PHẦN MỞ ĐẦU. 5
1. Lý do chọn đề tài . 5
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu . 7
3. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài . 16
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu . 17
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu . 18
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu . 18
7. Phương pháp nghiên cứu . 19
8. Khung phân tích. 22
CHưƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI . 23
1.1. Khái niệm công cụ . 23
1.1.1. Tín ngưỡng . 23
1.1.2. Thờ Mẫu . 25
1.1.3. Hành vi thờ cúng Mẫu Âu Cơ . 28
1.1.4. Tính thiêng. 30
1.1.5. Giá trị . 31
1.1.6. Định hướng giá trị. 32
1.2. Lý thuyết áp dụng . 33
1.2.1. Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý . 33
1.2.2. Lý thuyết hành động xã hội . 34
1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu. 35
1.3.1. Đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội xã Hiền Lương . 35
1.3.2. Lịch sử hình thành và đặc điểm của Đền Mẫu Âu Cơ . 36
20 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 639 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Thực trạng thờ cúng mẫu Âu cơ của người dân xã Hiền lương - Hạ hòa - Phú Thọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
...................................... 51
3.1. Thời điểm đi lễ đền Mẫu Âu Cơ của ngƣời dân xã Hiền Lƣơng ....................... 51
3.2. Mục đích đi lễ tại đền Mẫu Âu Cơ của ngƣời dân ............................................. 56
3.3. Sự tham gia các hoạt động tại đền Mẫu Âu Cơ của ngƣời dân ......................... 60
3.4. Hành vi dâng hƣơng tại các địa điểm trong đền Mẫu Âu Cơ của ngƣời dân .... 68
3.5. Sự chuẩn bị đồ lễ khi đến dâng hƣơng tại đền Mẫu Âu Cơ của ngƣời dân ..... 73
3.6. Các yếu tố cá nhân ảnh hƣởng tới nhận thức và hoạt động thờ cúng
Mẫu Âu Cơ của ngƣời dân xã Hiền Lƣơng .............................................................. 76
3.6.1. Một số yếu tố cá nhân ảnh hưởng tới hiểu biết của người dân về
đền Mẫu Âu Cơ ......................................................................................................... 76
3.6.2. Một số yếu tố cá nhân tác động tới thực trạng thờ cúng Mẫu Âu Cơ
của người dân ........................................................................................................... 81
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................................... 86
1. Kết luận .............................................................................................................. 86
2. Khuyến nghị ....................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 91
PHỤ LỤC .................................................................................................................. 95
3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 0.1: Cơ cấu mẫu khảo sát tại đền Mẫu Âu Cơ - Hạ Hòa - Phú Thọ ..................... 20
Bảng 2.1: Sự khác biệt về giới tính trong đánh giá về tính thiêng của
đền Mẫu Âu Cơ ......................................................................................................... 47
Bảng 3.1: Các hoạt động ngƣời dân có lựa chọn tham gia khi đi lễ tại
đền Mẫu Âu Cơ theo tƣơng quan giữa nam và nữ .................................................... 62
Bảng 3.2: Một số yếu tố cá nhân ảnh hƣởng tới hiểu biết của ngƣời dân về
đền Mẫu Âu Cơ ......................................................................................................... 77
Bảng 3.3: Một số yếu tố cá nhân tác động tới thực trạng thờ cúng Mẫu Âu Cơ
của ngƣời dân ............................................................................................................ 81
4
DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 2.1: Hiểu biết của ngƣời dân xã Hiền Lƣơng về thời điểm xây dựng
đền Mẫu Âu Cơ ......................................................................................................... 40
Biểu đồ 3.1: Các dịp ngƣời dân xã Hiền Lƣơng thƣờng đi lễ tại
đền Mẫu Âu Cơ ......................................................................................................... 51
Biểu đồ 3.2: Sự khác biệt giới trong thời gian ngƣời dân đi lễ tại
