Luận văn Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU

Mục lục

 

 

Lời mở đầu 1

Chương i: Tổng quan về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

và những nét chung về thị trường hàng thủ công mỹ nghệ eu 4

I. Tổng quan về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 4

1. Một số khái niệm cơ bản 4

2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong nền kinh tế 4

2.1. Phát triển làng nghề truyền thống 5

2.2. Tăng thu ngoại tệ 6

2.3. Tạo thêm công ăn việc làm, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân 7

2.4. Góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế 7

2.5. Góp phần phát triển du lịch địa phương 8

2.6. Là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại 9

3. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 9

3.1. Các nhân tố về cơ chế chính sách và môi trường pháp lý 10

3.2. Các nhân tố về kinh tế - văn hóa - xã hội 10

3.3. Các nhân tố về cơ sở hạ tầng và trình độ khoa học công nghệ 11

3.4. Các nhân tố thị trường 12

3.5. Các nhân tố liên quan đến marketing xuất khẩu của doanh nghiệp 14

ii. Tổng quan về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam 16

1. Hình thức xuất khẩu 16

2. Kim ngạch xuất khẩu 18

3. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chính 19

4. Thị trường xuất khẩu. 22

 

iii. Những nét chung về thị trường hàng thủ công mỹ nghệ EU 24

1. Là thị trường chung 24

2. Đặc điểm khách hàng 26

3. Xu hướng tiêu dùng 28

4. Kênh phân phối 28

cHương ii: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

của việt Nam sang thị trường eu 31

i. Kim ngạch xuất khẩu hàng hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian qua 31

1. Kim ngạch xuất khẩu chung 31

2. Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng 33

3. Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường 35

ii. Những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU 37

1. Những thuận lợi khi xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

sang thị trường EU 37

1.1. Chính phủ Việt Nam có nhiều hoạt động và chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 37

1.2. EU là một thị trường chung thống nhất 40

1.3. Quan hệ thương mại của Việt Nam - EU ngày càng được củng cố, tăng cường 40

2. Những khó khăn khi xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

sang thị trường EU 44

2.1. Nguồn nguyên liệu đầu vào chưa ổn định 44

2.2. Các doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư 45

 

 

2.3. Qui mô sản xuất nhỏ, không đáp ứng được đơn hàng lớn 47

2.4. Nguồn nhân lực trình độ còn thấp 48

2.5. Hoạt động marketing xuất khẩu còn nhiều hạn chế 49

Chương iii: Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của việt nam sang thị trường eu 52

i. Chiến lược xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

đến năm 2010 52

ii. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU 54

1. Giải pháp về phía Nhà nước 55

1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý 55

1.2. Giải pháp về nguồn nguyên liệu đầu vào 56

1.3. Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu 56

1.4. Xúc tiến thương mại phát triển thị trường 58

1.5. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực 59

1.6. Các chính sách đối với làng nghề 62

2. Giải pháp về phía doanh nghiệp 63

2.1. Vận dụng có hiệu quả giải pháp marketing xuất khẩu 63

2.3. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ xuất khẩu 72

2.4. Xây dựng mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp khác 73

2.5. Tích cực tham gia Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

Việt Nam (VietCraft) 74

Kết luận 77

tài liệu tham khảo 79

 

 

