Luận văn Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu.

doc121 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2156 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên phạm vi toàn cầu. Bài học từ Trung Quốc có thể coi như một kinh nghiệm “vàng”. Người Trung Quốc đã thành lập một tổ chức phi Chính phủ gọi là “Phòng Thương mại người Hoa trên toàn cầu”. Đây là một thực thể kinh tế không đơn thuần chỉ đại diện cho lợi ích riêng trong nước Trung Quốc mà là của người Hoa trên toàn thế giới. Nó trở thành một đối trọng kinh tế tác động tới tất cả các quốc gia khác. Đơn cử, trong số trên 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài mỗi năm chảy vào Trung Quốc vài năm lại đây, có tới 70% là do chính người Hoa ở nước ngoài đầu tư trở lại. Xuất khẩu là một trong những khía cạnh quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam. Song xuất khẩu hàng hóa vào các thị trường trên thế giới hiện nay, các nước đều khống chế về mặt thị phần. Lợi ích của ngành hàng, của các doanh nghiệp ra sao trong quá trình hội nhập khi vấp phải các rào cản thương mại (chống trợ cấp, chống bán phá giá...), hiệp hội phải là người đại diện đứng lên đấu tranh. Có những vụ kiện thương mại, người ta chỉ kiện doanh nghiệp chứ đâu phải kiện Chính phủ, thế nên, Chính phủ khó có thể can thiệp trực tiếp vào mà phải là hiệp hội. Rõ ràng, tổ chức hội hay hiệp hội mạnh, vai trò thay Nhà nước can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế mới được phát huy hiệu quả, lợi ích mang lại cho nền kinh tế, cho xã hội mới càng rõ nét. Hiệp hội cần phải lớn mạnh mới có thể đảm đương tốt vai trò của mình. CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 3.1 Thời cơ và thách thức đối với việc thành lập của Hội, Hiệp hội khi Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc té. 3.1.1 Thời cơ Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhất là khi Việt Nam là thành viên của WTO là một thời cơ mới cho các Hiệp hội tăng cường các dịch vụ của mình trong lĩnh vực xúc tiến thương mại thúc đẩy thị trường xuất khẩu. Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế. Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam. Vì vậy, đây cũng chính là cơ hội cho các Hiệp hội phát triển các loại hình dịch vụ thâm nhập thị trường cũng như các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển, nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp đối với thị trường nước ngoài. Thứ hai đó là cơ hội phát triển các dịch vụ, đào tạo để nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho ngành, lĩnh vực mà Hiệp hội đó phụ trách. Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. Thứ ba đó là cơ hội sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở lên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. Như vậy, Hiệp hội sẽ có điều kiện tham gia vào nhiều vụ tranh chấp mà được sử dụng cơ chế giải quyết của WTO. 3.1.2 Thách thức Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các Hiệp hội sẽ chịu nhiều hơn về sức ép cạnh tranh giữa các Hiệp hội với nhau. Cùng với môi trường cạnh tranh ngành giữa các doanh nghiệp ngày càng khắc nghiệt thì việc cạnh tranh giữa các Hiệp hội cũng không kém phần gay gắt. Trên thực tiễn, Hiệp hội nào có khả năng phát huy được tối đa các chức nang của mình và có chế độ duy trì hội viên hợp lý sẽ tồn tại. Mặt khác, Hội nhập kinh tế sẽ dần xóa bỏ vai trò bao cấp của Nhà nước với một số Hội, Hiệp hội có cơ quan chủ quản là các doanh nghiệp nhà nước, các Hiệp hội đó cần phải có phương hướng hoạt động thích hợp, đổi mới tư duy sao cho phù hợp với thời buổi hội nhập. Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, việc bố trí là duy trì được đội ngũ cán bộ và lãnh đạo có chuyên môn, có năng lực lãnh đạo hội là rất khó khăn. Đây là thách thức hết sức to lớn. Hiệp hội chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn. Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu. 3.2 Định hướng hoạt động của các Hiệp hội 3.2.1 Định hướng chiến lược Về lâu dài, các Hiệp hội cần được phát triển theo hướng “chuyên nghiệp hoá” các hoạt động và dịch vụ. Hầu hết các Hiệp hội đa ngành và đơn ngành lớn đều có các bộ phận chức năng phụ trách việc phát triển hội viên, đào tạo và cung cấp thông tin. Một số Hiệp hội còn có các hoạt động tư vấn, xúc tiến thương mại và vận động chính sách. Tuy nhiên, nhiều hoạt động hiện được tiến hành tự phát, không có kế hoạch. Ngoài các hoạt động như hiện nay, các Hiệp hội doanh nghiệp cần chuyển hướng phát triển những sản phẩm chính của mình trong các lĩnh vực này. Những sản phẩm này phải đáp ứng chính xác nhu cầu và mong muốn của hội viên, và hội viên sẽ phải trả phí dịch vụ được Hiệp hội cung cấp. Ví dụ, bộ phận đào tạo nên có một số khoá đào tạo căn bản quan trọng thực hiện thường kỳ và thêm vào đó là những bài giảng và hội nghị chuyên đề; bộ phận thông tin phải có bản  tin gửi đều đặn cho hội viên; bộ phận xúc tiến thương mại cần chủ động trong hoạt động của mình chứ không chỉ chờ đợi khách hàng tìm đến; và bộ phận chính sách pháp luật phải thường xuyên tiến hành nghiên cứu phục vụ mục đích vận động chính sách của Hiệp hội. Đó là hướng phát triển truyền thống của các Hiệp hội lớn trên thế giới. Còn những câu lạc bộ nhỏ nên tiếp tục tập trung vào chức năng giao lưu, mở rộng quan hệ hợp tác và chia sẻ thông tin. Tuy nhiên, để thực hiện được những yêu cầu trên, Chính phủ cần sớm tổ chức nghiên cứu để xây dựng luật về tổ chức và hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiêp, nhằm thay thế các văn bản pháp luật trước đây đã lỗi thời và không còn phù hợp. Trong điều kiện chưa thể ban hành ngay luật thì phải có những pháp lệnh hoặc ít nhất là một nghị định của Chính phủ về các Hiệp hội doanh nghiệp. Chính phủ cần giao cho các Hiệp hội nghiên cứu và thực hiện một số chương trình đề án có tính chất dịch vụ công như thiết lập các công cụ hỗ trợ thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp, tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, cấp chứng chỉ nghề nghiệp, xuất xứ hàng hoá, các chứng từ thương mại quốc tế, thực hiện việc đăng ký kinh doanh, đăng ký tên thương mại, tham gia vào các hội đồng xét thầu… Ngoài ra Chính phủ có thể chỉ định một số Hiệp hội tiến  hành những dự án với mục đích phát triển công nghệ, sản phẩm và thị trường mới. Trước mắt, các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam nên tìm sự hỗ trợ tài chính. Khi các Hiệp hội lớn mạnh thêm thì tài trợ giảm. Nên đặt ra kế hoạch thời gian cụ thể giảm dần sự hỗ trợ, để cho Hiệp hội tăng sự tự lực trong một thời gian tương đối ngắn. Cải thiện môi trường pháp lý để cho phép các Hiệp hội doanh nghiệp được thành lập, phát triển và thực hiện những chức năng chính của mình. Tuy nhiên, khi tiến hành xây dựng những quy định mới về các Hiệp hội doanh nghiệp, sẽ rất có ích nếu Chính phủ tham khảo những chuẩn mực và thông lệ của quốc tế trong lĩnh vực này. Nhìn chung, kinh nghiệm của các nước khác cho thấy các luật, quy định và hệ thống quản lý đối với các Hiệp hội vừa phải hợp lý và tránh sự lạm dụng, vừa đảm bảo hạn chế gánh nặng kìm hãm sự ra đời của các Hiệp hội cũng như cản trở việc thực hiện các hoạt động hợp lý của họ. 3.2.2 Định hướng cụ thể Thứ nhất, đó là cần phải xây dựng một cơ cấu tổ chức vững mạnh của Hiệp hội. Cấu trúc của Hiệp hội là cơ cấu tổ chức của nó mà dựa vào đó người ta xây dựng các chương trình dự án. Tất cả các Hiệp hooij đều có cấu trúc riêng mình, tuy nhiên có thể xác định một số yếu tố chung trong tất cả các Hiệp hội: Hội