đền Mẫu Âu Cơ ......................................................................................................... 53
Biểu đồ 3.3: Mục đích đi lễ trong dịp gần đây nhất của ngƣời dân .......................... 57
Biểu đồ 3.4: Các địa điểm ngƣời dân ghé thăm, thắp hƣơng khi đi lễ tại
đền Mẫu Âu Cơ ......................................................................................................... 71
Biểu đồ 3.5: Sự chuẩn bị đồ lễ gắn với mục đích khi đi lễ tại đền Mẫu Âu Cơ
của ngƣời dân ............................................................................................................ 74
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt, thờ Mẫu là một trong các hình
thức mang những nét đặc trƣng văn hóa, thể hiện lối sống của con ngƣời Việt
Nam. Tín ngƣỡng thờ Mẫu mang sắc thái nguyên thủy và có chiều dài lịch sử
hàng ngàn năm, nó phát triển theo sự phát triển đa dạng của tín ngƣỡng dân
gian mà không theo một quy luật định sẵn nào. Tín ngƣỡng thờ Mẫu đƣợc bảo
tồn qua lễ hội, qua niềm tin và qua đời sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong
đời sống tinh thần của ngƣời dân, để lại những giá trị văn hóa vật chất, văn
hóa tinh thần và văn hóa tổ chức cộng đồng rất đặc sắc trên nhiều phƣơng
diện. Trong đó, tín ngƣỡng này hƣớng tới một thế giới đề cao, tôn vinh những
giá trị của ngƣời phụ nữ. Ngƣời phụ nữ giữ một vai trò vô cùng quan trọng
trong lịch sử phát triển của loài ngƣời. Ở Việt Nam hình ảnh ngƣời phụ nữ
luôn đƣợc coi trọng. Sự coi trọng đó đƣợc thể hiện qua tín ngƣỡng thờ Mẫu
nhằm ca ngợi các vị nữ thần có công lao với đất nƣớc, ban phát sự may mắn,
hi vọng và trừ ma quỷ, những vị nữ thần gắn với các hiện tƣợng tự nhiên, vũ
trụ đƣợc ngƣời đời tôn vinh là các chức năng sáng tạo ra muôn loài và mang
sự sống đến cho con ngƣời nhƣ: Trời, đất, sông nƣớc. Nguồn gốc lịch sử
của tín ngƣỡng thờ Mẫu không đƣợc ghi chép rõ ràng trong sách mà nó chỉ là
sự truyền miệng của dân gian về ngƣời phụ nữ. Có một số nhà nghiên cứu cho
rằng tục thờ Mẫu có nguồn gốc từ thời Tiền sử khi ngƣời Việt thờ các thần
linh thiên nhiên, các thần linh này kết hợp trong khái niệm Thánh Mẫu hay
còn gọi là nữ thần Mẹ. Theo thời gian khái niệm Thánh Mẫu đƣợc mở rộng để
bao hàm các nữ anh hùng trong dân gian - những ngƣời phụ nữ nổi lên trong
lịch sử với vai trò ngƣời bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này
đƣợc kính trọng, tôn thờ và cuối cùng đƣợc thần thánh hóa để trở thành một
trong các hiện thân của Thánh Mẫu.
6
Tín ngƣỡng thờ Mẫu ngày càng phát triển trong xã hội hiện đại. Với những
giá trị văn hóa đặc sắc đƣợc ghi lại trong nhiều công trình tôn giáo, tín
ngƣỡng, các nghi thức, lễ hội tín ngƣỡng thờ Mẫu ở Việt Nam đã để lại
những dấu ấn, giá trị văn hóa tốt đẹp, góp phần làm giàu thêm bản sắc văn
hóa Việt Nam.
Thờ mẫu từ bao đời nay đã trở thành mỹ tục thấm đậm nét văn hóa đặc
trƣng của ngƣời Việt. Lễ hội đền Quốc mẫu Âu Cơ thuộc xã Hiền Lƣơng,
huyện Hạ Hòa đƣợc coi là khởi thủy của mỹ tục này. Đền mẫu Âu Cơ là nơi
thờ Mẹ Âu Cơ đƣợc xây dựng từ thời Hậu Lê, nằm trên địa phận xã Hiền
Lƣơng, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ ngày nay. Tƣơng truyền là nơi mẹ Âu
Cơ bay về trời. Xuất xứ của tục thờ Mẫu Âu Cơ từ truyền thuyết trăm trứng,
trăm con mà mẹ Âu Cơ - ngƣời mẹ của dân tộc Việt Nam. Đền Mẫu Âu Cơ là
một công trình lịch sử văn hóa đặc biệt, là biểu tƣợng của tinh thần yêu nƣớc
và truyền thống đại đoàn kết dân tộc. Hình tƣợng mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc
cháu Hồng nƣớc Việt trong một bọc trăm trứng đã trở thành hình tƣợng bất hủ
trong tƣ tƣởng tình cảm và tâm trí của các thế hệ ngƣời Việt Nam. Nhắc nhở
mỗi ngƣời dân Việt Nam dù đi xa tới đâu, dù đang hạnh phúc hay hoạn nạn,
vẫn có một nơi để trở về. Đó là nơi mẹ Âu Cơ đã để lại dải lụa đào rồi bay về
trời. Hình ảnh ngƣời mẹ nhân từ của dân tộc vừa nhắc nhở mỗi chúng ta luôn
khắc ghi đạo lý “Uống nƣớc nhớ nguồn”, vừa tiếp thêm sức mạnh cho dòng
giống Tiên Rồng giữ vững tinh thần đoàn kết, tự lực tự cƣờng để xây dựng và
bảo vệ từng tấc đất tổ tiên truyền lại.
