Trước năm 2006, theo quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập hệ thống TGPL và Thông tư hướng dẫn số 07/1998/TT-BTP ngày 05/12/1998 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về công tác quản lý và thực hiện trợ giúp pháp lý, quy định UBND tỉnh là cơ quan ở địa phương có chức năng QLNN đối với hoạt động TGPL và quy định các nhiệm vụ và quyền hạn của Giám đốc Sở Tư pháp trong lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác trợ giúp pháp lý. Sau khi Luật trợ giúp pháp lý có hiệu lực ngày 01/7/2006, UBND tỉnh vẫn là cơ quan QLNN ở địa phương về hoạt động TGPL, nhưng Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh QLNN đối với hoạt động TGPL. Trong phạm vi của đề tài, tác giả xin tập trung phân tích bộ máy của Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai.
Công tác QLNN đối với hoạt động TGPL của Sở Tư pháp, được nhiều bộ phận khác nhau, đảm trách một hoặc một số nội dung khác nhau của QLNN mà không thành lập một cơ quan chuyên môn QLNN đối với hoạt động TGPL.
81 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3093 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nâng cao quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Gia Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một chức danh mới trong tố tụng – Trợ giúp viên pháp lý - được thể chế hoá với vai trò là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự và thực hiện các hình thức TGPL khác. Cùng với việc chuẩn hoá chức danh TGVPL.
Nhằm tạo một cơ chế để mọi tổ chức, cá nhân có thể tham gia, đóng góp vào hoạt động trợ giúp pháp lý và trên cơ sở kế thừa của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2008 về thành lập Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam. Quỹ được hình thành trên sự đóng góp tự nguyện, tài trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong và ngoài nước, từ sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Để hướng dẫn sự hoạt động của Quỹ, Bộ Tư pháp đã ra Quyết định 08/2008/QĐ-BTP ngày 08 tháng 12 năm 2008 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam, sau đó Bộ Tài chính có thông tư 41/2009/TT-BTC ngày 09/3/2009 hướng dẫn quản lý tài chính đối với Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam.
Trong phối hợp hoạt động giữa các cơ quan về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 28 tháng 12 năm 2007 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về TGPL trong hoạt động tố tụng ra đời đã cụ thể hoá quy định của Luật trợ giúp pháp lý, bảo đảm để đội ngũ TGVPL, Luật sư cộng tác viên (LS CTV) tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động TGPL.
Ở địa phương, sau khi Thủ tướng có Quyết định 734/TTg, Sở Tư pháp đã tham mưu UBND tỉnh ban hành quyết định số 307/QĐ-UB ngày 04/4/1998 thành lập Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước tỉnh Gia Lai với vị trí là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và có con dấu riêng để hoạt động. Năm 2007, sau khi Luật Trợ giúp pháp lý 2005 được thông qua, UBND tỉnh Gia Lai đã ban hành quyết định số 327/QĐ-UBND ngày 03 tháng 8 năm 2007 về việc kiện toàn Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai (sau đây gọi là Trung tâm TGPL) và quyết định số 108/QĐ-UBND ngày 11 tháng 02 năm 2010 về việc thành lập Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai. Đồng thời, dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tư pháp, UBND tỉnh trong phạm vi thẩm quyền của mình cũng đã ban hành các văn bản triển khai thực hiện ở địa phương dưới nhiều hình thức để quán triệt và chỉ đạo thống nhất các hoạt động liên quan đến công tác TGPL như quyết định số 1411/QĐ-UBND ngày 24/11/2008 của UBND tỉnh quyết định về việc thành lập Hội đồng phối hợp liên ngành của tỉnh về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, quyết định số 392/QĐ-UBND ngày 10/7/2009 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Đề án hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước theo Luật trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo Đề án hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thì tổ chức, cán bộ, biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của Trung tâm TGPL theo hướng chuyên sâu theo từng lĩnh vực pháp luật (hình sự, dân sự, hành chính, lao động…). Trung tâm TGPL có các phòng chuyên môn nghiệp vụ, trong đó mỗi lĩnh vực TGPL đều có TGVPL chuyên trách. Sở Tư pháp trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, cũng đã ban hành quyết định về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Gia Lai.
