.87 0.7
5 Ứng dụng CNTT – sử dụng phương
tiện KT vào dạy học
2.76 0.63 2.69 0.6
6 Kỹ năng thiết kế hồ sơ bài dạy theo
hướng đổi mới
2.45 0.5 2.64 0.55
7 Phương pháp hướng dẫn HS tự học 2.77 0.65 2.93 0.68
8 Các chuyên đề tự chọn theo môn học 2.07 0.55 2.10 0.54
9 Kiến thức về tâm lý lứa tuổi HS
THPT
2.69 0.71 2.42 0.68
10 Kỹ năng tham vấn học đường 1.87 0.62 1.97 0.65
11 Nội dung và phương pháp công tác
chủ nhiệm lớp
2.92 0.97 2.73 0.89
12 Thiết kế và tổ chức hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp
2.57 0.62 2.48 0.7
13 Thiết kế và tổ chức hoạt động giáo
dục hướng nghiệp
2.28 0.6 2.27 0.6
14 Giao tiếp ứng xử sư phạm 2.48 0.5 2.32 0.53
15 Phương pháp nghiên cứu khoa học
giáo dục
1.88 0.66 1.78 0.61
Qua phỏng vấn sâu với Thầy Nguyễn Hữu Diệu - Hiệu trưởng trường THPT Thủ Đức
và Thầy Nguyễn Tấn Tài – Hiệu phó trường THPT Võ Trường Toản, hai thầy đều có chung
nhận định rằng hiện nay GV phổ thông gặp khó khăn nhiều ở việc ứng dụng CNTT vào việc
giảng dạy, sử dụng các trang thiết bị hiện đại và kỹ năng quản lý lớp. Nguyên nhân của tình
trạng này chủ yếu là do chưa được tập huấn bài bản và khả năng tự học ở mỗi GV chưa cao.
Những phương pháp dạy học hiện đại, thiết kế hồ sơ dạy học theo hướng đổi mới thường
chỉ được một số GV trẻ áp dụng, tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ tự phát, phong trào mà
chưa chuyển thành ý thức tự giác của tất cả GV. Hơn thế nữa, hiện nay chưa có các tiêu chí
đánh giá cụ thể đối với GV chưa đáp ứng nhu cầu giảng dạy theo hướng đổi mới, vì thế ở
các trường tình trạng giảng dạy theo lối mòn, theo kinh nghiệm vẫn là phương pháp chủ
yếu.
Tóm lại, từ kết quả phân tích trên ta có thể thấy rằng khi đối chiếu với nhu cầu bồi
dưỡng cho GV hiện nay thì mức độ phù hợp của các nội dung, hình thức, phương pháp và
thời gian bồi dưỡng đối với GV chưa cao, vì thế việc triển khai các nội dung sau các đợt bồi
dưỡng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Hiệu quả của hoạt động bồi dưỡng vì thế
cũng chưa đáp ứng mong đợi của ngành cũng như của GV. Do đó để hoạt động bồi dưỡng
GV có hiệu quả cần khắc phục những nhược điểm trên để lựa chọn biện pháp thích hợp.
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở các trường Trung học
phổ thông TP Hồ Chí Minh
Quản lý hoạt động bồi dưỡng GV THPT là một bộ phận của quản lý nhà trường
THPT, có trách nhiệm bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ GV có đầy đủ năng lực sư phạm để có
thể tham gia tích cực, hiệu quả vào việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Để đánh giá
thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở TP.HCM, tác giả tập trung nghiên cứu, tìm
hiểu về mức độ và hiệu quả thực hiện các chức năng quản lý trường học của CBQL các
trường THPT tại TP.HCM.