Không chỉ vậy, thờ Mẫu Âu Cơ còn là một hiện tƣợng mang tính phổ
biến không chỉ ở xã Hiền Lƣơng mà còn ở nhiều vùng khác trên khắp đất
nƣớc Việt Nam. Những năm gần đây, hoạt động thờ Mẫu nói chung và thờ
cúng Mẫu Âu Cơ nói riêng là vấn đề rất đáng đƣợc quan tâm. Sự phát triển
của khu di tích đền Mẫu Âu Cơ chứng tỏ sức ảnh hƣởng mạnh mẽ đối với
đời sống tín ngƣỡng tâm linh tại cộng đồng bản địa. Tuy nhiên, ta cũng nhìn
7
thấy tính hai mặt trong cùng một vấn đề của tín ngƣỡng này. Đứng trên góc
độ của ngƣời nghiên cứu xã hội học, tôi mong muốn làm rõ thực trạng,
những biến đổi của tín ngƣỡng thờ Mẫu Âu Cơ từ xƣa đến nay. Điều đó vừa
thể hiện những giá trị tôn giáo tốt đẹp, mặt khác cũng xem xét những mặt
trái mà cộng đồng ngƣời dân nơi đây tạo ra trong qua trình thực hiện tín
ngƣỡng thờ Mẫu Âu Cơ.
Có thể nói, mỗi nơi thờ Mẫu đều để lại những dấu ấn riêng mang đậm tính
bản địa. Đặc biệt những địa điểm thờ Mẫu nổi tiếng ở khu vực Bắc Bộ nhƣ Hà
Nội, Nam Định, Tuyên Quang đều có những công trình nghiên cứu một cách
tổng thể và toàn diện về những giá trị cũng nhƣ thực trạng của tín ngƣỡng thờ
Mẫu tại khu vực đó. Tuy nhiên, tại đền Mẫu Âu Cơ đến giờ vẫn có rất ít những
công trình nghiên cứu về tín ngƣỡng thờ Mẫu ở khu vực này. Đa phần các bài
viết trên báo chí chỉ nhắc đến hoặc khái quát đôi nét nhất về truyền thuyết,
nhân vật Mẹ Âu Cơ. Chính vì thế, trong luận văn “ Thực trạng thờ cúng Mẫu
Âu Cơ của người dân xã Hiền Lương - Hạ Hòa - Phú Thọ” của mình, tôi sẽ
đƣa ra những nét khái quát nhất về hoạt động thờ cúng Mẫu Âu Cơ tại xã Hiền
Lƣơng, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Thông qua thực trạng các hoạt động, các
hình thức thờ cúng, tần suất tham gia các hoạt động nghi lễ, thờ cúng của ngƣời
dân nơi đây. Cùng với đó, tôi xin đƣa ra những ý kiến đề xuất nhằm bảo tồn và
phát triển những giá trị tôn giáo tín ngƣỡng tốt đẹp. Góp phần làm tiền đề cho
những công trình nghiên cứu sau về tín ngƣỡng thờ Mẫu Âu Cơ. Đó là những
động lực thúc đẩy tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: “Thực trạng thờ cúng Mẫu
Âu Cơ của người dân xã Hiền Lương - Hạ Hòa - Phú Thọ”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, nghiên cứu về tôn giáo đã thu
hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu từ nhiều góc độ nhƣ tôn giáo học,
triết học, lịch sử, nhân học, tâm lý học và cả xã hội học. Trong các chủ đề
nghiên cứu về tôn giáo, những năm gần đây, việc nghiên cứu về tín ngƣỡng
8
bản địa đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Nghiên cứu
về Đạo Mẫu ở Việt Nam đầu tiên cần kể đến những đóng góp nổi bật của nhà
nghiên cứu Ngô Đức Thịnh trong việc nghiên cứu và tổ chức các nghiên cứu
về Đạo Mẫu trong suốt thời gian qua. Bộ sách Đạo mẫu Việt Nam của ông
đƣợc tái bản nhiều lần và đem lại góc nhìn tổng thể về Đạo Mẫu ở Việt Nam.