2.2. Thực trạng về công tác tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý
2.2.1. Về cơ cấu, tổ chức
Trước năm 2006, theo quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập hệ thống TGPL và Thông tư hướng dẫn số 07/1998/TT-BTP ngày 05/12/1998 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về công tác quản lý và thực hiện trợ giúp pháp lý, quy định UBND tỉnh là cơ quan ở địa phương có chức năng QLNN đối với hoạt động TGPL và quy định các nhiệm vụ và quyền hạn của Giám đốc Sở Tư pháp trong lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác trợ giúp pháp lý. Sau khi Luật trợ giúp pháp lý có hiệu lực ngày 01/7/2006, UBND tỉnh vẫn là cơ quan QLNN ở địa phương về hoạt động TGPL, nhưng Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh QLNN đối với hoạt động TGPL. Trong phạm vi của đề tài, tác giả xin tập trung phân tích bộ máy của Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai.
Công tác QLNN đối với hoạt động TGPL của Sở Tư pháp, được nhiều bộ phận khác nhau, đảm trách một hoặc một số nội dung khác nhau của QLNN mà không thành lập một cơ quan chuyên môn QLNN đối với hoạt động TGPL.
Về cơ cấu, tổ chức, theo Quyết định số 19/2009/QĐ-UBND, ngày 18/6/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Sở Tư pháp; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về công tác tư pháp của phòng Tư pháp thuộc UBND huyện, thị xã, thành phố tỉnh Gia Lai thì Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai có Lãnh đạo Sở, các tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở gồm Văn phòng, Thanh tra, phòng Văn bản và thi hành pháp luật, phòng Phổ biến pháp luật, phòng Hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp, các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở gồm: Phòng Công chứng số 1, phòng Công chứng số 2, phòng Công chứng số 3, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản, Trung tâm TGPL nhà nước.
Có thể khái quát tổ chức bộ máy hoạt động của Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai bằng sơ đồ sau:
GIÁM ĐỐC SỞ
Văn phòng
Phòng Công chứng số 1
Phòng Công chứng số 2
Phòng hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp
Phòng Phổ biến pháp luật
Phòng Văn bản và thi hành pháp luật
Thanh tra
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước
Phòng Công chứng số 3
Các phòng nghiệp vụ
Các tổ chức sự nghiệp
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản
Bảng 4: Mô hình tổ chức bộ máy hoạt động của Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai.
Trong các tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ và các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở có Văn phòng, Thanh tra, phòng Văn bản và Thi hành pháp luật, phòng Hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp và Trung tâm TGPL nhà nước là các đơn vị có tham gia vào quá trình QLNN đối với hoạt động TGPL.
Văn phòng có chức năng tham mưu, giúp Giám đốc Sở Tư pháp quản lý về tổ chức – cán bộ thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân tỉnh; quản lý kinh phí, tài sản và hành chính – quản trị; công tác thi đua- khen thưởng; thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước, cải cách tư pháp; giúp UBND tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Trong hoạt động QLNN đối với hoạt động TGPL thì Văn phòng có nhiệm vụ tham mưu, giúp Giám đốc Sở Tư pháp quản lý tổ chức – cán bộ thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Trung tâm trợ giúp pháp lý; công tác thi đua, khen thưởng trong hoạt động TGPL.
Thanh tra Sở Tư pháp có chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi QLNN của Sở Tư pháp. Trong hoạt động QLNN đối với hoạt động TGPL, phòng Thanh tra có nhiệm vụ thực hiện thanh tra về tổ chức và hoạt động TGPL theo quy định của pháp luật về thanh tra; thực hiện việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực TGPL theo quy định của pháp luật về TGPL và pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Phòng Văn bản và thi hành pháp luật có chức năng tham mưu, giúp Giám đốc Sở thực hiện quản lý nhà nước về công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác pháp chế của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và doanh nghiệp Nhà nước; tổ chức thực hiện hoặc phối hợp thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.Trong hoạt động QLNN đối với hoạt động TGPL thì Phòng có nhiệm vụ phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý xây dựng, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật về TGPL.