2.3.1. Xây dựng kế hoạch, chương trình bồi dưỡng giáo viên
Việc xây dựng kế hoạch, chương trình bồi dưỡng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng
quản lý, có tác dụng định hướng cho toàn bộ hoạt động bồi dưỡng diễn ra theo đúng mục
tiêu đề ra, xác định chính xác các nguồn lực (nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí) và thời gian,
không gian... cần cho việc hoàn thành các mục tiêu. Trong thực tế, khi khảo sát công tác xây
dựng kế hoạch, chương trình bồi dưỡng cho GV ở các trường THPT, CBQL và GV đánh giá
như sau:
Bảng 2.14. Đánh giá việc xây dựng kế hoạch, chương trình bồi dưỡng
STT
Xây dựng kế hoạch,
chương trình bồi dưỡng
Mức độ thực hiện Kết quả thực hiện
CBQL GV CBQL GV
x S y S x S y S
1 Tìm hiểu về nhu cầu bồi
dưỡng của GV
1.97 0.75 1.82 0.67 1.87 0.94 1.84 0.85
2 Thiết lập mục tiêu hoạt
động bồi dưỡng GV
2.16 0.79 2.15 0.73 2.09 0.9 2.02 0.9
3 Quy hoạch đối tượng
tham gia bồi dưỡng
2.43 0.68 2.14 0.81 2.23 0.85 2.10 0.92
4 Nắm vững kế hoạch bồi
dưỡng GV của Bộ, Sở
2.40 0.59 2.22 0.82 2.00 0.85 2.03 0.94
5 Xây dựng kế hoạch bồi
dưỡng GV trong kế hoạch
hoạt động năm học của
trường
2.40 0.57 2.23 0.86 2.00 0.87 2.10 0.89
6 Xác định nội dung, hình
thức, phương pháp bồi
dưỡng cho cả năm học
2.36 0.48 2.17 0.86 1.89 0.86 2.08 0.84
7 Hướng dẫn các tổ chuyên
môn xây dựng kế hoạch
bồi dưỡng
2.36 0.63 2.12 0.87 2.13 0.84 2.14 0.84
Trung bình chung 2.3 2.12 2.03 2.04
Các nội dung cụ thể được đánh giá như sau:
- Tìm hiểu về nhu cầu bồi dưỡng của giáo viên
Để việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng phù hợp, thu hút được đông đảo GV tham gia
và có tính khả thi thì công tác tìm hiểu về nhu cầu bồi dưỡng của GV là rất quan trọng. Tuy
nhiên, qua kết quả khảo sát, CBQL và GV đánh giá công tác này ít được các trường thực
hiện thường xuyên ( x = 1.97; y = 1.82), điều này ảnh hưởng không nhỏ đến thái độ và động
lực học tập của GV. Hầu hết CBQL ở các trường khi xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho GV
chưa quan tâm đến việc tìm hiểu nhu cầu cần bồi dưỡng của GV mà chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm quản lý và căn cứ vào các nội dung, yêu cầu bồi dưỡng được phân bổ trừ trên
xuống. Một khi GV không yêu thích nội dung bồi dưỡng, bị áp đặt và có tâm lý thờ ơ, thụ
động, đối phó thì việc bồi dưỡng cho GV coi như thất bại, có nghĩa là công tác xây dựng kế
hoạch sẽ không thiết thực và ít hiệu quả. Điều này phù hợp với kết quả đánh giá của CBQL
và GV về hiệu quả thực hiện công tác này ở các trường ( x = 1.87; y = 1.84). Qua phỏng
vấn sâu với Hiệu Trưởng trường Nam Kỳ khởi nghĩa và Thủ Đức về những khó khăn trong
việc tìm hiểu về nhu cầu bồi dưỡng của GV, Thầy/Cô ở 2 trường cho rằng mức độ thực hiện
chưa đều đặn và ít hiệu quả là do không có thời gian, kinh phí và nhân lực để thực hiện điều
tra khảo sát, tìm hiểu nhu cầu bồi dưỡng của GV.
- Thiết lập mục tiêu hoạt động bồi dưỡng giáo viên
Việc thiết lập mục tiêu hoạt động bồi dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý
chất lượng hoạt động bồi dưỡng GV. Tùy theo từng thời điểm, từng đối tượng và yêu cầu
bồi dưỡng mà khi xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, CBQL phải đề ra được các mục tiêu
chung, mục tiêu cụ thể có ý nghĩa và xác đáng. Mục tiêu bồi dưỡng phải được trình bày
dưới dạng định lượng hoặc định tính (nêu rõ số lượng GV tham gia bồi dưỡng, kỳ vọng về
chất lượng sau khi bồi dưỡng, thời gian hoàn thành việc bồi dưỡng) và phải được thông báo
đến những người thực hiện bồi dưỡng. Đánh giá của CBQL và GV cho thấy, mức độ thực
hiện và hiệu quả công tác này của CBQL ở các trường chỉ đạt mức trung bình ( x = 2.16; y
= 2.15) và ( x = 2.09; y = 2.02). Vì thế dẫn đến thực trạng là tuy tiến hành nhiều hoạt động
bồi dưỡng cho GV nhưng chưa quy định rõ về thời gian và các tiêu chí chất lượng mà GV
phải đạt được nên chất lượng của hoạt động bồi dưỡng trong thời gian qua chưa cải thiện.
