Những nội dung được đánh giá tốt bao gồm: GV giao nhiệm vụ cho HS chuẩn bị bài học lần
sau (thứ bậc 7), GV giảng bài phù hợp với trình độ chung của HS trong lớp (thứ bậc 8), Kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ của GV trình bày trên lớp (nói, diễn đạt, ) rõ ràng ( có âm điệu, đủ lớn để HS
nghe, tốc độ vừa phải) (thứ bậc 9), và những nội dung GV tự nhận thấy mức độ thực hiện thấp: Bài
giảng của GV trang bị cho HS tri thức, kỹ năng và thái độ (thứ bậc 15), GV sử dụng nhiều phương
pháp giảng dạy trong các tình huống khác nhau (thứ bậc 16), GV áp dụng nhiều biện pháp để các
nhóm đối tượng HS có trình độ khác nhau trong lớp đều hiểu bài (thứ bậc 17)
Về phương pháp và kỹ thuật lên lớp, tác giả căn cứ vào kết quả đánh giá thứ bậc và kết quả trị
trung bình nhận thấy rằng theo GV không phải các yếu tố được chọn lựa sắp xếp ở thứ bậc sau là ít
được quan tâm vận dụng trong giờ lên lớp so với các nội dung xếp trước đó mà quan trọng là người
GV phải thật sự uyển chuyển trong việc kết hợp lựa chọn các phương pháp và kỹ thuật lên lớp sao
cho phù hợp với đặc điểm nội dung bài giảng và đặc điểm đối tượng tiếp thu bài giảng. Kết quả về
trung bình cộng không chênh lệch lớn, qua đó có thể nói rằng GV đã rất thận trọng khi cho ý kiến. Để kiểm chứng điều này có phải là thực trạng dạy học hiện nay, tác giả có trao đổi, trò chuyện với một số GV tin cậy, ý kiến thu được có sự tương đồng với ý kiến khảo sát. Vì thế, có thể kết luận rằng: khảo sát trên cho kết quả đáng tin cậy.
98 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5155 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy ở các trường THPT thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Một số ý kiến của HS cho rằng GV ít quan tâm đến trong tiến trình bài giảng và trong hoạt
động giảng dạy nói chung có sự khác biệt lớn về thứ bậc so với GV tự đánh giá. Điều này phản ánh
đúng thực trạng đang tồn tại cần khắc phục trong các nhà trường THPT như đã phân tích ở phần
trên
- Hai ý kiến đánh giá của GV và HS đối với các nội dung về mức độ thực hiện hoạt động
giảng dạy của GV đa số đều được đánh giá khá tốt, tuy có chênh lệch về thứ bậc ở một số nội dung
nhưng không đáng kể. Điều đó cho thấy GV và HS đánh giá tương đối đúng thực trạng .
2.3.3. Thực trạng mức độ thực hiện hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS
Bảng 2.8. Ý kiến đánh giá của GV về mức độ thực hiện hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của HS
Nội dung TB ĐLTC Thứ bậc
GV hướng dẫn HS nắm vững yêu cầu, hình thức, phương pháp đánh giá ngay
khi môn học bắt đầu.
3,56 0,70 9
GV thực hiện việc kiểm tra đánh giá đúng như đã công bố. 3,96 0,68 6
Các câu hỏi dạng thuộc bài chiếm tỷ lệ cao trong đề thi, kiểm tra của GV. 3,30 0,97 10
GV sử dụng đề thi có nhiều câu hỏi thể hiện mức độ khó khác nhau. 3,87 0,56 7
Đề thi, kiểm tra của GV bám sát nội dung môn học. 4,10 0,61 1
GV trả bài kiểm tra kèm theo lời nhận xét cho HS. 3,27 0,73 11
GV sử dụng nhiều hình thức trong kiểm tra giữa kỳ. 3,78 0,70 8
Điểm thi do GV chấm phản ánh được trình độ học tập của HS. 3,97 0,58 5
GV công bố đáp án kèm thang điểm sau khi thi. 4,05 0,59 2
GV thực hiện đúng các quy định về yêu cầu đánh giá HS. 4,01 0,62 3
GV sử dụng kết quả thi, kiểm tra để điều chỉnh phương pháp giảng dạy. 4,00 0,57 4
Qua kết quả điều tra cho thấy:
Theo kết quả khảo sát cho thấy thực trạng về việc thực hiện kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của HS được đánh giá khá tốt. Những biện pháp tối ưu được GV quan tâm thực hiện trong kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của HS như: Đề thi, kiểm tra của GV bám sát nội dung môn học (thứ bậc
1); GV công bố đáp án kèm thang điểm sau khi thi (thứ bậc 2); GV thực hiện đúng các quy định về
yêu cầu đánh giá HS (thứ bậc 3); GV sử dụng kết quả thi, kiểm tra để điều chỉnh phương pháp
giảng dạy (thứ bậc 4); Điểm thi do GV chấm phản ánh được trình độ học tập của HS (thứ bậc 5)
Cũng từ kết quả trên cho thấy, mức độ đánh giá trên đáng tin cậy. Tuy nhiên, qua thăm dò thực
tế, trong số các biện pháp tối ưu theo đánh giá của GV (thứ bậc 1,2,3,4,5) thì biện pháp GV sử dụng
kết quả thi, kiểm tra để điều chỉnh phương pháp giảng dạy (thứ bậc 4) chưa được thực hiện đồng
bộ. Biện pháp này nếu được quản lý thực hiện tốt chắc chắn sẽ cải tiến được chất lượng dạy học ở
địa phương.