Phòng Hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp có chức năng tham mưu, giúp Giám đốc Sở Tư pháp QLNN và thực hiện đăng ký, quản lý hộ tịch, quốc tịch, con nuôi có yếu tố nước ngoài; lý lịch tư pháp; Giám định tư pháp; Trọng tài thương mại; Trợ giúp pháp lý; Công chứng, chứng thực; Đấu giá tài sản.
Liên quan đến hoạt động QLNN đối với hoạt động TGPL, phòng Hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp có các nhiệm vụ: quản lý, hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của Trung tâm và Chi nhánh Trung tâm TGPL nhà nước; hoạt động tham gia TGPL của các Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật theo quy định của pháp luật; cấp, thay đổi, thu hồi Giấy đăng ký tham gia TGPL của Văn phòng luật sư, Công ty luật và Trung tâm tư vấn pháp luật; quyết định công nhận, cấp và thu hồi thẻ Cộng tác viên TGPL.
Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Gia Lai là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, tham gia đảm nhiệm một số hoạt động mang tính quản lý nội bộ đối với các chi nhánh, đội ngũ người thực hiện TGPL trên địa bàn tỉnh như quản lý, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng trợ giúp pháp lý cho Chi nhánh; hướng dẫn hoạt động đối với Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý và các hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý khác; tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý cho TGVPL, cộng tác viên của Trung tâm và Chi nhánh; hỗ trợ bồi dưỡng nghiệp vụ cho tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; tổ chức nghiên cứu, khảo sát, tổ chức hội thảo, toạ đàm, trao đổi kinh nghiệm liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý cho TGVPL, cộng tác viên của Trung tâm và Chi nhánh; quản lý, theo dõi, kiểm tra hoạt động trợ giúp pháp lý của TGVPL, cộng tác viên và các cán bộ khác của Trung tâm và Chi nhánh theo thẩm quyền; giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và pháp luật về khiếu nại, tố cáo; giải quyết tranh chấp về trợ giúp pháp lý theo thẩm quyền; thực hiện sơ kết, tổng kết chế độ báo cáo, thống kê về tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý ở địa phương với cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý; đề xuất việc khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác trợ giúp pháp lý ở địa phương. Đối với Trung tâm TGPL do là đơn vị sự nghiệp, chức năng chính là tổ chức thực hiện TGPL, nên cơ cấu, tổ chức của Trung tâm TGPL sẽ được trình bày kỹ hơn ở phần sau.
Như vậy, trong các phòng chuyên môn trực thuộc Sở Tư pháp thì Phòng Hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp là phòng có chức năng chính trong việc tham mưu, giúp Giám đốc Sở quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý.
2.2.2. Về công tác tổ chức cán bộ
Lãnh đạo Sở Tư pháp bao gồm Giám đốc Sở và 02 Phó Giám đốc Sở. Giám đốc Sở là người đứng đầu Sở, chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Sở và việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Các Phó Giám đốc Sở là người giúp Giám đốc Sở, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Một Phó Giám đốc Sở phụ trách lĩnh vực lý lịch tư pháp, phổ biến pháp luật. Một Phó Giám đốc Sở phụ trách lĩnh vực công chứng, chứng thực, bổ trợ tư pháp, đồng thời được Giám đốc Sở ủy nhiệm điều hành các hoạt động của Sở khi Giám đốc Sở đi vắng.
Tính đến 31/12/2009, số biên chế tại các phòng, tổ chức trực thuộc Sở Tư pháp như sau:
STT
Phòng, Trung tâm
Số lượng
Ghi chú
01
Văn phòng
06
05 cử nhân Luật, 01 cử nhân kế toán
02
Phòng Thanh tra
03
03 cử nhân Luật
03
Phòng Văn bản và thi hành pháp luật
04
04 cử nhân Luật
04
Phòng Hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp
04
04 cử nhân Luật
05
Trung tâm TGPL
11
Được trình bày tại phần 2.3
Bảng 5: Số liệu biên chế tại các phòng, tổ chức trực thuộc Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai.