- Quy hoạch đối tượng tham gia bồi dưỡng
Căn cứ vào nội dung kế hoạch bồi dưỡng, phân tích nhu cầu bồi dưỡng và kết quả tìm
hiểu tình hình về mọi mặt của đội ngũ GV, CBQL ở các trường tiến hành phân loại GV về
từng mặt: trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức làm
cơ sở cho việc đề ra những yêu cầu và nhiệm vụ bồi dưỡng đối với từng cá nhân. Từ đó
CBQL các trường, đặc biệt là Hiệu trưởng sẽ lên kế hoạch dài hạn, ngắn hạn cho các đối
tượng bồi dưỡng tương ứng với từng nội dung và thống nhất kế hoạch bồi dưỡng đó với các
đối tượng sẽ tham gia bồi dưỡng. Kết quả khảo sát cho thấy CBQL và GV đánh giá công tác
này được thực hiện ở các trường tương đối khá thường xuyên ( x = 2.43, y = 2.14) nhưng
mức độ hiệu quả lại chưa cao ( x = 2.23, y = 2.1). Điều đó chứng tỏ việc quy hoạch đối
tượng tham gia bồi dưỡng chưa tạo được sự đồng thuận cao từ phía các GV. Nguyên nhân
do công tác xây dựng kế hoạch bồi dưỡng GV ở các trường chưa xuất phát từ nhu cầu của
GV cũng như chưa tổ chức các buổi phân tích, đánh giá nghiêm túc, chính xác về trình độ,
năng lực thực sự của đội ngũ GV.
- Nắm vững kế hoạch bồi dưỡng giáo viên của Bộ, Sở GD-ĐT
Trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình bồi dưỡng cho GV ở các trường THPT,
việc nắm vững kế hoạch bồi dưỡng GV của các cấp quản lý là một yêu cầu quan trọng đối
với CBQL ở các trường. Đánh giá của CBQL và GV cho thấy việc nắm vững các kế hoạch
bồi dưỡng cấp trên ở các trường được thực hiện khá thường xuyên ( x = 2.4, y = 2.22), vì
đây là căn cứ để các trường xây dựng kế hoạch bồi dưỡng GV thống nhất chung. Tuy nhiên,
việc nắm vững các kế hoạch bồi dưỡng các cấp lại được CBQL các trường vận dụng ít hiệu
quả trong việc xây dựng kế hoạch của trường mình, theo ý kiến đánh giá của CBQL và GV
các trường khảo sát ( x = 2.0, y = 2.03). Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do kế
hoạch bồi dưỡng của Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT chưa sát với nhu cầu thực tế của các trường,
thiếu sự định hướng, chỉ đạo thực hiện cụ thể.
- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên trong kế hoạch hoạt động năm học của
trường
CBQL và GV đánh giá công tác này được thực hiện khá thường xuyên với điểm trung
bình ( x = 2.4 và y = 2.23) vì đây là yêu cầu bắt buộc trong kế hoạch hoạt động của nhà
trường. Tùy theo mục tiêu của năm học và yêu cầu chất lượng đội ngũ GV mà mỗi trường
có kế hoạch bồi dưỡng chi tiết từng năm học, từng học kì khác nhau. Đánh giá của CBQL
và GV các trường khảo sát cho thấy mức độ hiệu quả của công tác này chỉ ở mức độ trung
bình ( x = 2.0 và y = 2.1), có nghĩa là ở nhiều trường, CBQL chưa thực sự chú trọng nhiều
đến chất lượng của việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng GV trong kế hoạch hoạt động năm
học. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng hoạt động bồi dưỡng
chưa cao.