Biện pháp: GV sử dụng nhiều hình thức trong kiểm tra giữa kỳ (thứ bậc 8) thực tế chưa có sự
thay đổi. Hình thức kiểm tra giữa kỳ thường vẫn là bài kiểm tra viết thông thường và kiểm tra tập
trung ở một số bộ môn như: Văn, Toán, Lý, Hóa, Ngoại ngữ, điểm số này có thể được sử dụng tính
vào điểm kiểm tra viết 45 phút. Cách đánh giá kết quả học tập của HS theo lối truyền thống này
mang tính định lượng, mặt tốt là kiểm tra được nội dung chương trình HS đã học, mặt trái là chưa
đánh giá toàn diện quá trình học tập của HS trong đó có những vấn đề liên quan đến việc đổi mới
dạy học như: phát huy tính tích cực của HS; làm việc nhóm; chuẩn bị trước giờ học...
Biện pháp Các câu hỏi dạng thuộc bài chiếm tỷ lệ cao trong đề thi, kiểm tra của GV (thứ bậc
10 trên 11 biện pháp) cho thấy nhận thức của GV đã được thay đổi theo quan điểm đổi mới tư duy
kiểm tra đánh giá. Thực trạng cũng cho thấy các dạng câu hỏi theo kiểu kiểm tra học thuộc đã giảm
dần, ngay cả trong các bộ môn khoa học xã hội như sử, địa. Tuy chưa được thực hiện đồng bộ do
hạn chế trong nhận thức GV, nhưng nếu các đề thi tập trung do Sở tổ chức; các đề thi thi tốt nghiệp,
thi tuyển sinh vào đại học, cao đẳng của Bộ làm tốt điều này thì chắc chắn sẽ thay đổi được nhận
thức của GV, khi đó họ sẽ có sự điều chỉnh.
GV trả bài kiểm tra kèm theo lời nhận xét cho HS (thứ bậc 11) được đánh giá ở mức độ trung
bình. Kết quả này rất đáng tin cậy vì thực trạng hiện nay GV rất ít phê nhận xét đối với những thiếu
sót trong bài kiểm tra của HS. Qua trò chuyện thăm dò kiến của GV, qua tổng kết kinh nghiệm
trong quá trình giảng dạy, đa số GV đều cho rằng chỉ có các môn khoa học xã hội vẫn duy trì tốt
còn các môn học khác hầu như không nhận xét hoặc nhận xét chung chung, qua loa. Một nguyên
nhân khách quan là một số môn hiện nay theo quy định được kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm
khách quan cho nên GV cũng không nhận xét cụ thể đối với những sai sót để HS có thông tin điều
chỉnh kiến thức, kỹ năng làm bài, việc nhận xét chỉ ra những thiếu sót của HS là điều cần thiết vì
vậy CBQL cũng nên có biện pháp cải tiến thực trạng này.
Bảng 2.9. ý kiến của HS về mức độ GV thực hiện hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
HS
Nội dung TB ĐLTC Thứ bậc
GV hướng dẫn HS nắm vững yêu cầu, hình thức, phương pháp đánh giá
ngay khi môn học bắt đầu.
