Xác định quyền tài phán quốc gia đối với những cá nhân phạm tội khủng bố là vấn đề quan trọng được ghi nhận tại hầu hết các công ước quốc tế về chống khủng bố, đây là cơ sở để đảm bảo sao cho mọi hành vi khủng bố quốc tế đều bị trừng trị. Theo quy định tại các công ước quốc tế về chống khủng bố, quyền tài phán được trao cho quốc gia nào đó phải dựa trên 1 trong 5 căn cứ, đó là: quyền tài phán theo lãnh thổ, quyền tài phán theo quốc tịch của người bị tình nghi là phạm tội, quyền tài phán theo quốc tịch của nạn nhân, quyền tài phán bảo vệ và quyền tài phán phổ quát.
110 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2375 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về chống khủng bố, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phạm chủ quyền quốc gia khác” là nguyên tắc quan trọng nhằm tránh cách hành xử tuỳ tiện của các quốc gia, đảm bảo hoà bình và an ninh quốc tế. Tuy nhiên, nguyên tắc này không loại trừ việc các quốc gia và Hội đồng bảo an sử dụng vũ lực hợp pháp theo quy định tại các điều từ 42 đến 47 và Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc.
2.1.2. Pháp luật chống khủng bố và các biện pháp chống khủng bố không được vi phạm các quyền con người cơ bản
Sau sự kiện ngày 11/9/2001, khủng bố quốc tế càng trở thành hiểm họa gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình kinh tế, chính trị và an ninh toàn cầu. Các quyền con người cơ bản cũng đứng trước nguy cơ bị vi phạm và bị lạm dụng nghiêm trọng cả từ phía những hành động khủng bố lẫn những hành động chống khủng bố do một số quốc gia phát động. Nếu các vụ khủng bố liên tục diễn ra trong những năm qua đã cướp đi quyền sống của hàng nghìn thường dân vô tội thì cuộc chiến mang danh chống khủng bố dưới nhiều hình thức kể cả quân sự và phi quân sự đang được một số quốc gia tiến hành đã vi phạm đến một số quyền và tự do cơ bản của con người. Ngày 6/3/2003, phát biểu tại cuộc họp của Ủy ban chống khủng bố thuộc Hội đồng bảo an Liên hợp quốc với các tổ chức quốc tế và khu vực, Tổng thư ký Liên hợp quốc C An-nan nhấn mạnh: "Sự đối phó với chủ nghĩa khủng bố cũng như nỗ lực để ngăn ngừa nó phải nhằm bảo vệ các quyền con người mà những kẻ khủng bố muốn phá bỏ. Tôn trọng các quyền con người, tự do cơ bản và nhà nước pháp quyền là những công cụ cơ bản trong nỗ lực chống lại chủ nghĩa khủng bố." Thông điệp quan trọng mà Liên hợp quốc muốn nhắn gửi đến các quốc gia thành viên khi tiến hành cuộc chiến chống khủng bố là quyền con người cơ bản cần phải được tôn trọng trong mọi trường hợp, kể cả trong tình trạng khẩn cấp [21].
Nguyên tắc đảm bảo các quyền con người là nguyên tắc cơ bản trong pháp luật quốc tế về chống khủng bố và được gián tiếp ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về chống khủng bố thông qua việc quy định chặt chẽ các thủ tục tố tụng và sự hợp tác giữa các quốc gia liên quan đến tội phạm, trong đó các quyền của người bị tình nghi là phạm tội được bảo đảm. Ví dụ, Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin một mặt quy định các biện pháp tạm giam người phạm tội của quốc gia thành viên Công ước để đảm bảo cho việc thực hiện các thủ tục tố tụng hình sự hoặc dẫn độ, nhưng mặt khác quy định các quyền của người phạm tội, bao gồm: “Liên lạc ngay với đại diện thích hợp ở gần nhất của quốc gia mà người đó mang quốc tịch hoặc quốc gia có quyền liên lạc như vậy hoặc quốc gia nơi người đó thường trú nếu người này không có quốc tịch; được đại diện của quốc gia đó đến thăm; được thông báo về các quyền của mình”(() Xem: Khoản 3 Điều 6 Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin 1979.