Một số các nhà nghiên cứu khác đã có những nghiên cứu cụ thể về tín
ngƣỡng thờ Mẫu ở một số địa phƣơng. Bùi Văn Tam (2004) đã có nghiên cứu
về tín ngƣỡng Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Dầy - Nam Định; tác giả Hồ Đức Thọ và
Phạm Văn Giao (2010) với công trình giới thiệu các nơi thờ tự tiêu biểu trong
nƣớc và lễ thức hầu bóng trong tục thờ Mẫu.
Từ năm 2009 đến nay nhiều hội thảo khoa học về tục thờ Mẫu đã đƣợc
tổ chức, thu hút sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu nhằm làm rõ thêm sự
tích thờ Mẫu ở các địa phƣơng cụ thể. Chẳng hạn nhƣ các hội thảo do Trung
tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tổ chức gồm: “Lễ hội đền Cờn và tục thờ
tứ vị nương nương” tổ chức ở Quỳnh Lƣu Nghệ An vào đầu năm 2009; hội
thảo “Phủ Quảng cung Vỉ Nhuế trong tục thờ Mẫu Việt Nam” tại xã Yên
Đồng (Ý Yên, Nam Định) vào tháng 11 năm 2009; hội thảo “Quốc Mẫu Tây
Thiên trong tục thờ Mẫu Việt Nam” tổ chức vào tháng 3 năm 2010 tại Tam
Đảo, Vĩnh Phúc.
Khi nghiên cứu về đạo Mẫu ngày càng đƣợc quan tâm nhiều hơn, có
khá nhiều bài viết, nghiên cứu về Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Theo Vũ Ngọc
Khánh: “Tính từ thế kỷ XVII đến nay (không kể đến những ý kiến viện dẫn
hoặc phân tích trên các sách báo và các thần tích lƣu tại các địa phƣơng và
các phủ điện thờ) sơ bộ đã có 25 công trình với ba ngôn ngữ (Hán nôm,
Việt, Pháp) viết về Chúa Liễu - Mẫu Liễu Hạnh gồm: Sách Hán Nôm (Vân
Cát Lê gia ngọc phả; Truyền kỳ tân phả; Vân Cát thần nữ cổ lục ), sách
Quốc ngữ và chữ Pháp (Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính; Truyện thần nữ
Vân Cát của Thiên Đình hay Nam Phong 1930; Sự tích Liễu Hạnh công
9
chúa của Trọng Hối 1959; Leculte des immortels Nguyễn Văn Huyên
1944). Các nghiên cứu về Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì: “Lê Gia ngọc phả” vẫn
là tài liệu trƣớc nhất ghi chép về Liễu Hạnh. Và có thể khẳng định là Đoàn
Thị Điểm đã dựa vào truyền thuyết dân gian để sáng tạo, hƣ cấu nhiều hơn”
[41]. Trong bài viết “Tín ngưỡng Mẫu Liễu nhìn từ góc độ văn hóa học”
(2012) tác giả Đặng Thế Đại đã đặt câu hỏi: Hầu hết các nữ thần Việt Nam
đều là có công lao lớn với dân tộc và nhân dân. Đó là mẹ Âu Cơ - ngƣời mẹ
chung của dân tộc, là các nữ thần tổ nghề dạy dân trồng cây, dệt vải, nuôi
tằm Khác với họ Mẫu Liễu chỉ là một ngƣời phụ nữ bình thƣờng. Nhƣng
vì sao Mẫu Liễu lại trở thành vị nữ thần đƣợc thờ phụng nhiều nhất, phổ
biến nhất, đƣợc tôn vinh là Mẫu nghi thiên hạ. Tác giả đã đƣa ra câu trả lời
vì ở Mẫu Liễu có những phẩm chất của một ngƣời phụ nữ bình thƣờng.
Chính vì vậy, Mẫu Liễu trở thành vị nữ thần đậm tính ngƣời nhất và gần gũi
với ngƣời nhất. Sau khi miền Nam đƣợc giải phóng (1975) cả nƣớc đƣợc
thống nhất, các nhà nghiên cứu có nhiều điều kiện tập trung nghiên cứu
nhiều hơn, các loại hình văn hóa tín ngƣỡng cũng đƣợc nghiên cứu một cách
đa dạng, phong phú và cụ thể hơn.