3,19 0,92 7
GV thực hiện việc kiểm tra đánh giá đúng như đã công bố. 3,48 1,03 3
Các câu hỏi dạng thuộc bài chiếm tỷ lệ cao trong đề thi, kiểm tra. 3,19 1,06 8
GV sử dụng đề thi có nhiều câu hỏi thể hiện mức độ khó khác nhau. 3,65 0,99 2
Đề thi, kiểm tra bám sát nội dung môn học. 3,71 1,06 1
GV trả bài kiểm tra kèm theo lời nhận xét cho HS. 3,29 1,19 5
GV sử dụng nhiều hình thức thi, kiểm tra. 3,42 1,09 4
Điểm số phản ánh chính xác trình độ học tập của HS. 3,25 1,14 6
Tất cả các môn thi đều có công bố đáp án kèm thang điểm sau khi thi. 3,19 1,31 9
Kết quả điều tra cho thấy:
Đề thi, kiểm tra bám sát nội dung môn học (thứ bậc 1); GV sử dụng đề thi có nhiều câu hỏi thể
hiện mức độ khó khác nhau (thứ bậc 2); GV thực hiện việc kiểm tra đánh giá đúng như đã công bố
(thứ bậc 3); GV sử dụng nhiều hình thức thi, kiểm tra.(thứ bậc 4); GV trả bài kiểm tra kèm theo lời
nhận xét cho HS (thứ bậc 5); Điểm số phản ánh chính xác trình độ học tập của HS (thứ bậc 6); GV
hướng dẫn HS nắm vững yêu cầu, hình thức, phương pháp đánh giá ngay khi môn học bắt đầu (thứ
bậc 7); Các câu hỏi dạng thuộc bài chiếm tỷ lệ cao trong đề thi, kiểm tra (thứ bậc 8); Tất cả các môn
thi đều có công bố đáp án kèm thang điểm sau khi thi( thứ bậc 9).
Nhận xét ý kiến đánh giá của HS với ý kiến đánh giá của GV về mức độ thực hiện hoạt
động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS
Theo kết quả này, ý kiến của HS có sự tương đồng với ý kiến tự đánh giá của GV ở các nội
dung: Đề thi bám sát nội dung kiểm tra môn học (thứ bậc 1); GV hướng dẫn HS nắm vững yêu cầu,
hình thức, phương pháp đánh giá ngay khi môn học bắt đầu (thứ bậc 7); Các câu hỏi dạng thuộc bài
chiếm tỷ lệ cao trong đề thi, kiểm tra (thứ bậc 8); Với kết quả này cho thấy điểm đáng chú ý là: GV
cần phải quan tâm đến việc cung cấp thông tin về hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá để qua
đó HS có thể định hướng đúng phương pháp học tập, kỹ năng kiểm tra trong quá trình học tập.
Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cũng cho thấy các nội dung: GV sử dụng đề thi có nhiều câu hỏi
thể hiện mức độ khó khác nhau (thứ bậc 2); Tất cả các môn thi đều có công bố đáp án kèm thang
điểm sau khi thi (thứ bậc 9) là những nội dung mà HS nhận xét có sự khác biệt lớn so với nhận xét
của GV. Tuy nhiên xét về trung bình cộng không có sự thay đổi lớn. Theo ý kiến đánh giá của HS,
các em cho rằng GV chưa công bố đáp án kèm thang điểm sau khi kiểm tra. Qua tìm hiểu tại các
trường THPT, một số GV thường không công bố đáp án, biểu điểm sau kiểm tra, đặc biệt là các
môn khoa học xã hội. Thực trạng này cần phải được cải tiến.
Bảng 2.10. Ý kiến của CBQL đánh giá kết quả học tập của HS so với yêu cầu của mục tiêu.
Nội dung TB ĐLTC Thứ bậc
Môn học
Môn toán 3,30 0,46 1
Các môn khoa học tự nhiên 3,20 0, 48 2
Các môn khoa học xã hội 2,76 0, 43 3
Ngoại ngữ 2,50 0, 73 4
Thái độ học tập
Tích cực 3,10 0, 66 1
Chủ động 2,90 0, 80 2
Sáng tạo 2,40 1,27 3
Kết quả điều tra cho thấy kết quả về môn học được đánh giá theo thứ bậc từ cao trở xuống:
Toán, Các môn khoa học tự nhiên, Các môn khoa học xã hội và cuối cùng là Ngoại ngữ; còn về thái
độ học tập thì theo các thứ bậc: tích cực, chủ động và sáng tạo.
Kết quả này phản ánh thực tế tại các trường. Nói cách khác, qua ý kiến đánh giá, các CBQL trả
lời có tinh thần trách nhiệm hoặc cách trả lời thang đo có độ ứng nghiệm cao. Điều đáng chú ý ở
đây là đánh giá kết quả học tập của HS chỉ ở mức trung bình.