doc89 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4684 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2007 đạt 10,3 triệu USD, tăng 58,5% so với cùng kỳ năm 2006. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng chậu đan bằng lục bình đạt 2,4 triệu USD, tăng gấp 6 lần so với cùng kỳ năm 2006. Đây là mặt hàng rất được ưa chuộng tại thị trường Đức. Trong 7 tháng đầu năm nay, xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Đức đạt 2,5 triệu USD, tăng 54,71% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mặt hàng thế mạnh của Việt Nam do có nguồn nguyên liệu trong nước khá phong phú và có nguồn nhân lực có tay nghề cao. Trong các sản phẩm mây tre lá, thảm, sơn mài của Việt Nam xuất khẩu sang EU thì hàng mây tre đan chiếm tỷ trọng lớn nhất (25,1%), tiếp đến là hàng lục bình lá buông, hàng tre đan (18,6%), hàng mây tre lá kết hợp (10,8%). Có thể thấy các sản phẩm làm từ chất liệu mây rất được ưu chuộng tại thị trường này. Tuy kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng lên khá nhanh trong thời gian qua nhưng vẫn chiếm tỷ trọng khiêm tốn so với nhu cầu nhập khẩu của thị trường này. Nguyên nhân là do các sản phẩm này chất lượng kém và không đồng đều, vẫn chưa đáp ứng được thị hiếu về tính độc đáo trong kiểu dáng mẫu mã của người tiêu dùng EU. Ngoài ra, nguyên liệu thực vật do chưa được xử lý tốt, thường biến dạng khi có sự thay đổi về thời tiết và không chịu được khí hậu lạnh, thậm chí phát sinh mốc, mọt ngay trên đường vận chuyển. Sản xuất phân tán cũng đã góp phần làm cho khâu hoàn thiện sản phẩm không đồng đều, lô tốt, lô xấu lẫn lộn. Hơn nữa, thuế doanh thu với đặc điểm thuế chồng lên thuế, phí vận tải với cách tính cước theo khối đối với hàng cồng kềnh cũng là những nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh qua giá của các mặt hàng này trên thị trường EU. Nếu có những giải pháp thích hợp để phát triển sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng và cải thiện mẫu mã thì EU thực sự là thị trường tiềm năng cho loại hàng xuất khẩu này. 3. Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường Thị trường EU là một thị trường chung của 27 quốc gia. Các quốc gia này có đặc điểm chung về chính sách nội khối và chính sách đối ngoại tuy nhiên mỗi nước có đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, dân số, thị hiếu tiêu dùng, xu hướng tiêu dùng...Chính vì vậy mà tình hình xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng sang các quốc gia thành viên này cũng có sự khác biệt. Bảng 2.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang EU năm 2006 STT Thị Trường Kim ngạch (Triệu USD) Tỷ trọng (%) 1 Pháp 62,41 24,57 2 Đức 37,36 14,71 3 Hà lan 29,51 11,62 4 Anh 27,99 11,02 5 Bỉ 26,49 10,43 6 Italia 18,90 7,44 7 Tây Ban Nha 15,93 6,27 8 Thụy Điển 12,88 5,07 9 Đan Mạch 10,44 4,11 10 Hi Lạp 2,39 0,94 11 Phần Lan 2,11 0,83 12 Bồ Đào Nha 1,04 0,41 13 Ailen 0,97 0,38 15 áo 0,85 0,33 14 Lucxambua 0,23 0,09 16 Các nước còn lại của EU 4,52 1,78 Tổng 254 100,00 Nguồn: Bộ Công Thương Các thị trường chủ yếu nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam là Pháp (24,57%), tiếp đến là Đức (14,71%), Hà Lan (11,62%), Anh (11,02%), Bỉ (10,43%), Italia (7,44%), Tây Ban Nha (6,72%). Đây là những thị trường truyền thống của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta sang những thị trường này luôn tăng trưởng đều. Các nước còn lại của EU trong bảng 2.2 trên bao gồm 10 quốc gia là Síp, Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litvia, Malta, Ba Lan, Slovakia và Slovenia. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang các thị trường này chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn (1,78%) trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang EU. Nguyên nhân là do nhu cầu thị trường không lớn và hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam mới đang dần thâm nhập và tạo được chỗ đứng trên thị trường các nước này. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cần tiếp tục nâng cao vị trí của mình tại các thị trường nhập khẩu truyền thống Đức, Pháp, Hà Lan, Anh, Bỉ...và cần xây dựng các chiến lược thâm nhập hiệu quả vào thị trường các nước thành viên mới của EU đặc biệt là 2 thành viên mới kết nạp của EU là Bungari và Rumani. ii. Những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU 1. Những thuận lợi khi xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU 1.1. Chính phủ Việt Nam có nhiều hoạt động và chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Tiềm năng của ngành sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam là rất lớn cả về kinh tế lẫn xã hội và cần được phát triển hơn nữa. Do vậy, Đảng và Nhà nước, các bộ ngành cũng đã có nhiều chính sách cụ thể để khuyến khích ngành nghề này phát triển. Ngày 24/1/2000, Thủ tướng chính phủ đã ra Quyết định 132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó nội dung chủ yếu là đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Quyết định này đã có những qui định cụ thể đổi với từng lĩnh vực như đất đai, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, phát triển khai thác nguyên liệu phục vụ sản xuất, cá chính sách về đầu tư, tín dụng, thuế, lệ phí, hỗ trợ xúc tiến thương mại [17]. Hiện nay, một số bộ, ngành liên quan đang cụ thể hóa mức độ và thủ tục thực hiện. Theo thông tư số 61/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính, kể từ ngày 1/1/2002 các doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hỗ trợ chi phí hoạt động xúc tiến thương mại bằng 0,2% kim ngạch xuất khẩu thực thu trong năm [1]. Tiếp theo, Thông tư số 62/2002/TT-BTC của Bộ này cũng tháo gỡ các khó khăn của doanh nghiệp về chi phí hoa hồng môi giới xuất khẩu. Theo thông tư này thì các khoản chi này sẽ được hạch toán vào chi phí bán hàng của doanh nghiệp, đối tượng được hưởng hoa hồng xuất khẩu gồm cả các doanh nghiệp, các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Bên cạnh đó, khó khăn về vay vốn ưu đãi đã được chính phủ khai thông qua Quyết định 02/2001/QĐ-TTg ngày 2/1/2001 về chính sách hỗ trợ đầu tư từ Quỹ hỗ trợ phát triển đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và sản xuất nông nghiệp. Như vậy, theo qui định hiện hành các dự án đầu tư sản xuất chế biến hàng xuất khẩu ngoài các ưu đãi như giảm miễn tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp còn được vay vốn tín dụng đầu tư từ Quỹ hỗ trợ phát triển với lãi suất ưu đãi và điều kiện dễ dàng hơn trước [16]. Ngoài ra, theo nghị quyết 05/2001/NQ-CP ngày 24/5/2001 thì các chủ thể được xuất khẩu trực tiếp đã được mở rộng “khuyến khích thương nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa mà pháp luật không cấm, không phụ thuộc vào ngành nghề đã đăng ký kinh doanh’’. Các cơ sở sản xuất kinh doanh kể cả vừa và nhỏ đều được quyền lựa chọn tham gia trực tiếp xuất khẩu hay ủy thác xuất khẩu. Một chính sách xuất khẩu rất cụ thể nữa đã được áp dụng là chính sách thưởng xuất khẩu cho doanh nghiệp theo 5 tiêu chuẩn: có mặt hàng mới, thị trường mới, chất lượng cao, đạt quy mô về kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu theo qui định. Tháng 5/2001, Bộ Công Thương (trước đây là Bộ Thương Mại) đã trình Chính phủ đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó các sản phẩm gỗ, gốm sứ mỹ nghệ, hàng mây tre đan, thêu