Chúng ta biết rằng, tín ngƣỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là một tín ngƣỡng
có từ rất lâu. Nó là một tín ngƣỡng dân gian có nguồn gốc bản địa và bắt
nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nƣớc và là một hình thức tôn vinh
ngƣời phụ nữ làm Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vƣơng Mẫu. Vũ Ngọc Khánh,
tác giả của cuốn sách “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam ” (tái bản có sửa chữa,
bổ sung năm 2001), tác giả có viết về các tín ngƣỡng dân gian Việt Nam
hiện nay, trong đó có cả tín ngƣỡng thờ Mẫu, tín ngƣỡng Tam phủ - Tứ phủ.
Nhƣng không nghiên cứu sâu từng loại hình tín ngƣỡng mà chỉ nêu khái quát
từng loại hình tín ngƣỡng dân gian mà thôi. Nhƣ cuốn “Di sản văn hóa dân
tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam ”, tác giả Lê Quang Trứ (2000)
có viết về tín ngƣỡng thờ Mẫu nhƣng còn sơ sài, tác giả mới chỉ dừng lại ở
10
giới thiệu dàn đều bốn loại hình tín ngƣỡng chủ yếu tại Việt Nam chứ chƣa
đi sâu cụ thể.
Có nhiều quan điểm khác nhau về thờ Mẫu. Có quan điểm cho rằng thờ
Mẫu đã trở thành một tôn giáo sơ khai, nhƣng lại có những quan điểm không
đồng tình, chỉ khẳng định thờ Mẫu là một tín ngƣỡng dân gian Điều này
càng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là
những ngƣời quan tâm đến lĩnh vực tín ngƣỡng, tôn giáo. Trong tác phẩm
“Đạo Mẫu ở Việt Nam” năm 1996 hay cuốn “Đạo Mẫu và các hình thức
Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á” năm 2004 của tác giả
Ngô Đức Thịnh (chủ biên). Ở đây, tác giả đã đƣa ra những luận chứng khẳng
định tín ngƣỡng thờ Mẫu ở Việt Nam đã trở thành Đạo Mẫu. Bài viết “Sơ
lược về bước đi của Đạo Mẫu trong lịch sử Việt Nam” của tác giả Trần Lâm
Biền chỉ ra Đạo Mẫu không cố định về hệ thần linh, mà theo những mốc phát
triển lớn của lịch sử dân tộc để biến đổi theo. Quá trình phát triển của Đạo
Mẫu gắn liền và phản ánh về một khía cạnh nào đó của bƣớc đi lịch sử dân
tộc. Bên cạnh đó, ở lĩnh vực thờ cúng, vì là tín ngƣỡng dân gian nên thần điện
cũng rất đa dạng, tùy nơi, tùy lúc mà có thể khác nhau. Cuốn sách “ Tìm hiểu
tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ” của tác giả Mai Thanh Hải xuất bản năm
2005, tác giả đƣa ra quan điểm thờ Mẫu ở Việt Nam có cội nguồn bản địa và
thờ Mẫu bắt nguồn từ triết lý nhân sinh, nhƣ một sự khẳng định nguồn gốc
của Đạo Mẫu ở nƣớc ta. Cuốn “Văn hóa Thánh Mẫu ” của Đặng Văn Lung
(2004), tác giả đã rất tâm huyết với vấn đề “Mẫu ” nên đƣa ra rất nhiều các tƣ
liệu về các “Mẫu” nhƣng lại viết dƣới góc độ văn hóa, văn học và lịch sử chứ
chƣa xét dƣới góc độ tín ngƣỡng và tôn giáo. Trong cuốn sách “Các vị nữ
thần Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Hảo và Mai Thị Ngọc Chúc có giới thiệu
75 vị nữ thần tiêu biểu của nƣớc ta. Tuy nhiên còn khá nhiều các vị nữ thần
chƣa đƣợc đề cập đến. Trong đó, tác giả nhắc tới Mẫu Âu Cơ ngoài là biểu
tƣợng cho đất nƣớc, là Mẫu của dân tộc Việt thì còn là tổ sƣ nghề lúa nƣớc.
11
Đối với những ngƣời nông dân trồng lúa nƣớc thì đất, nƣớc và cây lúa đƣợc
coi là biểu tƣợng mang tính thiêng liêng và các vị thần đó đều mang nữ tính:
Mẹ Đất, Mẹ Nƣớc, Mẹ Lửa, Mẹ Lúa. Qua đó, có thể thấy rõ vai trò quan
trọng của Mẫu trong tôn giáo tín ngƣỡng ngƣời Việt.