)… và “bất kỳ người nào đang bị thực hiện các thủ tục tố tụng có liên quan đến bất kỳ tội phạm nào được nêu tại Điều 1 sẽ được đảm bảo sự đối xử công bằng trong tất cả các giai đoạn tố tụng, bao gồm cả việc được hưởng tất cả các quyền và các bảo đảm được quy định trong pháp luật quốc gia nơi người đó có mặt”(() Xem: Khoản 2 Điều 8 Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin 1979.
). Công ước về tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay năm 1963 cũng quy định: “bất kỳ người nào bị tạm giam sẽ được giúp đỡ để liên lạc ngay với đại diện thích hợp gần nhất của quốc gia nơi người đó là công dân”.
Theo quy định của các công ước quốc tế về chống khủng bố, người bị tình nghi phạm tội được hưởng đầy đủ các quyền của mình trong quá trình tố tụng và dẫn độ mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Bảo vệ quyền của người phạm tội cũng là một trong các biểu hiện của quyền con người theo quy định của pháp luật quốc tế - Công ước về các quyền dân sự, chính trị năm 1966. Tại Điều 9, Điều 10 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 ghi nhận: “Ai cũng có quyền tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và theo những thủ tục luật định; Khi bị bắt giữ, bị cáo phải được tức thì thông báo về lý do bắt giữ và phải được thông báo không chậm trễ về tội trạng bị cáo buộc; Bị cáo bị bắt giữ hay giam cầm về một tội hình sự phải được dẫn giải không chậm trễ tới một vị thẩm phán (hay một viên chức có thẩm quyền tư pháp theo luật) để được xét xử trong một thời hạn hợp lý hay được phóng thích… Những người mất tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm…”.
Quyền con người trong cuộc chiến chống khủng bố không chỉ là việc đảm bảo quyền đặc thù của người phạm tội mà còn đảm bảo quyền cơ bản của bất kỳ người dân bình thường nào khác, đó là quyền sống, quyền tự do đi lại, cư trú, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo… Vì lý do đó, đa số các công ước quốc tế về chống khủng bố đều quy định việc không được dẫn độ hoặc tương trợ pháp lý nếu một quốc gia thành viên công ước có đầy đủ cơ sở tin rằng yêu cầu dẫn độ hoặc tương trợ pháp lý nhằm mục đích phương hại đến người khác vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, nguồn gốc sắc tộc hoặc chính kiến của họ. Ví dụ, Điều 12 Công ước quốc tế về trừng trị khủng bố bằng bom quy định: “Không một quy định nào trong Công ước được giải thích là áp đặt nghĩa vụ dẫn độ hoặc tương trợ pháp lý nếu quốc gia thành viên được yêu cầu dẫn độ các tội phạm quy định tại Điều 2 hoặc yêu cầu tương trợ đối với các tội phạm đó đã được đưa ra nhằm mục đích truy tố hoặc trừng trị một người vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, nguồn gốc sắc tộc hoặc chính kiến của người đó hoặc việc đáp ứng yêu cầu đó có thể làm phương hại cho tình thế của người đó vì một trong các lý do trên”.