Trong đó các môn khoa học tự nhiên được đánh giá ở mức gần khá, còn các môn còn lại được
đánh giá trung bình, điều này phù hợp với thực tế và nhận thức của HS. Các em HS ở bậc học
THPT luôn quan tâm và dành nhiều thời gian cho các môn học này vì đây là các môn học thuộc
khối A mà các em đã chọn lựa để thi vào đại học. Còn các môn khoa học xã hội đa số các em ít ham
học, hay nói cách khác đa số các em không đầu tư vì các môn này có ít ngành nghề và có lợi ích
kinh tế thấp hơn so với các ngành nghề khoa học tự nhiên.
Mặt khác, để hấp dẫn, lôi cuốn HS học tập tốt các môn khoa học xã hội, chúng ta cần phải chú
ý đến chương trình học, PPDH, nội dung KTĐG...
Về thái độ học tập: Tính chủ động và sáng tạo của HS được CBQL đánh giá trung bình là rất
phù hợp với đa số HS. Đa số các em dựa vào các thầy cô giáo, chưa tích cực tự giác, chủ động học
tập, đặc biệt ít HS có tính sáng tạo trong học tập.
Bảng 2.11. Ý kiến đánh giá của CBQL về Hoạt động giảng dạy của GV
1. Chuẩn bị giảng dạy: TB ĐLTC Thứ bậc
-Xây dựng kế hoạch giảng dạy 3,96 0,88 1
-Thiết kế giáo án 3,93 0,78 2
-Chuẩn bị phương tiện dạy học 3,50 0,90 3
2.Chất lượng giờ lên lớp:
-Đáp ứng yêu cầu mục tiêu dạy học 3,50 1,10 2
-Thực hiện chương trình 3,70 0,83 1
-Đổi mới phương pháp 3,33 0,84 3
-Sử dụng phương tiện dạy học 3,03 0,71 6
-Ứng dụng công nghệ thông tin 3,03 1,15 7
-Kiểm tra, đánh giá 2,90 1,53 8
-Phát huy tính tích cực học tập của HS 3,23 0,77 4
-Phát huy tính chủ động học tập của HS 3,23 0,85 5
-Phát huy khả năng sáng tạo học tập của HS 2,83 1,05 9
3. Sinh hoạt chuyên môn, tự học:
Dự giờ 3,73 0, 82 1
Thao giảng 3,73 0, 78 2
Hợp tác nhóm 3,43 0, 85 3
Tự học 3,13 0, 77 5
Trao đổi với đồng nghiệp 3,36 0, 55 4
Nhận xét, góp ý giờ dạy 2,90 1,80 6
Qua kết quả điều tra cho thấy:
Về chuẩn bị giảng dạy:
Các nội dung đều được đánh giá khá trong đó: Xây dựng kế hoạch giảng dạy (3,.96); Thiết kế
giáo án (3,93) và Chuẩn bị phương tiện dạy học (3,50).
Theo nhận xét của CBQL, GV có sự chuẩn bị giảng dạy tốt ở các khâu xây dựng kế hoạch và
thiết kế giáo án. Tuy nhiên, đối với khâu chuẩn bị phương tiện dạy học chưa được quan tâm đúng
mức
Về chất lượng giờ lên lớp:
- Được đánh giá khá: Thực hiện chương trình (3,70); Đáp ứng yêu cầu mục tiêu dạy học (3,50)
- Được đánh giá mức độ trung bình: Đổi mới phương pháp; Sử dụng phương tiện dạy học;ứng
dụng CNTT; Kiểm tra, đánh giá; Phát huy tính tích cực học tập của HS; Phát huy tính chủ động học
tập của HS; Phát huy khả năng sáng tạo học tập của HS.
Ý kiến đánh giá của CBQL cho thấy chất lượng giờ lên lớp của GV còn rất nhiều hạn chế,
trong đó các vấn đề yếu kém nhất vẫn là năng lực phát huy tính sáng tạo của HS; các hoạt động:
ĐMPP; Sử dụng phương tiện dạy học; ứng dụng CNTT; Kiểm tra, đánh giá chưa được GV tập trung
thực hiện tốt. Ý kiến đánh giá này cũng có sự tương đồng với ý kiến đánh giá của GV và HS.
Về sinh hoạt chuyên môn, tự học:
- Được đánh giá mức độ khá: Dự giờ (3,73); Thao giảng (3,73)
- Được đánh giá mức độ trung bình:Hợp tác nhóm; Tự học; Trao đổi với đồng nghiệp và Nhận
xét, góp ý giờ dạy.