viên, ban giám đốc, ủy ban điều hành, quan chức, ủy ban và đội ngũ cán bộ. Thứ hai là việc thiết lập nền tảng ủng hộ vững vàng từ các hội viên của Hiệp hội. Những hội viên năng động, tận tâm và đầy nhiệt huyết là nền tảng tạo nên thành công cho hiệp hội. Các hội viên phải sẵn lòng đầu tư thời gian, tiền bạc, sức lực vì một sự nghiệp chung trong việc xây dựng một tổ chức vững mạnh, tồn tại với thời gian. Nếu các Hiệp hội kinh doanh muốn phát triển, muốn hoạt động hiệu quả, và quan trọng nhát muốn đạt được những thành tựu giúp ích cho xã hội thì cốt lõi chi phối thành công của họ chính là sự ủng hộ tự nguyện từ phía các thành viên của tổ chức. Trong thực tế, Hiệp hội chính là một nền dân chủ thu nhỏ, hoạt động vì lợi ích của các thành viên. Vì vậy, việc thu hút thêm hội viên và tuyển dụng hội viên mới là nền tảng dẫn tới thành công của hiệp hội. Thứ ba đó là việc xây dựng nền tảng tài chính vững mạnh.Hiệp hội trên quốc tế mạnh vì độc lập về tài chính. Ở một số nước châu Âu, hiệp hội DN hoạt động làm ăn rất hiệu quả tạo được lòng tin của hội viên, vì thế ngân sách của hiệp hội được đóng góp chủ yếu từ sự tự giác của các hội viên; hiệp hội không nhận trợ cấp của Chính phủ, để được hoàn toàn độc lập. Khi tài chính ổn định thì càng thu hút hội viên đóng góp. Tiền là một trong ba yếu tố quan trọng nhất của HH. Thứ tư là thiết kế các chương trình thông tin hiệu quả. Một hiệp hội có thể tổ chức hiệu quả nhất ở một quốc gia. Nhưng nếu không ai biết đến những đóng gớp tích cực của hiệp hội cho nền kinh tế và cho xác hội thì hiệp hội không thể phát huy hết tiềm lực của mình và thậm chí còn đi đến chỗ diệt vong. Thông tin đúng đắn không chỉ có tác dụng bán được sản phẩm, dịch vụ mà còn nâng cao được sức mạnh của các doanh nghiệp. Sức mạnh nghĩa là năng lực đạt được những mục tiêu mong muốn, có thể tạo ra lợi nhuận, hoàn thành các chương trình hành động của chính phủ, thu hút thêm hội viên và đạt được những mục tiêu quan trọng. Nếu hiệp hội tạo ra được thông tin có lợi cho mình phù hợp với mong ước và nguyện vọng của công chúng thì việc xin phê duyệt công trình và dự án, kêu gọi ủng hộ cho các quan điểm chính sách và thu hút, giữ chân hội viên sẽ trở nên dễ dàng thuận lợi. Nếu các hội viên tiềm năng và công chúng hiểu được hiệp hội đang hoạt động vì lợi ích chung cho quốc gia và không vì lợi ích cá nhân thì uy tín của hội sẽ tăng lên đáng kể. Uy tín này, có thể tạo ra tầm ảnh hưởng đối với chính giới, giúp hội đạt được thêm các mục tiêu khác dễ dàng. Thứ năm là việc xây dựng các chương trình vận động chính sách công. Trong một nền kinh tế thị trường dân chủ, vai trò của hiệp hội là đảm bảo rằng chính phủ khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp. Một tổ chức ưu việt phải xây dựng được chương trình chương trình hành động nhằm vào việc xác định phân tích, và cải tiến những luật và quy chế có ảnh hưởng tới hội viên. 3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3.3.1.Giải pháp về phía nhà nước Đối với nhà nước việc tạo sự đột phá trong cải cách hành chính, thủ tục xin gia nhập Hội là một vấn đề cần thiết. Nhưng trong thực tế, các thủ tục thành lập hội còn quá rườm già. Trong những năm qua, thủ tục hành chính trong việc thành lập Hội dường như chưa có sự thay đổi cơ bản nào, thậm chí sự trì trệ ngày càng gia tăng, có những hội sinh hoạt được vài năm rồi mà vẫn chưa được thông qua thủ tục thành lập hội. Vì vậy, cần tập trung rà soát lại toàn bộ các thủ tục hành chính, xác định rõ những bất hợp lý để xây dựng quy trình xử lý một cách khoa học nhất, đơn giản nhất và thuận tiện nhất cho việc thành lập hội. Nhà nước cần công khai hóa các quy trình và có hướng dẫn cụ thể cho các Hội thực hiện quy trình đã định.Cần nâng cao tinh thần trách nhiệm đi đôi với nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, rèn luyện tính chuyên nghiệp cho đội ngũ công chức nhà nước và kiên quyết xử lý nghiêm khác những công chức nhà nước có thái độ hành xử không đúng mực với cán bộ Hội khi làm thủ tục. Ngoài ra, việc nghiên cứu, tổ chức lại hệ thống bộ máy quản lý nhà nước các cấp trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước có nền hành chính văn minh, hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật và kinh tế đối ngoại phù hợp với pháp luật và thông lệ thương mại quốc tế, tham gia vào các công ước có liên quan đến thương mại quốc tế. Trong những năm đầu của thế kỷ này, việc hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động ngoại thương cần xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý sau: + Quy chế về mở cửa hàng, lập chi nhánh công ty ở nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. + Quy chế về hội chợ, triển lãm và quảng cáo thương mại trong và ngoài nước. + Quy chế về đại lý bán hàng của nước ngoài tại Việt Nam. + Quy chế về hình thức kinh doanh tạm nhập để tái xuất, tạm xuất để tái nhập và hình thức kinh doanh chuyển khẩu. + Quy chế về quá cảnh hàng hoá. + Quy chế uỷ thác và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. + Quy chế về giám định hàng hoá xuất, nhập khẩu. + Những quy chế về đầu tư để hỗ trợ thêm cho luật đầu tư. + Các loại quy chế, thể lệ điều chỉnh hoạt động ngân hàng ngoại thương Việt Nam. + Rà soát lại Luật Hải quan và các văn bản quy định dưới luật vì một số điều khoản của luật này còn cản trở các hoạt động ngoại thương, chưa khuyến khích xuất, nhập khẩu. - Tăng cường sự phối kết hợp giữa hội hơn nữa trong việc hoạch định chính sách, cơ chế và xây dựng các văn bản pháp luật . Một trong những vấn đề khá nổi cộm hiện nay là thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các hội trong việc ban hành các văn bản về chính sách, cơ chế và pháp lý có liên quan. Sự đơn phương và riêng rẽ của một số Bộ, ngành trong việc ban hành các văn bản pháp lý cũng như quyết định điều hành nền vĩ mô sản xuất - kinh doanh của các ngành có liên quan đến định hướng chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu đã một mặt chỉ tính đến lợi ích toàn cục của nền kinh tế. Mặt khác, làm giảm hiệu lực điều hành vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước, giảm hiệu quả của chính các văn bản pháp lý đó. Vì thế, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và các Hiệp hội doanh nghiệp trong việc ban hành các văn bản pháp lý, chính sách và các quyết định quản lý, điều hành vĩ mô các hoạt động kinh tế… được coi là một điều kiện, biện pháp vĩ mô để tiếp tục hoàn chỉnh các công cụ chính sách phát triển kinh tế. Phát huy có hiệu quả vai trò kinh tế của Nhà nước thích ứng với yêu cầu của hội nhập, Nhà nước cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và doanh nghiệp. Trong mối quan hệ này, trước hết Nhà nước phải thúc đẩy thị trường phát triển theo đúng quy luật vốn có. Nhà nước phải thực sự là “người bảo vệ” cho các doanh nghiệp hoạt động chỉ đạo gián tiếp thông qua các Hiệp hội doanh nghiệp. Ngoài ra., nhà nước cần có chiến lược đào tạo nhân lực tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động. Các doanh nghiệp nước ta hiện nay, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, phần lớn được quản lý, điều hành bởi các nhà doanh nghiệp. Do chủ trương trẻ hoá đội ngũ lãnh đạo trong khu vực doanh nghiệp nhà nước và do các doanh nghiệp dân doanh mới thành lập hầu hết do những người trong độ tuổi 30 - 40 quản lý. Sức cạnh tranh của nền kinh tế phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, hiệu quả này lại phụ thuộc vào năng lực điều hành của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp. Cho nên chăm lo xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp nước ta chính là chăm lo cho sự phát triển của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, ở địa phương nào lãnh đạo quan tâm tạo điều kiện cho sự phát triển của đội ngũ doanh nhân, ở nơi đó xuất hiện nhiều nhà doanh nghiệp trẻ xuất sắc và kinh tế địa phương đó phát triển. Ngược lại, có những địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhưng do thiếu sự quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo địa phương, đội ngũ doanh nhân thường yếu, vắng bóng các nhà doanh nghiệp trẻ thành đạt và kinh tế địa phương cũng phát triển chậm. Việc nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp, các ngành về tầm quan trọng của công tác xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp phải được đưa lên là một vấn đề tiên quyết đảm bảo cho sự phát triển ổn định của lực lượng doanh nhân và của cả nền kinh tế nước ta. Để giải quyết triệt để vấn đề này, cần có chủ trương và sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng. Khi đội ngũ doanh nghiệp phát triển, có đầy đủ kiến thức kỹ năng về quản lý, kỹ thuật và sẵn sàng hội nhập thì việc phát triển các hội viên của Hiệp hội mới dễ dàng. Bên cạnh đó, việc thu phí hội viên sẽ tiến hành trên cơ sở tự nguyên hơn vừa tạo lợi ích cho hội viên vừa đem lại nhiều chương trình hoat động cho các Hiệp hội 3.3.2 Giải pháp về phía Hiệp hội Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực Một nguyên nhân quan trọng làm cho các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam hoạt động chưa hiệu quả dẫn tới chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập là do lực lượng cán bộ còn yếu kém về năng lực và trình độ. Hầu hết là được đào tạo trong thời kỳ nền kinh tế được quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, vì vậy, rất lúng túng khi chuyển sang hoạt động kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường, trong môi trường luật pháp sơ khai, không đồng bộ. Khả năng phân tích và hoạch định chương trình của cán bộ là rất yếu. Do đó, cần có các giải pháp đồng bộ đào tạo đội ngũ cán bộ vừa có trình độ, năng lực chuyên môn cao, vừa có phẩm chất đạo đức tốt: - Nhanh chóng nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, trình độ am hiểu về pháp luật và bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ theo cơ chế thị trường thông qua đào tạo và đào tạo lại. - Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát và thực hiện luân phiên cán bộ thanh tra để hạn chế những hiện tượng tiêu cực - Thường xuyên trau dồi đạo đức, tác phong làm việc khoa học Bên cạnh việc nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đáp ứng khả năng hội nhập Quốc tế cũng là một yêu cầu rất cấp bách. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động của các Hiệp hội, đặc biệt là hệ thống các Hiệp hội lớn đã được hiện đại hoá, tuy nhiên còn thấp so với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động và còn khoảng cách khá xa so với khu vực và thế giới. Vì vậy, cần có các giải pháp hiện đại hoá cơ sở vật chất nhằm tiến tới hội nhập với khu vực và thế giới. Trong đó, đặc biệt cần hiện đại hoá hệ thống thông tin. Chính vì thiếu thông tin và khả năng trao đổi thông tin giữa các tổ chức hạn chế dẫn đến khả năng phân tích và triển khai các hoạt động của Hiệp hội không hiệu quả. Do đó, cần phải có giải pháp xây dựng hệ thống thông tin hiện đại, nối mạng thông suốt giữa các chủ thể tham gia hoạt động. Tăng cường các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thương hiệu và nâng cao năng lực cạnh tranh Hiệp hội cũng cần có các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá thương hiệu Việt Nam rộng khắp trong nước cũng như tại thị trường nước ngoài để người tiêu dùng biết đến