Ở một số quốc gia hiện nay, để đối phó với khủng bố đã đồng loạt thực hiện các biện pháp thắt chặt an ninh trong đó có việc thông qua các đạo luật nhằm hạn chế một số quyền con người cơ bản. Chẳng hạn, ở Anh, Đạo luật về an ninh, tội phạm và chống khủng bố có hiệu lực từ ngày 1/2/2001 cho phép giam giữ không cần cáo buộc hay xét xử người nước ngoài bị tình nghi là có hành động liên quan đến khủng bố. Quốc gia này cũng đưa ra những biện pháp để hạn chế quyền tìm kiếm tị nạn và quyền của người tị nạn. Trước tình trạng đó, ngày 20/01/2003, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 1456 nhằm lưu ý đến nghĩa vụ pháp lý quốc tế của các quốc gia khi thực hiện các biện pháp hợp tác chống khủng bố. Nghị quyết kêu gọi các quốc gia bảo đảm mọi biện pháp chống khủng bố phải tuân theo các nghĩa vụ trong Luật quốc tế, phù hợp với Luật quốc tế, đặc biệt là Luật nhân quyền, Luật tị nạn và Luật nhân đạo. Nhiều nghị quyết liên quan đến chủ đề này đã được Đại hội đồng thông qua, như Nghị quyết 57/219 (ngày 18/12/2002) với chủ đề “Bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản đồng thời với chống khủng bố”. Nghị quyết tiếp tục khẳng định các nội dung đã được đề cập trong Nghị quyết 1456 của Hội đồng bảo an, coi các quyền con người là "không thể bị vi phạm" và cần phải được tôn trọng một cách đầy đủ ở bất cứ thời gian nào. Cũng theo Nghị quyết này, Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người có trách nhiệm giám sát tình hình nhân quyền của các quốc gia và đưa ra các khuyến nghị cụ thể có liên quan.
Bảo vệ quyền con người trong bối cảnh chống khủng bố cũng là mối quan tâm hàng đầu của các cơ quan nhân quyền khác của Liên hợp quốc bao gồm cả Cao ủy về quyền con người và ủy ban các công ước. Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người phát hành tập san “Pháp luật của Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực về bảo vệ quyền con người đồng thời với chống khủng bố” nhằm cung cấp thông tin pháp lý quốc tế về mối quan hệ giữa bảo vệ quyền con người và chiến lược chống khủng bố cho các quốc gia.
Các cơ quan giám sát việc thực hiện công ước quốc tế như Ủy ban nhân quyền (cơ quan giám sát Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị), Ủy ban công ước chống tra tấn, Ủy ban công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc đều ra các nghị quyết, tuyên bố để nhắc nhở các quốc gia thành viên của mình về việc tôn trọng các nguyên tắc và quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong công ước.
Ngoài ra, cơ chế quyền con người khu vực ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ cũng đã sớm có những ứng phó tích cực nhằm hỗ trợ cho việc tôn trọng, bảo đảm và thực hiện quyền con người ở các châu lục khác nhau trên thế giới. Ủy ban liên Mỹ về quyền con người đã có nghị quyết và báo cáo riêng về khủng bố và quyền con người (12/2001). Đại Hội đồng của Tổ chức các quốc gia châu Mỹ thông qua “Công ước chống khủng bố” vào năm 2002, trong đó Điều 15 đề cập cụ thể đến nghĩa vụ tôn trọng các quyền con người của các quốc gia. Ủy ban Bộ trưởng của Hội đồng châu Âu đưa ra “Hướng dẫn về quyền con người và đấu tranh chống khủng bố” (7/2002) [21].
Như vậy, thông qua các văn kiện pháp lý và các văn bản mang tính khuyến nghị của cộng đồng quốc tế, có thể khẳng định vấn đề bảo đảm quyền con người là nguyên tắc cơ bản, đặc thù của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố. Nguyên tắc này đã góp phần tích cực nhằm tạo ra sự cân đối giữa bảo vệ quyền con người và chống khủng bố. Các thông tin, hướng dẫn và văn kiện pháp lý của Liên hợp quốc chính là định hướng chung cho mỗi quốc gia khi ứng phó với khủng bố.