Kết quả này cho thấy, công tác sinh hoạt chuyên môn, tự học tại các trường còn rất nhiều điểm
yếu và mang tính cá nhân, GV chưa có cái nhìn tích cực trong hợp tác và trao đổi chuyên môn với
đồng nghiệp; hoặc trong nhận xét và góp ý giờ dạy cho đồng nghiệp, người góp ý chưa thật sự thẳn
thắng, người được góp ý vẫn thường bảo thủ, tự ái, thiếu hợp tác, lắng nghe nhận xét để điều chỉnh
những khiếm khuyết của cá nhân.
Tóm lại, ý kiến nhận xét của CBQL về hoạt động giảng dạy của GV đã chỉ ra những điểm mạnh,
cũng như những tồn tại nhất định. So sánh với ý kiến đánh giá của GV và HS không có sự khác biệt lớn.
Tác giả tổng hợp ý kiến của cả ba đối tượng khảo sát cho thấy hoạt động giảng dạy của các trường THPT
trên địa bàn TP. Vũng Tàu bên cạnh những mặt tích cực đã thực thi tốt còn nhiều những tồn tại cần được
chấn chỉnh, cải tiến.
Bảng 2.12. Các mặt đánh giá của GV
Nội dung TBĐH ĐLTC Thứ bậc
Thiết kế bài giảng 3,92 0,28 2
Giảng dạy theo lịch trình và khả năng quản lý lớp 4,07 0,33 1
Phương pháp và kỹ thuật lên lớp 3,86 0,36 3
Áp dung tri thức và phương pháp, kỹ năng vào giờ học 3,25 0,33 4
Kết quả thống kê cho thấy các biện pháp giảng dạy được tính theo TBĐH cho kết đánh giá
mức độ thực hiện lần lượt từ cao xuống thấp. Cụ thể:
Giảng dạy theo lịch trình và khả năng quản lý lớp; Thiết kế bài giảng; Phương pháp và kỹ
thuật lên lớp; Áp dung tri thức và phương pháp, kỹ năng vào giờ học.
Kết quả này cho thấy: Lịch trình và khả năng quản lý lớp được quan tâm thực hiện tốt, việc quản lý lớp
tốt trong giờ lên lớp sẽ làm tăng hiệu quả và chất lượng giờ lên lớp. Khâu thiết kế bài giảng tuy có TBĐH thấp
hơn (3,92) song kết quả đánh giá này ở mức độ khá do đó cũng thể hiện sự quan tâm không nhỏ của GV đối
với hoạt động giảng dạy; Áp dung tri thức và phương pháp, kỹ năng vào giờ học có trị trung bình thấp nhất và
xếp thứ bậc cuối cùng và theo mức đánh giá biện pháp này được đánh giá ở mức độ trung bình. Như vậy, so
sánh với các biện pháp trên cùng bảng 2.11 có thể kết luận biện pháp này ít được GV quan tâm thực hiện hơn.
Để có đánh giá chính xác, tác giả dùng phương pháp chuyên gia phỏng vấn một số đối tượng GV đáng tin cậy,
kết quả đã khẳng định mức độ đánh giá trên đúng với thực trạng. Đây cũng chính là cơ sở xác lập biện pháp
cải tiến thực trạng.
Bảng 2.12. Các mặt đánh giá của GV theo giới tính
Khi kiểm nghiệm F được dùng và 2 cột trị số F và P có trong bảng:
- Nếu P < 0,05 thì kiểm nghiệm F có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các tham số của khách
thể nghiên cứu về cách đánh giá ý kiến đó;
- Nếu P > 0,05 thì kiểm nghiệm F không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các tham số
của khách thể nghiên cứu về cách đánh giá một ý kiến đó.
Kết quả thống kê cho thấy: Nhìn vào cột P không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê.
Nhóm nam và nhóm nữ vừa có cùng quan điểm vừa có sự khác biệt trong đánh giá mức độ thực
hiện các biện pháp giảng dạy. Cụ thể như sau:
- Nam đánh giá cao hơn nữ: Thiết kế bài giảng; Giảng dạy theo lịch trình và khả năng quản lý
lớp.