Văn hóa thờ nữ thần thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc ở chỗ, nó là hiện
tƣợng văn hóa có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh ngừơi
Việt, tức là có sự hiện diện ở mọi vùng miền của đất nƣớc (từ Bắc - Trung -
Nam, cả miền đồng bằng lẫn miền núi), đƣợc mọi tầng lớp cƣ dân trong xã
hội, không kể sang hèn, địa vị xã hội, tin theo và tôn kính. Ở miền Bắc, ta có
thể tìm thấy điện thờ mẫu ở trong hầu hết kiến trúc cấu thành của các ngôi
chùa. Đó là tính chất phổ biến và sự lan tỏa của nó trong đời sống xã hội.
Theo tác giả Ngô Đức Thịnh thì “Trong 27 vị thần tiên có nguồn gốc thuần
Việt, có tới 17 vị là tiên nữ, trong số hàng ngàn di tích đƣợc giới thiệu đã có
250 di tích thờ cúng các nữ thần và danh nhân là nữ. Riêng xung quanh Phủ
Giày thờ Mẫu Liễu, ngƣời ta cũng tìm thấy hơn 20 đền, miếu thờ các nữ thần”
[20]. Xin dẫn ra đây một số đền mẫu điển hình để thấy rõ sự phân bố rộng
khắp và ảnh hƣởng sâu rộng của văn hóa thờ nữ thần ở nƣớc ta: Quốc Mẫu
Âu Cơ, đền Hạ Hòa, Hiền Lƣơng, Phú Thọ; Mẫu Tây Thiên, Tam Đảo, Vĩnh
Phúc; Mẫu Liễu Hạnh, Phủ Giày, Nam Định và Phủ Tây Hồ, Hà Nội; Mẫu
Thiên Yana, điện Hòn Chén, Huế; bà Ponagar, Tháp Bà, Nha Trang; Bà Chúa
Xứ, miếu Bà Chúa Xứ, An Giang; Bà Đen/ Linh Sơn Thánh Mẫu, điện Bà
trên núi Bà Đen, Tây Ninh ... Nhƣ vậy, trong đời sống tinh thần và tâm linh,
nhiều phụ nữ đã trở thành các thần - nữ thần, trong đó có các vị đƣợc tôn
vinh là Mẫu, Thánh mẫu, đạo của dân gian, của dân tộc là đạo Mẫu.
Ngƣời Việt đến với tín ngƣỡng thờ Mẫu luôn với mong muốn đƣợc
Mẫu che chở, bao bọc và phù hộ cho họ gặp đƣợc nhiều điều may mắn, giúp
họ hiện thực hóa đƣợc những mong ƣớc của mình trong cuộc sống - giống
nhƣ ngƣời mẹ luôn quan tâm, lo lắng và theo sát, giúp đỡ những đứa con của
12
mình vậy. Năm 2005, cuốn sách “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam” do Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) cũng viết về tín ngƣỡng thờ Mẫu ở
Việt Nam, nhƣng chỉ đề cập đến khái niệm thờ Mẫu và một số đặc điểm của
tín ngƣỡng thờ Mẫu, chƣa đi sâu vào nguồn gốc, vai trò của tín ngƣỡng
thờ Mẫu ở Việt Nam. Bài viết “Đạo Mẫu, tính độc đáo dân tộc và giá trị
nhân loại” của tác giả Ngô Đức Thịnh viết trên Tạp chí Phát triển kinh tế -
xã hội Đà Nẵng, đã đề cập tƣơng đối đầy đủ về nguồn gốc lịch các đặc điểm
của Đạo Mẫu Việt Nam. Nổi bật trong bài viết đó, ông đƣa ra quan điểm của
mình về giá trị của Đạo Mẫu gồm: Mẹ tự nhiên - một thế giới quan cổ xƣa
của ngƣời Việt, xác lập một nhân sinh quan tín ngƣỡng của ngƣời Việt
hƣớng về đời sống trần thế, đó là cầu mong sức khỏe, tiền tài, phúc lộc. Đạo
Mẫu là một thứ chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam đã đƣợc tâm linh hóa, tín
ngƣỡng hóa, hƣớng con ngƣời đến thái độ sống hòa hợp, hòa nhập, khiến
cho Đạo Mẫu trở thành biểu tƣợng đa văn hóa tộc ngƣời. Và cuối cùng lên
đồng là một nghi lễ quan trọng bậc nhất của Đạo Mẫu, là một hình thức diễn
xƣớng tâm linh, một bảo tàng sống của văn hóa dân tộc Việt [18]. Ngoài ra,