Như vậy, tổng số công chức, viên chức tại các Phòng, Trung tâm hiện nay là 28 công chức, viên chức. Tuy nhiên chủ yếu tập trung tại Trung tâm trợ giúp pháp lý, nếu không tính số lượng viên chức tại Trung tâm trợ giúp pháp lý với nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện trợ giúp pháp lý thì số lượng công chức tại các phòng chuyên môn chỉ là 17 người. Hầu hết các công chức, viên chức đều có trình độ cử nhân luật nên có kiến thức cơ bản về pháp luật.
2.3. Thực trạng về tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý
Tổ chức và người thực hiện TGPL là những chủ thể trực tiếp thực hiện TGPL. Trong khi đó, việc QLNN đối với hoạt động TGPL là nhằm đảm bảo cho hoạt động TGPL đáp ứng được mục đích do Đảng và Nhà nước ta đề ra. Do đó, nội dung QLNN về tổ chức và người thực hiện TGPL là một nội dung quan trọng trong QLNN đối với hoạt động TGPL. Trong nội dung này, luận văn tập trung nêu lên thực trạng về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL vì đây là tổ chức thực hiện TGPL chủ yếu tại tỉnh Gia Lai.
Đối với các tổ chức hành nghề luật sư: Theo báo cáo của Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai, tính đến tháng 12 năm 2009, Sở Tư pháp đã cấp giấy đăng ký hoạt động cho 02 văn phòng luật sư, 01 công ty luật trách nhiệm hữu hạn 02 thành viên trở lên, 05 luật sư hoạt động với tư cách cá nhân, 01 chi nhánh văn phòng luật sư và 01 chi nhánh số 1 của công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Sở Tư pháp cũng đã thu hồi giấy đăng ký hoạt động của 04 tổ chức hành nghề luật sư, trong đó, thu hồi 01 giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng Luật sư Bình Minh; thông báo tự chấm dứt hoạt động 02 tổ chức hành nghề Luật sư và 01 Luật sư hoạt động với tư cách cá nhân. Hiện nay, Đoàn Luật sư tỉnh Gia Lai có 16 Luật sư, 04 luật sư đăng ký hoạt động với tư cách cá nhân và 12 Luật sư hoạt động tại 06 tổ chức hành nghề luật sư (04 văn phòng luật sư, 02 chi nhánh văn phòng luật sư). Có 07 luật sư đang làm việc tại các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.Từ năm 2007 đến cuối năm 2009, các thành viên của Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai đã thực hiện tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng 1.649 vụ việc. Trong đó, tham gia tố tụng 583 vụ (438 vụ hình sự, 129 vụ dân sự, 02 vụ hành chính, 07 vụ kinh tế, 07 vụ lao động); đại diện ngoài tố tụng 02 vụ, tư vấn pháp luật được 845 vụ việc, thực hiện dịch vụ pháp lý khác được 37 vụ việc. Tư vấn pháp luật miễn phí 82 vụ việc(() Theo Báo cáo số 23/STP ngày 12/3/2010 của Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai báo cáo kết quả công tác quản lý Luật sư, Giám định tư pháp từ ngày 01/01/2007 đến 31/12/2009.
).
Đối với tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp: Trên địa bàn tỉnh Gia Lai có 01 trung tâm tư vấn thuộc Liên đoàn lao động tỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, trung tâm này hầu như không thực hiện tư vấn cho người thuộc diện trợ giúp pháp lý nào.
Triển khai Luật trợ giúp pháp lý, Sở Tư pháp đã tiến hành triển khai phổ biến và gửi phiếu đăng ký hoạt động trợ giúp pháp lý đến các tổ chức nhưng đến cuối năm 2009, không có một tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn nào đăng ký tham gia thực hiện TGPL.