2.1.3. Mọi hành vi khủng bố quốc tế đều phải bị ngăn chặn và trừng trị, không được viện dẫn lý do chính trị để từ chối hợp tác chống khủng bố
Nguyên tắc này có tên tiếng Latinh là “aut dedere, aut judicare”, có nghĩa là hoặc dẫn độ hoặc xét xử. Mọi hành vi khủng bố quốc tế cần phải được ngăn chặn và trừng trị, không được viện dẫn lý do chính trị để từ chối hợp tác chống khủng bố là nguyên tắc cơ bản trong đấu tranh chống khủng bố quốc tế. Nguyên tắc này thực chất là nguyên tắc phái sinh từ nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau. Trong lĩnh vực chống khủng bố, đây là nguyên tắc vàng không thể thiếu vì nếu không có nó, các quy định của pháp luật quốc tế về chống khủng bố sẽ bị vô hiệu hoá bởi chính sách hai mặt mà không ít các quốc gia thường sử dụng vì những lợi ích chính trị của mình. Nguyên tắc mọi hành vi khủng bố phải bị ngăn chặn và trừng trị được ghi nhận tại hầu hết các công ước quốc tế về chống khủng bố, biểu hiện trước hết ở việc các công ước quy định các quốc gia ký kết sẽ dành cho nhau tối đa sự hỗ trợ trong việc thực hiện các thủ tục tố tụng hình sự đối với các tội phạm(() Xem: Điều 11 Công ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng; Điều 10 Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao; Điều 11 Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin…
). Ngoài ra, nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều 8 Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin: “Quốc gia thành viên nơi người bị tình nghi phạm tội bị phát hiện, nếu không dẫn độ người bị tình nghi phạm tội sẽ có nghĩa vụ chuyển vụ việc này cho các cơ quan có thẩm quyền của mình để truy tố thông qua thủ tục tố tụng theo pháp luật của quốc gia đó, dù tội phạm được thực hiện trên lãnh thổ quốc gia đó hay không và không có bất cứ ngoại lệ nào”. Khoản 2 Điều 8 Công ước về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân cũng quy định: “Mỗi quốc gia thành viên cũng sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để xác định quyền tài phán của mình đối với các tội phạm trong trường hợp người bị tình nghi phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ của mình và quốc gia đó không dẫn độ người này”. Các công ước còn lại cũng có những quy định tương tự như Điều 4 Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn công trình hàng hải; khoản 4 Điều 3 Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn của những công trình cố định trên thềm lục địa; khoản 4 Điều 6 Công ước về trừng trị khủng bố bằng bom…
Trong pháp luật quốc tế, từ lâu đã tồn tại nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị. Tuy nhiên, việc xác định tính chất chính trị của tội phạm được thực hiện trong quá trình xét xử tại toà án và hoàn toàn phụ thuộc chính sách của quốc gia nơi đang có người bị dẫn độ lẩn trốn. Vì vậy, nhiều quốc gia có thể vì lợi ích của mình viện lý do chính trị để không dẫn độ một tội phạm nào đó cho quốc gia khác. Để tránh xảy ra tình trạng này nhằm tăng cường hiệu quả trong đấu tranh chống khủng bố, các công ước quốc tế về đấu tranh chống khủng bố đều quy định các quốc gia không được viện lý do chính trị để từ chối dẫn độ tội phạm. Ví dụ, Điều 11 Công ước quốc tế về trừng trị khủng bố bằng bom quy định: “Vì mục đích dẫn độ hoặc tương trợ pháp lý, không một tội phạm nào quy định tại Điều 2 bị coi là tội phạm chính trị hoặc tội phạm xuất phát từ các động cơ chính trị. Theo đó, yêu cầu về dẫn độ hoặc tương trợ pháp lý đối với tội phạm như vậy không thể bị từ chối vì lý do tội phạm đó liên quan đến tội phạm chính trị hoặc tội phạm xuất phát từ động cơ chính trị”; Điều 6 Công ước về chống tài trợ khủng bố cũng có quy định tương tự: “Mỗi quốc gia thành viên sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết, kể cả việc ban hành pháp luật trong nước nếu thích hợp nhằm đảm bảo rằng dù trong hoàn cảnh nào các vi phạm thuộc phạm vi Công ước này đều không thể được biện minh vì những quan niệm có tính chất chính trị, triết học, hệ tư tưởng, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo hay những tính chất tương tự khác”. Việc từ chối không dẫn độ hoặc tương trợ pháp lý chỉ có thể xảy ra khi một quốc gia tin rằng việc dẫn độ hoặc tương trợ pháp lý đó có thể làm phương hại đến quyền cơ bản của con người dưới danh nghĩa chống khủng bố chứ không phải vì họ đã thực hiện tội phạm như đã phân tích ở nguyên tắc trước.