trong một bài viết của mình là “Lịch sử hình thành, biến đổi và những giá
trị cơ bản của đạo Mẫu Việt Nam”, tác giả Ngô Đức Thịnh một lần nữa
khẳng định đạo Mẫu là tín ngƣỡng dân tộc đích thực của Việt Nam. Là tín
ngƣỡng bản địa có nguồn gốc lâu đời, từ thời nguyên thủy, nó thỏa mãn tâm
lý của ngƣời nông dân cầu mong phồn thực, sự sinh sôi nảy nở. Qua từng
giai đoạn lịch sử, đạo Mẫu càng gắn bó sâu sắc trong đời sống tâm linh của
ngƣời dân cùng với các giá trị cơ bản vốn có của mình. Mặc dù, các tác giả,
các nhà nghiên cứu cũng có đề cập tới các giá trị cũng nhƣ vai trò của đạo
Mẫu trong đời sống của ngƣời Việt. Tuy nhiên, đây vẫn là vấn đề cần đƣợc
khai thác nhiều hơn nữa nhằm thấy đƣợc vị trí của đạo Mẫu cũng nhƣ thấy
đƣợc nguyên nhân của sự gắn bó với đạo Mẫu của ngƣời dân từ xa xƣa cho
đến tận bây giờ.
13
Trong tín ngƣỡng thờ Mẫu, giá trị cốt lõi và hấp dẫn tột cùng là các
giá hầu đồng, nhập đồng, múa thiêng. Có thể nói, lên đồng không phải là
một tín ngƣỡng riêng biệt. Nó là một nghi lễ quan trọng nhất của đạo
Mẫu.Mạng lƣới của những ngƣời lên đồng đƣợc gọi là bản hội. Các nhà
nghiên cứu đã đề cập đến bản hội trong những nghiên cứu rất sớm về tín
ngƣỡng tứ phủ bằng cụm từ mạng lƣới các ông đồng bà đồng. M.Durand,
học giả nghiên cứu về tín ngƣỡng tứ phủ vào những năm 40 TK XX, đã nói
về mạng lƣới của “những ông đồng bà đồng Hà Nội đi lễ ở đền Kiếp Bạc
và Hải Phòng" [2]. G.Coulet cũng nêu vắn tắt về đi lễ và đi hầu ở các đền
thờ chính của ông đồng, bà đồng để xả vận xui của một làng xã. Claire
Chauvet khi viết về đi lễ xa trong tín ngƣỡng tứ phủ của ngƣời Việt ở miền
Bắc qua bài viết “Đi lễ trong tín ngưỡng tứ phủ: hình thành lại bản sắc
địa phương và quốc gia ở miền Bắc Việt Nam” mặc dù không trực tiếp sử
dụng từ bản hội, nhƣng những cụm từ mà tác giả nhắc tới nhƣ mạng lƣới,
nhóm ngƣời đã cho chúng ta mƣờng tƣợng ban đầu về bản hội. “Những
cuộc hành hƣơng dựa vào sự tổ chức và các mạng lƣới của một nhóm
ngƣời thƣờng là theo cùng một đền hay điện thờ tƣ gia, đôi khi là một chùa
và của ngƣời đồng đền (phải là ngƣời lên đồng hoặc ít nhất là phải có căn
đồng). Các mạng lƣới tập hợp từ mƣời đến hơn một trăm con nhang đệ
tử..." [2]. Tác giả cũng không quên khẳng định đi lễ xa - đi đến những nơi
mà các vị thần thánh đã đến lúc sinh thời và đã có chiến công là “hoạt động
thuộc cuộc sống hàng ngày”, “nghĩa vụ của các đệ tử” đạo Mẫu. Cuốn sách
“Nghi lễ lên đ ng - lịch sử và giá trị” của Nguyễn Ngọc Mai không chỉ
khảo tả về nghi lễ lên đồng cổ xƣa, mà còn trình bày nó trong mối liên hệ
với các hiện tƣợng tƣơng tự ở Việt Nam và khu vực, cũng nhƣ cố gắng
dựng lại lịch sử phát triển của nghi lễ lên đồng và môi trƣờng xã hội mà nó
hình thành và phát triển, đặc biệt là về đời sống tâm sinh lý, đời sống kinh
tế - xã hội của những căn Đồng và những giá trị, ý nghĩa của nghi lễ lên
14
đồng. Cuốn sách đã phần nào lý giải đƣợc những biến đổi trong đời sống
tâm sinh lý, kinh tế - xã hội của các căn Đồng với tƣ cách là chủ thể của văn