Đối với Trung tâm TGPL, đây là tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý chủ yếu và có một cơ cấu, tổ chức cũng như đội ngũ thực hiện TGPL hoàn chỉnh nhất. Do đó, trong phần này, tác giả tập trung phân tích thực trạng về cơ cấu, tổ chức, đội ngũ cũng như một số vấn đề có liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động của Trung tâm TGPL.
Như đã trình bày ở trên, Trung tâm TGPL được thành lập từ năm 1997, là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng.
Về mặt cơ cấu, tổ chức của Trung tâm TGPL
Trung tâm TGPL có lãnh đạo Trung tâm và các phòng chuyên môn, các chi nhánh Trung tâm TGPL (sau đây gọi là Chi nhánh). Sơ đồ cơ cấu, tổ chức Trung tâm TGPL như sau:
Lãnh đạo Trung tâm
Phòng Hành chính-Tổng hợp
Phòng Nghiệp vụ
Chi nhánh số 2
(đặt tại thị xã An Khê)
Chi nhánh số 1
(đặt tại thị xã Ayun Pa)
Bảng 6: Mô hình cơ cấu, tổ chức Trung tâm TGPL tỉnh Gia Lai.
Phòng Hành chính – Tổng hợp có nhiệm vụ hành chính, tổng hợp, thực hiện chế độ thống kê, báo cáo, thi đua, văn thư, lưu trữ, quản lý tài sản, tài chính và các hoạt động chung khác phục vụ hoạt động của Trung tâm TGPL.
Phòng Nghiệp vụ có nhiệm vụ thực hiện TGPL các vụ việc thuộc các lĩnh vực: pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự; pháp luật dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án dân sự; pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về trẻ em; pháp luật hành chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; pháp luật đất đai, nhà ở, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm; pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng và pháp luật về chính sách ưu đãi xã hội khác; các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những vụ việc thuộc lĩnh vực trên là những vụ việc phức tạp, những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan từ cấp tỉnh trở lên; những vụ việc mà Chi nhánh không thực hiện được phải chuyển đến Trung tâm TGPL; những vụ việc mà người được trợ giúp pháp lý đang cư trú hoặc xảy ra ở địa bàn chưa thành lập chi nhánh và những vụ việc do Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh khác chuyển đến.
Chi nhánh: Thực hiện theo quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 và thông tư số 07/1998/TT-BTP ngày 05 tháng 12 năm 1998 về hướng dẫn về công tác quản lý và thực hiện TGPL, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai đã thành lập 08 chi nhánh đặt tại 08 huyện, thị xã trong tỉnh gồm các huyện, thị xã: Ayun Pa, Krông Pa, Ia Pa, Chư Prông, Đức Cơ, Chư Păh, An Khê, Đăk Pơ. Tuy nhiên, các chi nhánh này đều do các công chức thuộc phòng Tư pháp kiêm nhiệm, chi nhánh cũng sử dụng con dấu của Phòng để hoạt động, Trung tâm TGPL quản lý về vấn đề nghiệp vụ và phối hợp trong trợ giúp pháp lý lưu động tại huyện, thị xã có Chi nhánh. Thực hiện Luật trợ giúp pháp lý, năm 2006, Giám đốc Sở Tư pháp đã ra chuyển đổi các chi nhánh này thành các tổ cộng tác viên TGPL tại huyện, thị xã với tổ trưởng là các trưởng Chi nhánh trước kia. Đồng thời tiến hành thành lập các Chi nhánh với vị trí là đơn vị phụ thuộc của Trung tâm TGPL, chịu sự quản lý của Trung tâm TGPL, Trung tâm TGPL chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Chi nhánh. Chi nhánh có con dấu để giao dịch, sử dụng cho hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trợ giúp pháp lý. Chi nhánh số 1 được thành lập vào năm 2008 có nhiệm vụ trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý cư trú tại các huyện phía Tây Nam tỉnh Gia Lai gồm: huyện Krông Pa, huyện Ia Pa, huyện Phú Thiện và thị xã Ayun Pa. Chi nhánh số 2 được thành lập vào năm 2009 có nhiệm vụ trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý cư trú tại các huyện phía đông tỉnh Gia Lai gồm: huyện Kbang, huyện Kông Chro, huyện Đăk Pơ và thị xã An Khê.