2.2. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CÁC CÔNG ƯỚC
Đến nay cộng đồng quốc tế vẫn chưa xây dựng được công ước chung về chống khủng bố, do vậy chưa có tiêu chí nào để phân biệt tội khủng bố và các tội phạm khác. Việc đấu tranh chống khủng bố hiện nay căn cứ vào các công ước chuyên ngành, trong đó quy định về các hành vi phạm tội cụ thể mà việc thực hiện một trong số các hành vi này bị coi là biểu hiện của khủng bố quốc tế. Các hành vi theo quy định tại các công ước bao gồm:
- Hành vi chống lại an toàn hàng không dân dụng;
- Hành vi chống lại an toàn hàng hải;
- Hành vi chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao;
- Hành vi bắt cóc con tin;
- Hành vi khủng bố bằng vũ khí hạt nhân;
- Hành vi khủng bố bằng bom;
- Hành vi tài trợ khủng bố;
Trong các hành vi trên đây, hành vi chống lại an toàn hàng không dân dụng được ghi nhận tại 4 điều ước quốc tế là Công ước Tokyo 1963, Công ước Lahay 1970; Công ước Montrean 1971; Nghị định thư bổ sung Công ước Montrean 1971. Theo định nghĩa tại các công ước thì hành vi chống lại an toàn hàng không dân dụng là hành vi có thể hoặc thực sự làm ảnh hưởng đến an toàn của tàu bay, cảng hàng không dân dụng, người và tài sản trên tàu bay, cảng hàng không dân dụng đó.
Tuy đều là các công ước nhằm chống lại hành vi xâm phạm an toàn hàng không dân dụng nhưng mỗi công ước có phạm vi áp dụng riêng. Công ước Tokyo 1963 áp dụng đối với các hành vi vi phạm pháp luật hình sự và các hành vi khác có thể hoặc đang làm ảnh hưởng đến an toàn của tàu bay, người hoặc tài sản trên tàu bay hoặc gây mất trật tự và kỷ luật trên tàu bay khi tàu bay đang trong chuyến bay. Ngoài ra Công ước này cũng áp dụng đối với hành vi chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay (Điều 11). Công ước Lahay 1970 áp dụng đối với hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực và các hình thức đe doạ khác để chiếm giữ hoặc kiểm soát tàu bay một cách bất hợp pháp khi tàu bay đang trong chuyến bay. Công ước Montrean 1971 có phạm vi áp dụng đối với hành vi xâm phạm an toàn của tàu bay đang trong chuyến bay. Nghị định thư bổ sung Công ước Montrean 1988 áp dụng đối với các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế, cụ thể là hành vi chống lại người hoặc các phương tiện của các cảng hàng không này kể cả các máy bay chưa khai thác đang đỗ tại đó.