Nội dung
Nam Nữ
F P
TBĐH ĐLTC TBĐH ĐLTC
Thiết kế bài giảng 3,95 0,26 3,89 0,29 1,58 0,21
Giảng dạy theo lịch trình và khả năng quản lý lớp 4,09 0,30 4,05 0,35 0,59 0,44
Phương pháp và kỹ thuật lên lớp 3,86 0,35 3,86 0,37 0,00 0,99
Áp dung tri thức và phương pháp, kỹ năng vào giờ học 3,21 0,30 3,28 0,35 1,74 0,18
- Nữ đánh giá cao hơn nam: Áp dung tri thức và phương pháp; Kỹ năng vào giờ học
- Nam đánh giá như nữ: Phương pháp và kỹ thuật lên lớp
Bảng 2.13. Các mặt đánh giá của GV theo thâm niên công tác
Các mặt đánh giá của giáo viên
dưới 5
năm
từ 6 đến 15
năm
từ 16 đến
25 năm
25 năm
trở lên
F P
TB
ĐH
ĐL
TC
TB
ĐH
ĐL
TC
TB
ĐH
ĐL
TC
TB
ĐH
ĐL
TC
Thiết kế bài giảng 3,93 0,25 3,89 0,30 4,00 0,17 3,92 0,36 0,93 0,42
Giảng dạy theo lịch trình và khả
năng quản lý lớp
4,06 0,26 4,08 0,33 4,15 0,26 4,02 0,46 0,65 0,57
Phương pháp và kỹ thuật lên lớp 3,90 0,23 3,83 0,36 3,94 0,26 3,80 0,57 0,87 0,45
Áp dung tri thức và phương pháp,
kỹ năng vào giờ học
3,29 0,32 3,22 0,30 3,20 0,34 3,33 0,45 1,00 0,39
Kết quả thống kê cho thấy: Không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê trên cột P; Các
nhóm GV có thâm niên công tác khác nhau đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp giảng dạy
khác nhau cụ thể như sau:
- Thiết kế bài giảng: Nhóm GV có thâm niên công tác từ 16 đến 25 đánh giá cao nhất, tiếp
theo là nhóm GV công tác dưới 5 năm, tiếp theo là nhóm GV công tác từ 25 năm trở lên và cuối
cùng là nhóm GV công tác từ 6 đến 15 năm.
- Giảng dạy theo lịch trình và khả năng quản lý lớp: Nhóm GV có thâm niên công tác từ 16
đến 25 đánh giá cao nhất, tiếp theo là nhóm GV công tác từ 16 đến 15 năm, tiếp theo là nhóm GV
công tác dưới 5 năm và cuối cùng là nhóm GV công tác từ 25 năm trở lên.
- Phương pháp và kỹ thuật lên lớp: Nhóm GV có thâm niên công tác từ 16 đến 25 đánh giá cao
nhất, tiếp theo là nhóm GV công tác dưới 5 năm, tiếp theo là nhóm GV công tác từ 6 đến 15 năm trở
lên, cuối cùng là nhóm GV công tác trên 25 năm.
- Áp dung tri thức và phương pháp, kỹ năng vào giờ học: Nhóm GV có thâm niên công tác
trên 25 đánh giá cao nhất, tiếp theo là nhóm GV công tác dưới 5 năm, tiếp theo là nhóm GV công
tác từ 6 đến 15 năm trở lên và cuối cùng là nhóm GV công tác từ 15 đến 25 năm.
2.4. Thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy ở các trường THPT TP.Vũng Tàu
2.4.1. Thực trạng công tác tổ chức, quản lý việc lập kế hoạch và phân công giảng dạy
Bảng 2.14. Ý kiến của CBQL về việc tổ chức thực hiện công việc lập kế hoạch và phân công giảng
dạy
Nội dung TB ĐLTC Thứ bậc
CBQL hướng dẫn cho GV nắm vững:
- Mục tiêu, 2,73 1,74 1
-Kế hoạch, 2,43 2,02 2
-Chương trình dạy học. 1,33 1,91 3
CBQL đầu mỗi học kỳ, yêu cầu đơn vị thuộc quyền và GV:
-Lập kế hoạch giảng dạy của học kỳ, năm học 3,70 1,29 1
-Kiểm tra, 1,40 1,79 2
-Phê duyệt. 0,96 1,51 3
CBQL phân công giảng dạy cho GV dựa vào:
-Trình độ đào tạo 3,46 1,10 2
-Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ 3,50 1,10 1
-Nguyện vọng của GV 2,03 1,90 3
-Điều kiện cụ thể của GV 1,40 1,88 4
-Kết hợp giữa trình độ, năng lực chuyên môn; nguyện vọng và điều kiện cá nhân của GV 1,16 1,82 5
CBQL phân công khối lượng giờ giảng cho từng GV:
-Không vượt tiêu chuẩn qui định, 3,72 0,52 3
-Đảm bảo tính vừa sức. 1,20 1,86 4
CBQL tạo điều kiện cho GV thực hiện đúng kế hoạch giảng dạy. 4,03 0, 18 1
CBQL kiểm tra và xử lý việc thực hiện kế hoạch tháng, học kỳ, năm học của đơn vị 3,96 0, 80 2
Kết quả điều tra cho thấy:
Về CBQL hướng dẫn cho GV nắm vững:
- Được đánh giá mức độ trung bình: Mục tiêu và Kế hoạch,
- Được đánh giá mức độ kém: Chương trình dạy học.