- Xác định nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng cho cả năm học
Để việc bồi dưỡng đạt được mục tiêu như dự kiến ban đầu thì việc chọn lựa nội dung,
phương pháp, hình thức bồi dưỡng sao cho phù hợp với GV là một nhiệm vụ khá khó khăn
của người quản lý trường học trong việc xây dựng chương trình bồi dưỡng GV. CBQL các
trường phải xác định rõ ràng các nội dung, phương pháp và hình thức cần bồi dưỡng cho
GV trong từng giai đoạn, từng học kì và năm học. Điều này phụ thuộc nhiều vào năng lực
của CBQL các trường. Kết quả khảo sát cho thấy CBQL và GV đánh giá việc này được thực
hiện tương đối thường xuyên trong kế hoạch bồi dưỡng ( x = 2.36 và y = 2.17), tuy nhiên
hiệu quả của công tác này chỉ được đánh giá ít hiệu quả ( x = 1.89 và y = 2.08). Kết quả này
cho thấy việc xác định nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng chưa được CBQL ở các
trường đầu tư nghiêm túc và chất lượng.
- Hướng dẫn các tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch bồi dưỡng
Để việc quản lý đạt hiệu quả, CBQL các trường cần hướng dẫn cho GV dựa vào kế
hoạch của các cấp QLGD xây dựng kế hoạch cho tổ, nhóm và bản thân từng GV trong việc
nâng cao năng lực dạy học, năng lực giáo dục HS, năng lực quản lý lớp. Công việc này theo
đánh giá của CBQL và GV thì CBQL các trường thực hiện khá thường xuyên ( x = 2.36 và
y = 2.12) và tương đối hiệu quả ( x = 2.13 và y = 2.14). Kết quả này chứng tỏ CBQL các
trường khá chú trọng đến trách nhiệm của tổ chuyên môn trong việc bồi dưỡng cho GV.
Nhìn chung, qua khảo sát công tác xây dựng kế hoạch, chương trình bồi dưỡng cho
GV ở các trường cho thấy CBQL các trường chưa chủ động xây dựng kế hoạch, chương
trình bồi dưỡng cụ thể và thiết thực cho GV. Tuy một vài tiêu chí được cho là thực hiện khá
thường xuyên và tương đối đạt hiệu quả như việc quy hoạch đối tượng tham gia bồi dưỡng;
hướng dẫn các tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch bồi dưỡng; xác định nội dung, phương
pháp, hình thức bồi dưỡng cho cả năm học nhưng lại chưa chú ý tìm hiểu nhu cầu bồi dưỡng
của GV. Điều này giải thích cho lý do hầu hết GV ở các trường THPT hiện nay chưa nhiệt
tình tham gia với các hoạt động bồi dưỡng bắt buộc tại trường. Ngoài ra, việc xây dựng kế
hoạch bồi dưỡng có hiệu quả, chi tiết hay không còn tùy thuộc vào năng lực, kinh nghiệm
quản lý và khả năng dự đoán trước của người CBQL trường học; vào nhu cầu của từng
trường và mức độ phối hợp giữa các cấp quản lý theo ngành dọc và hàng ngang. Do đó, với
các tiêu chí chưa được đánh giá cao cần phải có hướng khắc phục trong thời gian tới để
công tác này đạt được hiệu quả cao.
2.3.2. Tổ chức, chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng giáo viên
Tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch bồi dưỡng cho GV của trường phụ thuộc vào
nhiều yếu tố: nguồn lực, cách thức, thời gian, kinh phí, Khi tổ chức thực hiện thì việc
phân công, phân nhiệm là rất cần thiết. CBQL, GV đã đánh giá công tác này như sau:
Bảng 2.15. Đánh giá việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng
ST
T
Tổ chức, chỉ đạo hoạt động
bồi dưỡng
Đánh giá thực hiện Đánh giá hiệu quả
CBQL GV CBQL GV
x S y S x S y S
1 Xây dựng ban chỉ đạo hoạt
động bồi dưỡng GV của
trường
2.01 0.94 1.95 0.85 1.97 0.91 1.95 0.94
2 Hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể nội
dung và cách thức tổ chức
hoạt động bồi dưỡng cho tổ
chuyên môn
2.19 0.82 2.13 0.79 2.19 0.75 1.87 0.9
3 Hướng dẫn, chỉ đạo, tạo điều
kiện cho GV thực hiện kế
hoạch tự bồi dưỡng
2.07 0.89 2.11 0.82 1.95 0.88 1.79 0.92