Phạm vi áp dụng của các công ước nhìn chung đang có sự chồng chéo lẫn nhau và cách giải thích thuật ngữ nêu tại các công ước còn chưa thống nhất. Ví dụ, hành vi uy hiếp hành khách làm ảnh hưởng đến an toàn của tàu bay đồng thời có thể được áp dụng bởi hai công ước là Công ước Tokyo 1963 và Công ước Montrean 1971; ngay cả việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay cũng có thể được điều chỉnh bởi hai công ước là Công ước Lahay 1970 và Công ước Tokyo 1963 (Chương IV - Chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay). Phạm vi áp dụng của Công ước Tokyo 1963 hơn nữa quá rộng, bao gồm cả các hành vi “làm mất trật tự, kỷ luật tốt đẹp trên tàu bay”(() Khoản b Điều 1 Công ước Tokyo 1963 về các tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay.
). Đối với thuật ngữ “tàu bay đang trong chuyến bay” thì cách giải thích tại Công ước Tokyo 1963 và các công ước còn lại có sự khác nhau. Thậm chí ngay tại Công ước Tokyo thì cách giải thích thuật ngữ này cũng khác nhau giữa Chương I (Phạm vi áp dụng của Công ước) và Chương III (thẩm quyền của người chỉ huy tàu bay). Khoản 3 Điều 1 Công ước Tokyo 1963 quy định thời điểm bắt đầu chuyến bay là thời điểm tàu bay nạp nhiên liệu để cất cánh còn thời điểm kết thúc chuyến bay là thời điểm kết thúc lăn bánh sau khi hạ cánh. Khoản 2 Điều 5 Công ước này sau đó lại quy định thời điểm bắt đầu chuyến bay là thời điểm các cánh cửa tàu bay đã đóng lại sau khi xếp tải và kết thúc chuyến bay là khi một trong các cánh cửa này được mở ra để dỡ tải. Các công ước sau này đều quy định thời điểm bắt đầu và kết thúc chuyến bay như tại khoản 2 Điều 5 Công ước Tokyo 1963. Theo quan điểm của chúng tôi, việc quy định thời điểm bắt đầu và kết thúc chuyến bay khác nhau tại Công ước Tokyo 1963 là do có sự liên quan đến thẩm quyền của người chỉ huy tàu bay. Thẩm quyền của người chỉ huy tàu bay chỉ xuất hiện khi các cánh cửa của tàu bay được đóng lại sau khi xếp tải chứ không xuất hiện khi tàu bay nạp nhiên liệu cho nên vì mục đích của Chương III Công ước Tokyo 1963 (thẩm quyền của người chỉ huy tàu bay) mà tại Điều 5 Chương III Công ước này có sự quy định trên. Tuy nhiên, điều này đã gây ra sự không thống nhất ngay trong phạm vi Công ước.
Các công ước nhằm chống lại các hành vi xâm phạm an toàn hàng không dân dụng đều thống nhất chỉ áp dụng đối với các hành vi được thực hiện trên tàu bay dân sự, không áp dụng đối với tàu bay của các lực lượng vũ trang. Tại Điều 1 Công ước Tokyo 1963, Điều 3 Công ước Lahay 1970 và Điều 4 Công ước Montrean 1971 đều quy định công ước không áp dụng đối với tàu bay được sử dụng phục vụ quân đội, hải quan và cảnh sát. Các công ước cũng thống nhất khi quy định sẽ không áp dụng công ước khi tội phạm được thực hiện trong lãnh thổ của quốc gia nơi đăng ký tàu bay. Công ước Tokyo 1963 quy định tại khoản 1 Điều 5: “Các quy định của Chương này (chương Thẩm quyền của người chỉ huy tàu bay) không áp dụng đối với các vi phạm và hành vi do một người thực hiện hoặc sẽ thực hiện trên tàu bay đang trong chuyến bay trên vùng trời của quốc gia nơi tàu bay được đăng ký hoặc đang bay trên vùng biển quốc tế hoặc bất kỳ vùng nào khác nằm ngoài lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào, trừ khi địa điểm cất cánh cuối cùng hoặc dự định hạ cánh tiếp theo nằm trong quốc gia không phải là quốc gia nơi tàu bay được đăng ký hoặc tàu bay đó bay trên vùng trời của quốc gia không phải là quốc gia nơi đang ký nói trên trong khi người đó vẫn đang ở trên tàu bay”; khoản 2 Điều 1 Công ước này quy định: “trừ trường hợp quy định tại Chương III, Công ước này được áp dụng đối với các vi phạm hoặc các hành vi do một người thực hiện trên bất kỳ tàu bay nào được đăng ký tại một quốc gia thành viên trong khi tàu bay đang trong chuyến bay hoặc đang ở trên vùng biển cả hoặc đang ở trên bất kỳ vùng nào khác nằm ngoài lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào”. Công ước Lahay 1970 cũng có những quy định tương tự. Cụ thể, khoản 3 Điều 3 Công ước này quy định: “Công ước chỉ áp dụng nếu nơi cất cánh hoặc nơi hạ cánh thực tế của tàu bay là nơi tội phạm được thực hiện nằm ngoài lãnh thổ của quốc gia đang ký tàu bay đó, dù tàu bay đang thực hiện chuyến bay quốc tế hay chuyến bay nội địa”. Nếu các quốc gia ký kết Công ước thành lập các tổ chức khai thác vận tải hàng không chung hoặc các cơ quan khai thác hàng không quốc tế thì quốc gia đăng ký tàu bay được xác định theo sự chỉ định của các quốc gia này và phải thông báo cho Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế. Để thuận lợi cho việc hợp tác đấu tranh chống khủng bố hàng không, Công ước Lahay 1970 cũng quy định các trường hợp ngoại lệ, đó là cho dù tội phạm được thực hiện trên tàu bay ngay tại lãnh thổ quốc gia đăng ký tàu bay đó nhưng vì lý do nào đó người phạm tội hoặc người bị tình nghi phạm tội bị phát hiện trên lãnh thổ quốc gia khác là thành viên Công ước thì Công ước cũng được áp dụng nhằm phục vụ cho việc dẫn dộ và thực hiện các thủ tục tố tụng hình sự (khoản 5 Điều 3). Đây là quy định chưa được ghi nhận tại Công ước Tokyo 1963. Công ước Montrean 1971 cũng có những quy định về trường hợp ngoại lệ tương tự như Công ước Lahay 1970 tuy nhiên mở rộng phạm vi áp dụng hơn Công ước này. Công ước Montreal 1971 áp dụng trong cả trường hợp khi “nơi cất cánh hoặc hạ cánh dự định” của tàu bay nằm ngoài lãnh thổ quốc gia đăng ký tàu bay chứ không chỉ là “nơi cất cánh hoặc hạ cánh thực tế” như Công ước Lahay 1970.
Cho dù vẫn còn một số khác biệt nhất định, nhưng nhìn chung phạm vi áp dụng của các công ước khá thống nhất, đó là chỉ áp dụng đối với tàu bay dân sự, không áp dụng đối với tàu bay thuộc lực lượng vũ trang và không áp dụng khi tội phạm được thực hiện trên tàu bay trong lãnh thổ của quốc gia đăng ký tàu bay đó. Đây là điều hoàn toàn hợp lý trên cơ sở tôn trọng chủ quyền quốc gia đăng ký tàu bay. Trong trường hợp này họ có toàn quyền xét xử đối với tội phạm và nếu tội phạm có mặt ở nước khác là thành viên công ước thì họ có quyền yêu cầu dẫn độ.
Hành vi chống lại an toàn hàng hải cũng được điều chỉnh bởi 2 điều ước quốc tế là Công ước Rome 1988 và Nghị định thư bổ sung Công ước này. Theo các điều ước quốc tế này, hành vi chống lại an toàn hàng hải bao gồm một trong các hành vi sau:
Chiếm giữ hoặc kiểm soát một chiếc tàu biển hoặc công trình cố định trên thềm lục địa bằng vũ lực, đe doạ sử sụng vũ lực hoặc các hình thức đe doạ khác.