Theo đánh giá trên cho thấy việc hướng dẫn cho GV nắm vững mục tiêu kế hoạch và chương
trình dạy học chưa được CBQL quan tâm đúng mức. Điều này cũng đúng với tình hình thực tế. Đặc
biệt là chương trình dạy học. Mỗi CBQL chỉ có thể nắm vững duy nhất chuyên môn của mình tuy
nhiên họ phải điều hành, chỉ đạo GV thực hiện chương trình cho tất cả các môn học. Phần lớn việc
triển khai cho GV được thông qua các tổ trưởng chuyên môn. Mặc khác hiện nay giáo trình của ta
cũng có nhiều điều bất cập giữa người triển khai và người thực hiện ở rất nhiều vấn đề, vì thế CBQL
cũng có khó khăn trong việc triển khai đến GV. Đây chính là thực trạng yếu kém trong cách quản
lý. Tuy nhiên, để khắc phục điều này phải có sự chỉ đạo chung từ phía Bộ GD&ĐT thông qua sự
phản hồi của đội ngũ GV trực tiếp giảng dạy.
Về CBQL đầu mỗi học kỳ, yêu cầu đơn vị thuộc quyền và GV:
- Được đánh giá mức độ khá: Lập kế hoạch giảng dạy của học kỳ, năm học.
- Được đánh giá mức độ kém: Kiểm tra, Phê duyệt.
Qua đánh giá trên cho thấy CBQL đã thực hiện khá tốt công tác lập kế hoạch. Có thể nói đây
là một khâu rất quan trọng và là một trong những kỹ năng quản lý không thể thiếu được cùa CBQL.
Việc yêu cầu các tổ, nhóm chuyên môn và GV xây dựng kế hoạch giảng dạy vào đầu năm học để từ
đó có đủ thông tin để xây dựng kế hoạch đào tạo của nhà trường, có kế hoạch công tác cụ thể giúp
nhà quản lý điều hành công việc dễ dàng hơn, khoa học hơn. Bên cạnh đó kết quả khảo sát cũng cho
thấy đa số CBQL rất ít quan tâm việc kiểm tra, phê duyệt việc lập kế hoạch giảng dạy của GV.
Về CBQL phân công giảng dạy cho GV dựa vào:
- Được đánh giá mức độ khá: Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
- Được đánh giá mức độ trung bình: Trình độ đào tạo
- Được đánh giá mức độ kém: Nguyện vọng của GV, Điều kiện cụ thể của GV, Kết hợp giữa
trình độ, năng lực chuyên môn; nguyện vọng và điều kiện cá nhân của GV.
Kết quả đánh giá trên cho thấy khi phân công chuyên môn, CBQL rất quan tâm đến năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ còn các yếu tố khác ở mức độ thấp hơn. Đánh giá này rất đúng với thực
trạng. Có thể nói năng lực chuyên môn, nghiệp vụ là thước đo chuẩn nhất để CBQL dựa vào đó
phân công giảng dạy hợp lý. Tuy nhiên trong phân công giảng dạy nếu CBQL biết kết hợp giữa
trình độ, năng lực chuyên môn, nguyện vọng và điều kiện cá nhân của GV trong một số trường hợp
có thể thì việc làm này sẽ động viên được GV giảng dạy tốt. Nhưng thực tế cho thấy, ở không ít đơn
vị, CBQL chưa quan tâm đến điều này và cũng không ít CBQL khi phân công chuyên môn lại
không đặt năng lực chuyên môn, nghiệp vụ lên hàng đầu đối với một vài đối tượng nào đó do cả nể
hay vì một lý do nào khác điều này ảnh hưởng đến quyền lợi học tập của HS.
Về CBQL phân công khối lượng giờ giảng cho từng GV
- Được đánh giá mức độ khá: CBQL tạo điều kiện cho GV thực hiện đúng kế hoạch giảng dạy,
Không vượt tiêu chuẩn qui định, CBQL kiểm tra và xử lý việc thực hiện kế hoạch tháng, học kỳ,
năm học của đơn vị. Kết quả đánh giá trên cho thấy CBQL luôn quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi
cho GV trong phân công cũng như giám sát kế hoạch giảng dạy của GV. Trong phân công có căn cứ
vào chuẩn quy định số tiết giảng dạy đối với GV.
- Được đánh giá mức độ kém: Đảm bảo tính vừa sức. Kết quả đánh giá này có thể nói là chưa
đảm bảo độ chính xác. Vì khi phân công chuyên môn, bất kỳ CBQL nào cũng phải dựa vào chuẩn
quy định về số tiết giảng dạy và đây cũng là yếu tố đảm bảo tính vùa sức. Tuy nhiên phải nhìn nhận
rằng khi phân công do mặt bằng về trình độ, về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ GV
không đồng đều. Do đó đôi khi sẽ có tình trạng CBQL phải phân công cho GV có khả năng tốt đảm
nhiệm nhiều tiết hơn, thậm chí vượt quá giờ quy định. Thực trạng này khá phổ biến và hầu như diễn
ra ở hầu hết các trường hiện nay.
2.4.2. Tổ chức-quản lý thực hiện công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho GV
Bảng 2.15. Ý kiến của CBQL về việc tổ chức thực hiện bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho GV
Nội dung TB ĐLTC Thứ bậc
CBQL lập qui hoạch bồi dưỡng và phát triển đội ngũ GV phù hợp với năng
lực của từng GV.
3,30 0, 53 2
CBQL tổ chức sinh hoạt học thuật cho GV. 3,23 0, 50 3
CBQL tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ GV. 3,50 0, 90 1
CBQL tổ chức bồi dưỡng phương pháp giảng dạy mới và kỹ năng lựa chọn,
sử dụng phương pháp dạy học cho GV.
3,23 0, 81 3
CBQL tổ chức bồi dưỡng kỹ năng cho GV:
- Xây dựng giáo trình điện tử 0,83 1,34 5
- Ứng dụng công nghệ thông tin 3,06 1,31 1
- Sử dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại trong giảng dạy 1,10 1,60 4
CBQL tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho GV 2,40 0,96 3
CBQL kiểm tra và xử lýkịp thời việc GV tham gia chưa tốt các hoạt động
bồi dưỡng nâng cao trình độ
3,06 1,25 1
Kết quả điều tra cho thấy: Nhận thức của các CBQL về tổ chức thực hiện công việc bồi dưỡng,
nâng cao trình độ cho GV cũng rất rạch ròi, CBQL đã mạnh dạng chỉ ra những điểm mạnh và
những khiếm khuyết trong công tác tổ chức bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho GV.
- Được đánh giá khá: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ GV
- Được đánh giá ở mức TB khá: Lập qui hoạch bồi dưỡng và phát triển đội ngũ GV phù hợp
với năng lực của từng GV; Tổ chức sinh hoạt học thuật cho GV; Tổ chức bồi dưỡng phương pháp
giảng dạy mới và kỹ năng lựa chọn, Sử dụng phương pháp dạy học cho GV; Ứng dụng CNTT
- Được đánh giá kém: Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho GV; Sử dụng các
phương tiện, thiết bị hiện đại trong giảng dạy; Xây dựng giáo trình điện tử.
2.4.3. Tổ chức, quản lý công việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của GV
Bảng 2.16. Ý kiến của CBQL về việc tổ chức quản lý công việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của
GV
Nội dung TB ĐLTC Thứ bậc
CBQL phổ biến cho GV các qui định về yêu cầu soạn bài trước khi lên lớp 4,13 0,89 1
CBQL phổ biến cho GV các qui định sử dụng:
- giáo trình chính, 2,83 1,89 3
-tài liệu giảng dạy, 2,00 2,03 4
-tài liệu tham khảo đối với từng môn học. 1,20 1,86 5
CBQL có biện pháp khuyến khích GV sử dụng tài liệu do GV tự biên soạn
trong công tác chuyên môn.
3,60 1,10 2
CBQL quán triệt đến từng GV:
- nội dung chương trình môn học, 3,56 1,45 1
- đề cương chi tiết môn học. 1,36 1,97 4
CBQL tổ chức thảo luận để thống nhất nội dung cơ bản của giáo án hoặc
bài giảng giữa các GV cùng dạy một môn học
3,16 1,14 2
CBQL yêu cầu GV tìm hiểu HS để chuẩn bị bài và giảng dạy phù hợp với
đối tượng.
3,03 0,99 3
CBQL tổ chức cho GV trao đổi về:
- phương pháp giảng dạy, 2,70 1,44 4
- kỹ năng sử dụng các thiết bị mới. 0,90 1,49 5
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVQLGD096.pdf