4 Tổ chức hoạt động bồi dưỡng 2.35 0.85 2.31 0.76 2.33 0.81 2.10 0.94
tập trung theo kế hoạch tập
huấn của Bộ, Sở GD-ĐT
5 Tổ chức thực hiện các chuyên
đề bồi dưỡng thường xuyên ở
trường
1.85 0.83 2.23 0.77 1.85 0.85 1.97 0.9
6 Tổ chức thực hiện các chuyên
đề bồi dưỡng thường xuyên ở
tổ chuyên môn
1.95 0.84 2.11 0.82 1.97 0.84 1.93 0.86
7 Tổ chức tọa đàm, giao lưu,
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm
với các trường bạn
1.85 0.78 1.93 0.81 1.85 0.85 1.85 0.83
8 Theo dõi, đôn đốc, giám sát
việc thực hiện hoạt động bồi
dưỡng
1.88 0.88 1.93 0.87 1.89 0.78 1.98 0.89
9 Phối hợp các lực lượng trong
hoạt động bồi dưỡng 1.99 0.88 2.14 0.86 1.91 0.87 1.98 0.92
Trung bình chung 2.02 2.09 1.99 1.94
Qua bảng khảo sát ta có thể nhận thấy ít có sự chênh lệch giữa CBQL và GV trong
đánh giá công tác tổ chức, chỉ đạo bồi dưỡng GV ở các trường. Nhìn chung, chức năng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng GV của CBQL các trường THPT trong thời gian qua
được đánh giá là chưa thực hiện thường xuyên và chưa thực sự hiệu quả. Cụ thể như sau:
- Xây dựng ban chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng giáo viên của trường
Để công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng GV đạt hiệu quả và sâu sát, việc xây dựng
ban chỉ đạo bồi dưỡng ở từng trường là rất cần thiết. Tuy vậy, theo đánh giá của CBQL và
GV trong quá trình khảo sát cho thấy, đây là công việc ít thực hiện thường xuyên ( x = 2.01
và y = 1.95). Nguyên nhân là không có chế độ, kinh phí riêng cho tổ chức này hoạt động.
Ban chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng chỉ được thành lập khi hoạt động bồi dưỡng được tổ chức
tập trung, đại trà theo chỉ đạo của Bộ GD-ĐT và Sở GD-ĐT, còn các hoạt động bồi dưỡng
khác thì Hiệu trưởng thường kiêm luôn nhiệm vụ này và không có các văn bản pháp quy
riêng. Chính vì thế, CBQL và GV các trường khảo sát đã không đánh giá cao hiệu quả của
công tác này ( x = 1.97 và y = 1.95).
- Hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể nội dung và cách thức tổ chức hoạt động bồi dưỡng
cho tổ chuyên môn.
Hoạt động bồi dưỡng cho GV chủ yếu trong thời gian qua là bồi dưỡng về chuyên môn
và các phương pháp giảng dạy áp dụng cụ thể vào trong hoạt động dạy học vì thế vai trò của
tổ chuyên môn rất quan trọng. CBQL cần hướng dẫn, chỉ đạo cho các Tổ chuyên môn phát
huy vai trò tự chủ của mình trong việc bồi dưỡng các GV trong tổ. Tuy nhiên, đánh giá của
CBQL và GV cho thấy công tác này được CBQL ở các trường thực hiện chỉ ở mức độ trung
bình ( x = 2.19 và y = 2.13) và còn ít hiệu quả ( x = 2.19 và y = 1.87). Điều đó cho thấy vai
trò chủ động của Tổ chuyên môn trong công tác bồi dưỡng GV chưa được tạo điều kiện và
phát huy.
- Hướng dẫn, chỉ đạo, tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện kế hoạch tự bồi dưỡng
Bên cạnh việc chỉ đạo những hoạt động do tổ, nhóm, nhà trường tổ chức, tùy theo trình
độ và năng lực của từng cá nhân mà Ban giám hiệu các trường giao nhiệm vụ tự bồi dưỡng
cho cán bộ, giáo viên về những nội dung mà cá nhân đó cần bồi dưỡng theo bản quy hoạch
dự kiến. Muốn GV tự giác bồi dưỡng thì CBQL, Ban giám hiệu ở các trường cần có sự định
hướng, chỉ đạo và tạo điều kiện để GV thực hiện. Theo đánh giá, CBQL và GV cho rằng
công tác này có thực hiện nhưng ít thường xuyên ( x = 2.07 và y = 2.11), vì thế hiệu quả
chưa cao ( x = 1.95 và y = 1.79). Có thể thấy, hiện nay công tác tự bồi dưỡng của GV còn
mang tính chất tự phát, chưa có sự quan tâm, chỉ đạo và hướng dẫn từ phía lãnh đạo các
trường, vì thế chưa duy trì và mở rộng thói quen tự học, tự bồi dưỡng của GV.