hóa lên đồng. Đồng thời tác giả cũng xem xét mối quan hệ tƣơng tác về
những tác động của kinh tế thị trƣờng, của văn hóa nhóm, văn hóa cộng
đồng và những hệ lụy, hệ quả của nó đến những chủ thể Đồng. Tác giả Ngô
Đức Thịnh trong bài viết “Đạo Mẫu, nghi thức lên đ ng và sự trao quyền
lực cho người phụ nữ” khẳng định: Đối với những phụ nữ theo Đạo Mẫu thì
việc thực hiện nghi thức lên đồng trƣớc hết cho phép họ bƣớc vào thế giới
của các vị thánh - một không gian tâm linh khác với thế giới mà họ đang
sống. Bài viết này của ông phân tích cách mà sự vận động của các giá đồng
trong nghi thức lên đồng phản ánh đời sống văn hóa của ngƣời phụ nữ theo
Đạo Mẫu thông qua một phƣơng pháp quyền lực mềm. Nhƣ phƣơng pháp
phân tích trong chuyến đi lễ của Van Gennep nhấn mạnh vào vai trò biến đổi
của quá trình làm lễ là công cụ chính giúp thực hiện phân tích này. Ông đƣa
ra quan điểm của Rappaport về ảnh hƣởng của nghi thức này đến sự phát
triển văn hóa và những giá trị tín ngƣỡng, tôn giáo cũng là một công cụ phân
tích quan trọng: “Trong nghi lễ, logic trở nên vô hiệu và đƣợc thể hiện qua
những cách rất riêng”. Giải thích của ông về nghi lễ nhƣ “căn cứ cho những
khái niệm tín ngƣỡng tôn giáo (thần thánh, thiêng liêng, huyền bí, siêu
phàm) xuất hiện” là một công cụ phân tích quan trọng và hữu ích của đạo
Mẫu. Tác giả nhấn mạnh, nhiều ngƣời Việt, bao gồm các tín đồ đạo Mẫu,
cho rằng trên đời tồn tại hai thế giới, một thế giới hữu hình do con ngƣời
làm chủ và một thế giới tâm linh vô hình - nơi mà các thánh thần cƣ trú. Họ
tin rằng các vị thánh này có ảnh hƣởng tới cuộc sống của con ngƣời. Những
vị thánh thƣờng thực hiện việc giao tiếp với con ngƣời trần tục thông qua
việc nhập đồng trong nghi thức lên đồng của đạo Mẫu. Thần linh có thể
nhập vào những ông đồng bà đồng bằng các hình thức khác nhau phụ thuộc
vào nhu cầu của ngƣời đi lễ, trong đó có lên đồng, tìm mộ, nhập hồn và gọi
15
hồn. Trong số những hình thức trên thì lên đồng là nghi thức chính của đạo
Mẫu. Các vị Thánh Mẫu đƣợc mời về và ban phúc ban lộc cho con nhang đệ
tử qua các giá đồng. Nghi thức lên đồng trong sinh hoạt tín ngƣỡng đạo Mẫu
là một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh của một số không nhỏ phụ nữ
Việt Nam đƣơng đại. Nghi thức lên đồng chính là sự huyền thoại hóa, bí ẩn
hóa và tâm linh hóa thế giới xã hội thực tại. Trong khoảng thời gian sinh
hoạt nghi thức này, tín đồ đạo Mẫu thể hiện niềm tin vào thế giới tâm linh
thông qua việc thực hiện nghĩa vụ ngồi đồng hay còn gọi là hầu thánh. Họ
tin là đƣợc thánh ban sức mạnh và niềm tin thông qua nghi thức này để họ
có thể vƣợt qua những khó khăn thƣờng nhật và vui sống.
Cuốn “Lịch sử tín ngưỡng Đông Nam Á ” xuất bản năm 2000, tái bản
năm 2003 của Trƣơng Sĩ Hùng (chủ biên), trong đó có bài viết: Thờ Mẫu Việt
Nam một tín ngƣỡng điển hình ở Đông Nam Á. Tại đây, tác giả giới thiệu về
lễ hội thờ Mẫu và bƣớc đầu đƣa ra kết luận tín ngƣỡng thờ Mẫu ở Việt Nam
mang sắc thái điển hì
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004656_2289_2006176.pdf