Thực hiện hành vi bạo lực chống lại người trên tàu biển, công trình cố định trên thềm lục địa nếu hành vi đó có khả năng đe doạ an toàn hành trình hàng hải của chiếc tàu biển hoặc công trình cố định đó.
Phá huỷ một chiếc tàu biển hoặc làm hư hại tàu biển hay hàng hoá của tàu biển, công trình cố định trên thềm lục địa dẫn đến khả năng làm hư hại đến an toàn hành trình hàng hải của chiếc tàu biển, công trình cố định đó.
Đặt hoặc chỉ đạo việc đặt trên tàu biển, công trình cố định trên thềm lục địa bằng bất kỳ hình thức nào một thiết bị hoặc chất liệu có khả năng phá huỷ chiếc tàu biển hoặc công trình cố định đó hoặc gây thiệt hại cho tàu biển, hàng hoá hay công trình cố định, dẫn đến nguy hiểm hoặc có khả năng đe doạ an toàn hành trình hàng hải của chiếc tàu biển, công trình cố định đó.
Phá huỷ hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến các thiết bị hành trình hàng hải hoặc can thiệp nghiêm trọng đến sự vận hành của các thiết bị đó dẫn đến khả năng đe doạ an toàn hành trình hàng hải của chiếc tàu biển.
Trao đổi các thông tin người đó biết là giả làm nguy hại đến an toàn hành trình hàng hải của chiếc tàu biển.
Làm bị thương hoặc giết bất kỳ người nào mà việc này liên quan đến việc thực hiện hoặc ý đồ thực hiện các hành vi xâm phạm an toàn hành trình hàng hải nêu trên.
Liên quan đến hành vi xâm phạm an toàn hành trình hàng hải còn có hành vi cướp biển được định nghĩa tại Điều 101 Công ước Luật biển 1982. Theo định nghĩa tại Điều 101 Công ước Luật biển thì cướp biển cũng bao gồm các hành vi bắt giữ trái phép, cướp phá tàu, của cải trên tàu, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người trên con tàu đó. Vậy khi nào một hành vi xâm phạm an toàn hàng hải bị coi là phạm tội cướp biển và khi nào thì phạm tội khủng bố hiện vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng.
Các điều ước quốc tế về đấu tranh chống lại hành vi xâm phạm an toàn hàng hải cũng chỉ có phạm vi áp dụng đối với các tàu dân sự và các tàu thuyền “không thường xuyên gắn liền với đáy biển”. Như vậy, tàu ngầm, tàu chiến hoặc tàu biển do một quốc gia sở hữu hoặc điều hành và được sử dụng như một phương tiện hỗ trợ hải quân hoặc sử dụng cho mục đích hải quân hay cảnh sát, tàu biển ngưng vận hành, tàu biển được rút khỏi hoạt động hàng hải không thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước. Công trình cố định thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước cũng là những công trình nhằm mục đích thăm dò hoặc khai thác tài nguyên hoặc các mục đích kinh tế khác.
Công ước cũng chỉ được áp dụng nếu chiếc tàu biển đang hành trình hoặc có kế hoạch hành trình vào, qua hoặc từ những vùng nước ở bên ngoài ranh giới ngoài của lãnh hải một quốc gia hoặc bên ngoài ranh giới lãnh hải của quốc gia đó với quốc gia lân cận. Ngoại lệ của công ước đó là khi người phạm tội hoặc người bị tình nghi là tội phạm được phát hiện trong lãnh thổ của quốc gia thành viên không phải là quốc gia mà tàu biển đang hành trình vào hoặc có ý định trên. Đây là quy định hợp lý, vừa đảm bảo chủ quyền của quốc gia thành viên Công ước lại vừa thuận lợi cho việc hợp tác đấu t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn thạc sỹ Luật- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự việt nam về chống khủng bố.doc