- Tổ chức hoạt động bồi dưỡng tập trung theo kế hoạch tập huấn của Bộ GD-ĐT,
Sở GD-ĐT
Đây là cách làm truyền thống được áp dụng lâu dài trong hoạt động bồi dưỡng GV
được triển khai hàng năm vào dịp hè hay vào thời gian chuẩn bị cho một sự thay đổi nào đó
trong lĩnh vực giáo dục (cải cách giáo dục, thay đổi SGK,). Hầu hết các trường đều phải
tổ chức thực hiện nhiệm vụ này theo sự chỉ đạo trực tiếp từ Sở GD-ĐT. Vì thế, đa số CBQL
và GV đều đánh giá công tác này được thực hiện khá thường xuyên ( x = 2.35 và y = 2.31)
và CBQL đánh giá là khá hiệu quả ( x = 2.33). Tuy nhiên, việc nâng cao trình độ cho GV và
mức độ vận dụng kiến thức sau các đợt bồi dưỡng nay chưa được quan tâm theo dõi, tổng
kết, đánh giá. Chính vì vậy, mà theo đánh giá của GV, hiệu quả của nó còn nhiều hạn chế
( y = 2.10).
- Tổ chức thực hiện các chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên ở trường
Tổ chức hội thảo theo hình thức chuyên đề là biện pháp tốt để nâng cao chất lượng
năng lực sư phạm cho đội ngũ GV trong trường. Việc tổ chức thường xuyên sẽ giúp GV bổ
sung những kiến thức thiếu hụt trong chuyên môn, nâng cao và cập nhật những kiến thức
mới. Tuy nhiên, khó khăn của công tác này là thiếu hụt đội ngũ GV có chuyên môn sâu,
kinh phí tổ chức còn hạn chế và thời gian tổ chức nên theo đánh giá của CBQL công tác này
ít thực hiện và ít hiệu quả ở các trường ( x = 1.85). GV thì đánh giá công tác này có tiến
hành tương đối thường xuyên ( y = 2.23) nhưng chất lượng các buổi này không cao ( y =
1.97).
- Tổ chức thực hiện các chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên ở tổ chuyên môn
Đánh giá của CBQL và GV cho thấy, việc tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng ở tổ
chuyên môn là ít thực hiện thường xuyên ( x = 1.95 và y = 2.11). Nguyên nhân là do chưa
phân cấp mạnh trong quản lý cũng như Tổ trưởng chuyên môn của các trường chưa thực sự
chủ động và có kinh nghiệm trong việc tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên.
Hiệu quả của công tác tổ chức này vì thế chưa được đánh giá cao ( x = 1.97 và y = 1.93).
Điều này minh chứng cho việc tổ chức các chuyên đề ở tổ chuyên môn hiện nay còn mang
tính chất tự phát, chưa chất lượng và thiếu sự đầu tư thường xuyên để nâng cao chất lượng
trong việc bồi dưỡng GV.
- Tổ chức tọa đàm, giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với các trường bạn
Mỗi trường có những điểm mạnh riêng do đặc thù về vị trí địa lý cũng như trình độ đội
ngũ CBQL, GV phân bố không đồng đều, vì thế việc học hỏi kinh nghiệm của các trường
lẫn nhau sẽ rất hữu ích trong công tác tổ chức hoạt động bồi dưỡng GV. Trên thực tế, theo
đánh giá của GV và CBQL cho thấy, việc tổ chức các hình thức tọa đàm, giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm giữa các trường về chuyên môn, nghiệp vụ ít được thực hiện thường xuyên ( x =
1.85 và y = 1.93) và ít hiệu quả ( x = 1.85 và y = 1.85). Qua trao đổi ý kiến với một số
Hiệu trưởng, nguyên nhân là do chưa có một chuẩn thống nhất để đánh giá chất lượng đào
tạo của mỗi trường cũng như chất lượng đội ngũ GV vì thế việc tổ chức các buổi hội thảo,
dự giờ giữa các trường hiện nay chỉ mang tính chất giao lưu, trình diễn hơn là được học hỏi
kinh nghiệm giảng dạy lẫn nhau.