Về đội ngũ công chức, viên chức
Trong những ngày đầu được thành lập từ năm 1998 theo quyết định số 307/QĐ-UB ngày 04/4/1998, Trung tâm TGPL có lãnh đạo Trung tâm, các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ và các chi nhánh. Về lãnh đạo, ban đầu Trung tâm TGPL có Giám đốc do 01 Phó Giám đốc Sở Tư pháp kiêm nhiệm và 01 Phó Giám đốc phụ trách. Tuy nhiên, đến nay, Trung tâm TGPL có 01 Giám đốc phụ trách và không có Phó Giám đốc.
Cụ thể, số lượng công chức, viên chức tại Trung tâm TGPL như sau:
STT
Phòng, ban
Số lượng viên chức
01
Hành chính-Quản trị
04 (01 TGV PL, 02 chuyên viên, 01 kế toán)
02
Nghiệp vụ
02 chuyên viên
03
Chi nhánh số 1
03 (01 TGV pháp lý, 01 chuyên viên, 01 cán sự)
04
Chi nhánh số 2
02 (01 TGV pháp lý, 01 chuyên viên
Bảng 7: Số lượng viên chức tại Trung tâm TGPL tỉnh Gia Lai.
Ngoài các chức danh TGVPL đương nhiên buộc phải có bằng cử nhân luật, các chuyên viên của Trung tâm TGPL đều có bằng cử nhân chuyên ngành luật. Tuy nhiên, do đặc thù của một tỉnh miền núi, cần phải có đội ngũ giúp việc là người đồng bào dân tộc thiểu số nên trong đội ngũ viên chức của Trung tâm TGPL có 03 viên chức là người dân tộc thiểu số Jrai, 02 người có bằng cử nhân chuyên ngành luật, 01 người có bằng trung cấp chyên ngành luật.
Trung tâm TGPL có một đội ngũ cộng tác viên đông đảo gồm 129 cộng tác viên. Số lượng cộng tác viên tùy vào thời điểm khác nhau, có số lượng khác nhau (xem phụ lục 1-Số lượng cộng tác viên của Trung tâm TGPL từ năm 1998 đến năm 2009). Năm 2008, số lượng cộng tác viên là 102, trong đó cộng tác viên là Luật sư là 4 người, còn lại chủ yếu là cán bộ, công chức đang làm việc tại các sở, ban, ngành và chính quyền địa phương. Năm 2009, Trung tâm TGPL tham mưu Giám đốc Sở Tư pháp ký hợp đồng và cấp thẻ cộng tác viên đối với 22 người, tăng tổng số cộng tác viên của Trung tâm TGPL lên 129 người, trong đó có 04 cộng tác viên là luật sư.
Về cơ sở, vật chất và kinh phí hoạt động
Trung tâm TGPL được bố trí 5 phòng làm việc chung với trụ sở của Sở Tư pháp; trụ sở chi nhánh 1 nằm trong khu vực làm việc của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thị xã Ayun Pa, trụ sở chi nhánh 2 nằm chung với khu vực làm việc của Phòng Tư pháp thị xã An Khê. Trung tâm TGPL và các chi nhánh được trang bị 02 xe máy, 09 máy vi tính bàn, 01 máy tính xách tay, 02 máy photocopy, 06 máy in và 03 tủ sách pháp luật để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Về tình hình hoạt động
Trung tâm TGPL đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết các vụ việc TGPL liên quan đến quyền và lợi ích thiết thực của người dân. Tính đến ngày 01/07/2009, Trung tâm đã thực hiện được 16.852 vụ việc cho 16.937 người (trong đó có 4.632 người nghèo, chiếm 27%, 1.074 người có công với cách mạng, chiếm 6%, 10.559 người dân tộc thiểu số, chiếm 62%, 221 trẻ em và 451 đối tượng khác)(Xem phụ lục 2- Số liệu thực hiện trợ giúp pháp lý đến 01/07/2009). Như vậy, đối tượng phục vụ chủ yếu của Trung tâm TGPL là người dân tộc thiểu số, tiếp theo đó là người thuộc diện hộ nghèo và tiếp theo là các đối tượng thuộc diện trợ giúp pháp lý khác. Điều này là dễ hiểu vì Gia Lai là một tỉnh có số lượng người đồng bào dân tộc thiểu số cũng như hộ nghèo là khá lớn (số lượng người dân tộc thiểu số chiếm 48% dân số toàn tỉnh, số lượng hộ nghèo là 373.605 hộ).