các thương hiệu Việt Nam nhiều hơn nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế. Cụ thể: - Hỗ trợ doanh nghiệp quảng cáo thương hiệu qua nhiều kênh khác nhau như: quảng cáo trên website, quảng cáo thông qua các ấn phẩm, đĩa CD, video của Cục xúc tiến Thương mại, qua các Trung tâm giới thiệu sản phẩm Việt Nam ở nước ngoài, quảng cáo trên các báo Việt Nam xuất bản bằng tiếng Anh, các báo kinh tế có phát hành ra nước ngoài. Kết hợp với Đài truyền hình Việt Nam quảng cáo trên kênh VTV4 nhằm vào đối tượng Việt kiều. Tiến tới, quảng cáo trên các tạp chí kinh tế, thương mại của khu vực và thế giới. - Kết hợp với Vietnam Airlines, Tổng cục Du lịch xây dựng một chương trình quảng cáo Thương hiệu quốc gia và các thương hiệu nổi tiếng Việt Nam tới khách du lịch nước ngoài. - Quảng cáo Thương hiệu quốc gia qua các sự kiện thể thao văn hoá trong nước và quốc tế. - Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các cuộc triển lãm và tiếp thị quốc tế. Việc nhà nước đứng ra hỗ trợ tổ chức hội chợ triển lãm hoặc tham gia triển lãm quy mô lớn sẽ tạo được hình ảnh chung và gây được tiếng vang cho các thương hiệu hàng hoá Việt Nam. Bên cạnh vấn đề về hàng nhái, hàng giả thì việc doanh nghiệp bị đăng ký mất thương hiệu ở nước ngoài cũng là vấn đề mà Hiệp hội cần lưu ý. Để tránh tình trạng này, trước tiên, Hiệp hội phải tăng cường khuyến cáo các doanh nghiệp nên nhanh chóng đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài, ở những nước hiện chưa xuất khẩu tới nhưng sẽ có tiềm năng trong tương lai. Cung cấp thông tin về luật pháp các nước, về thị trường ngoài nước để doanh nghiệp có được cái nhìn đầy đủ và làm tốt hơn vấn đề đăng ký thương hiệu ở nước ngoài. Hiệp hội nên trợ giúp doanh nghiệp trong việc chuẩn bị hồ sơ và làm thủ tục đăng ký. Trên bình diện quốc tế, Việt Nam đã tham gia Công ước Stockholm, trở thành thành viên của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới từ năm 1976; Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp từ năm 1949; Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế các nhãn hiệu hàng hóa từ năm 1949; Hiệp ước Washington về Hợp tác Patent từ năm 1993. Việt Nam cũng đã ban hành các văn bản pháp luật dưới dạng Bộ luật, Nghị định, Thông tư để quản lý các vấn đề liên quan tới nhãn hiệu sản phẩm. Bên cạnh đó, các cơ quan xúc tiến thương mại của Việt Nam ở nước ngoài cần tăng cường hỗ trợ bảo hộ cho thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam bằng cách theo dõi tình hình, khi thấy có tình trạng xâm phạm thương hiệu thì kịp thời thông báo cho doanh nghiệp biết và phối hợp tìm biện pháp xử lý. Tình trạng chung của các doanh nghiệp hiện nay là thiếu thông tin về thị trường, về khách hàng, đặc biệt là thông tin về thị trường nước ngoài. Các cơ quan xúc tiến thương mại của Nhà nước phối hợp với Hiệp hội cần tích cực tìm hiểu thông tin về thị trường, về nhu cầu của khách hàng, về môi trường kinh doanh và các yếu tố văn hoá ảnh hưởng tới kinh doanh … và nhanh chóng chuyển những thông tin ấy đến các doanh nghiệp. Có được sự hỗ trợ thông tin ấy, doanh nghiệp sẽ đưa ra được chiến lược xây dựng và quảng bá cho các nhãn hiệu của mình cho phù hợp với từng thị trường khác nhau. Các cơ quan xúc tiến thương mại cũng có thể giúp các doanh nghiệp quảng bá nhãn hiệu sản phẩm thông qua các hoạt động như hội chợ, triển lãm, tổ chức những ngày hội hàng Việt Nam tại nước ngoài. Ngoài ra, Hiệp hội cũng nên hỗ trợ doanh nghiệp bằng các chương trình đào tạo (như tập huấn, hướng dẫn kỹ năng xây dựng và quảng bá nhãn hiệu, tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm về nhãn hiệu...) cho các doanh nghiệp để họ có thể tiếp cận với những kiến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.DOC
Tài liệu liên quan