- Theo dõi, đôn đốc, giám sát việc thực hiện hoạt động bồi dưỡng
Muốn tổ chức hoạt động có chất lượng, phải có sự theo dõi, đôn đốc va giám sát việc
thực hiện bồi dưỡng. Tuy nhiên, theo đánh giá của CBQL và GV của các trường khảo sát,
công tác này được CBQL ở các trường thực hiện chưa thường xuyên ( x = 1.88 và y = 1.93)
và ít hiệu quả ( x = 1.89 và y = 1.98). Lý do là thiếu lực lượng phụ trách riêng công việc bồi
dưỡng, hầu hết đều làm kiêm nhiệm nên mức độ sâu sát với công việc chưa cao. Việc đề ra
kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch các trường đều tiến hành nhưng do thiếu kiểm tra, đôn
đốc nên kết quả của các đợt bồi dưỡng thường không đạt được như ý muốn.
- Phối hợp các lực lượng trong hoạt động bồi dưỡng
CBQL đánh giá mức độ phối hợp các lực lượng trong hoạt động bồi dưỡng là ít được
thực hiện thường xuyên, điểm trung bình ( x = 1.99), trong khi giáo viên lại cho rằng công
tác này được thực hiện tương đối thường xuyên với điểm trung bình ( y = 2.14). Sự khác biệt
này tuy không nhiều nhưng qua quan sát thực tế cho thấy CBQL đánh giá tương đối chính
xác công tác này trong hoạt động bồi dưỡng GV.
Đánh giá về mức độ hiệu quả của công tác phối hợp các lực lượng trong hoạt động bồi
dưỡng GV, CBQL và GV cho rằng công tác này đạt hiệu quả chưa cao ( x = 1.91 và y =
1.98). Có thể thấy hiện nay các hoạt động bồi dưỡng cho GV với quy mô lớn thường được
triển khai từ Bộ GD-ĐT. Do chu trình quản lý một chiều từ trên xuống, cũng như chưa có sự
phân cấp mạnh trong vấn đề bồi dưỡng GV, chính vì vậy mà tính chủ động phối hợp với các
lực lượng tham gia hoạt động bồi dưỡng của CBQL các trường THPT là không cao. Hiệu
trường ở các trường hầu như chỉ tổ chức thực hiện theo yêu cầu, chỉ đạo của Sở. Các trường
hầu như cũng chưa có ban chỉ đạo về công tác bồi dưỡng GV, chưa đầu tư điều tra, nghiên
cứu để nắm bắt những thiếu hụt về năng lực sư phạm của GV trường mình.
Qua phỏng vấn CBQL một số trường được khảo sát, họ nhận thấy rằng việc thực hiện
công tác phối hợp này là có nhưng mức độ phối hợp tốt hay xấu phụ thuộc rất nhiều vào
cung cách quản lý cũng như tính cách của người lãnh đạo trường học. Điều đó dẫn tới hiệu
quả của việc phối hợp giữa các lực lượng giáo dục không đồng đều, thiếu chặt chẽ, thống
nhất.
2.3.3. Quản lý việc kiểm tra – đánh giá hoạt động bồi dưỡng giáo viên
Kiểm tra là một chức năng quan trọng của quản lý. Kiểm tra - đánh giá để tạo ra động
cơ, theo dõi và điều chỉnh quá trình bồi dưỡng, qua đó cho biết kết quả hoạt động bồi dưỡng
và mức độ đáp ứng thực tế của GV. Từ đó, người quản lý mới có thể phát hiện, điều chỉnh,
khuyến khích và cổ vũ hoạt động theo đúng hướng kế hoạch. Việc kiểm tra, đánh giá phải
dựa trên chương trình, kế hoạch đã được quy định; phải có tiêu chí, chuẩn mực cụ thể cho
từng hoạt động, có thể định tính, định lượng hoặc thông qua sự thừa nhận của tập thể, của
xã hội trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Kết quả nghiên cứu trong CBQL và giáo viên về quản lý việc kiểm tra, đánh giá hoạt
động bồi dưỡng GV được trình bày ở bảng 2.16 như sau
Bảng 2.16. Đánh giá công tác quản lý việc kiểm tra hoạt động bồi dưỡng GV.
STT Kiểm tra, đánh giá
Mức độ thực hiện Kết quả thực hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5896.pdf