Các vụ việc tư vấn chủ yếu tập trung vào lĩnh vực pháp luật đất đai, luật hôn nhân gia đình, dân sự, hành chính, hình sự,...lao động và chế độ chính sách. Nhiều vụ việc phức tạp, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài hàng năm do nhiều nguyên nhân do đó làm giảm lòng tin của nhân dân với pháp luật đã được Trung tâm TGPL hướng dẫn và giải quyết dứt điểm, góp phần giải tỏa tâm lý bức xúc trong nhân dân.
Ngoài ra, Trung tâm trợ giúp pháp lý còn thực hiện các hình thức thực hiện trợ giúp pháp lý khác như: biên soạn và phát hành 260.393 tờ gấp và sách pháp luật, 4.210 băng, đĩa pháp luật dịch ra tiếng Jrai, Bahnar; đặt bảng thông báo TGPL tại các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, tại các phòng Tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng, phối hợp phát hành lịch truyền thông, tổ chức hơn 300 đợt trợ giúp pháp lý lưu động kết hợp với sinh hoạt chuyên đề pháp luật...
Tính đến 31/10/2009, có 158/219 xã, phường, thị trấn trong tỉnh thành lập Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý (chiếm tỷ lệ 72,1%) trong đó có 56/58 xã nghèo (chiếm tỷ lệ 96,5%), 62/68 xã đặc biệt khó khăn (chiếm tỷ lệ 91,2%) và 41/93 xã khác. Các Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý tổ chức sinh hoạt thường xuyên hơn và hiệu quả hoạt động cũng tốt hơn, nhiều câu lạc bộ mới thành lập đã đi vào hoạt động ngay góp phần giải quyết những vướng mắc pháp luật một cách kịp thời và hiệu quả, nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân. Theo thống kê tại hồ sơ tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ có 4.837 người tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ và 156 thắc mắc pháp luật được giải đáp (() Theo Báo cáo số 57/BC-TGPL ngày 04/11/2009 của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Gia Lai về công tác trợ giúp pháp lý năm 2009 và phương hướng công tác năm 2010.
) (Trung tâm TGPL không thống kê vào vụ việc trợ giúp pháp lý, vì những thắc mắc này không lập thành hồ sơ trợ giúp pháp lý mà chỉ ghi trong biên bản sinh hoạt Câu lạc bộ).
2.4. Những tồn tại trong quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý
2.4.1. Về ban hành văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
Nhà nước quản lý hoạt động TGPL bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó, quan trọng nhất là hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật về TGPL ngày càng đầy đủ hơn như phân tích ở phần trên. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của TGVPL trong tố tụng, việc huy động các cơ quan, tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý lưu động, quy định về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, cũng như các quy định về đánh giá chất lượng TGPL vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc.
Thứ nhất, về vị trí, vai trò của TGVPL, LS CTV khi tham gia tố tụng. Tham gia tố tụng là hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý cơ bản trong hoạt động TGPL. Trước khi Luật trợ giúp pháp lý ra đời, việc bào chữa cho người được TGPL trong các vụ án hình sự hoặc đại diện được thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 52/TTLT/TP-TC-TCCP-LĐTBXH ngày 14 tháng 01 năm 1998 của Bộ Tư pháp-Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ - Bộ Tài chính – Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Theo đó Trung tâm TGPL được trực tiếp hoặc mời luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án cho các đối tượng được TGPL theo quy đị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý.doc