ren thổ cẩm, hàng chạm bạc, đúc đồng được đặc biệt ưu đãi khuyến khích xuất khẩu; ưu đãi các dự án thành lập mới; các dự án đổi mới dây chuyền công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất; giảm 50% hoặc miễn toàn bộ tiền sử dụng đất, miễn tiền thuê đất từ 3-13 năm trong thời gian thực hiện dự án, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; hỗ trợ 50% chi phí thuế gian hàng trưng bày sản phẩm tại các hội chợ triển lãm quốc tế (miễn 100% nếu doanh nghiệp ký được hợp đồng xuất trị giá trên 20.000 USD). Ngày 10/5/2007 tại Hà Nội, Ban vận động thành lập Hiệp hội đã tổ chức Đại hội lần thứ nhất nhiệm kỳ 2007-2012 và Lễ thành lập Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam (Vietcraft) theo Quyết định số 302/QĐ-BNV ngày 2/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc cho phép thành lập Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Đây là một cầu nối cho xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Từ nay cho đến 2010, VietCraft sẽ tập trung hỗ trợ nâng cao năng lực trên cơ sở các nhu cầu thực tế và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp hội viên trên cơ sở các thị trường mục tiêu được định hướng rõ ràng, đồng thời phối hợp với các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý Nhà nước, các tổ chức quốc tế để tạo ra một môi trường tốt nhất cho các doanh nghiệp thành viên, từ việc đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào có chất lượng và cạnh tranh, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất, quản lý đến xúc tiến thương mại trên cơ sở các thị trường mục tiêu. Bên cạnh đó, Hiệp hội sẽ tích cực xây dựng các mối quan hệ mang tầm khu vực và thế giới nhằm nâng cao hình ảnh và tính cạnh tranh của ngành hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Để có thế hỗ trợ cho các nhà nhập khẩu, phân phối quốc tế có nhu cầu tìm hiểu, hợp tác với các doanh nghiệp trong ngành hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, trong năm 2008, VietCraft sẽ tổ chức một hội chợ quốc gia về hàng thủ công mỹ nghệ và trang trí nội thất, quà tặng Việt Nam mang tầm quốc tế [22]. 1.2. EU là một thị trường chung thống nhất Hiện nay, EU là một khối liên kết kinh tế chặt chẽ và sâu sắc nhất thế giới. Đây là thị trường chung của 27 quốc gia thành viên, thống nhất về thể chế, cùng tuân theo chính sách nội khối và chính sách thương mại, sử dụng chung đồng tiền Euro. Chính sách nội khối tập trung vào việc xóa bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải quan (các hàng rào thuế quan và phi thuế quan) để tự do lưu thông hàng hóa dịch vụ sức lao động và vốn đồng thời điều hòa các chính sách kinh tế - xã hội của các nước thành viên. Chính sách ngoại thương cũng được áp dụng chung đối với tất cả các quốc gia thành viên của EU liên quan đến nhiều lĩnh vực như chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách quản lí nhập khẩu với những qui định về biểu thuế quan chung, về các biện pháp phi thuế quan mà tiêu biểu là hàng rào kỹ thuật. Khi hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đáp ứng được các tiêu chuẩn chung của EU thì sẽ dễ dàng lưu thông sang thị trường các nước thành viên. Đây cũng là yếu tố giúp hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam tiếp cận dễ hơn với thị trường các nước thành viên. EU hiện cũng là thị trường có nền kinh tế rất phát triển, là một trong 3 trung tâm kinh tế lớn trên thế giới (Mỹ, EU, Nhật) với GDP các năm 2000 đạt trên 9.050 tỷ USD, năm 2001 đạt 9.135 tỷ USD, năm 2006 đạt gần 11.000 tỷ USD [15], [20]. Tổng kim ngạch ngoại thương của thị trường này chiếm tỷ trọng khá lớn trong kim ngạch thương mại toàn cầu (gần 20%). Với tốc độ tăng trưởng như vậy, EU là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam nói riêng. Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường tiềm năng này. 1.3. Quan hệ thương mại của Việt Nam - EU ngày càng được củng cố, tăng cường Trong những năm qua, quan hệ Việt Nam - EU luôn được củng cố và tăng cường. Một sự kiện quan trọng đánh dấu bước tiến mới đặc biệt về chất lượng quan hệ Việt Nam - EU diễn ra vào ngày 31/5/1995 tại Brussels, “Hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EU’’ được ký chính thức. Sự kiện này là đỉnh cao trong mối quan hệ hợp hữu nghị hợp tác Việt Nam - EU từ trước tới nay. Đây cũng là Hiệp định khung đầu tiên được EU ký kết với một nước Đông Nam á. Bản Hiệp định gồm 21 điều khoản, 03 phụ lục quy định những nguyên tắc trong quan hệ hai bên nhằm tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư, thương mại hai chiều. Hiệp định phục vụ cho 4 mục đích sau: - Đảm bảo các điều kiện cần thiết nhằm khuyến khích, đẩy mạnh và phát triển quan hệ thương mại, đầu tư hai chiều trên cơ sở hai bên cùng có lợi, đương nhiên có tính đến hoàn cảnh kinh tế của mỗi bên. - Hỗ trợ kinh tế Việt Nam phát triển vững chắc, trong đó đặc biệt chú ý cải thiện đời sống cho các tầng lớp dân cư nghèo. - Thúc đẩy hợp tác kinh tế cùng có lợi, bao gồm cả việc việc trợ giúp Chính phủ Việt Nam trong các nỗ lực chuyển sang nền kinh tế thị trường. - Hỗ trợ về môi trường và sử dụng lâu dài, hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. Điều đặc biệt có ý nghĩa là trong Điều 3 của Hiệp định, cả Việt Nam và EU cùng thoả thuận sẽ dành cho nhau Quy chế tối huệ quốc (MFN), đặc biệt là quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) - điều này có ý nghĩa lớn vì trong khi Việt Nam chưa phải là thành viên WTO nhưng vẫn được hưởng quy chế ưu đãi này [18]. Ngoài ra, Hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EU còn quy định nhiều vấn đề cụ thể khác có liên quan đến một số lĩnh vực như đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ, hợp tác kinh tế - khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường, hợp tác khu vực, hợp tác thông tin...Hiệp định cam kết phát triển và đa dạng hoá trao đổi thương mại, cải thiện quá trình tiếp cận thị trường của nhau đến mức cao nhất có thể được, đồng thời sẽ thực hiện các chính sách nhằm tạo thuận lợi cho việc bán sản phẩm vào thị trường của nhau. Các bên sẽ dành cho nhau điều kiện thuận lợi để xuất, nhập khẩu hàng hóa và thoả thuận, xem xét cách thức và biện pháp loại bỏ hàng rào thương mại giữa các bên, đặc biệt là hàng rào phi thuế quan. Các bên cũng thoả thuận khuyến khích trao đổi thông tin về những cơ hội thị trường cùng có lợi và tham khảo ý kiến của nhau về thuế quan, phi thuế quan, dịch vụ, y tế, an toàn hoặc môi trường và yêu cầu về kỹ thuật, tiến hành các chương trình đào tạo trong lĩnh vực này, cải thiện quan hệ hợp tác về hải quan, về khả năng đào tạo nghiệp vụ, đơn giản hoá và đồng nhất các thủ tục hải quan. Theo hiệp định này, hai bên sẽ thành lập Uỷ ban hỗn hợp để đưa ra những khuyến nghị thích hợp nhằm thực hiện mục đích do hiệp định đề ra, xác định ưu tiên các hoạt động mà hai bên cần thực hiện. Ngay sau khi ký Hiệp định khung với Việt Nam, vào cuối năm 1995, EU đã cử ngay một số quan chức nghiên cứu giúp Việt Nam đẩy nhanh chương trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Từ tháng 9/1995, đại diện của Việt Nam đã bắt đầu tham gia các hoạt động của Uỷ ban ASEAN ở Brussels trong khuôn khổ quan hệ giữa các nước ASEAN và EU. Như vậy, quan hệ thương mại Việt Nam - EU còn tạo thêm điều kiện cho Việt Nam mở rộng hơn nữa các quan hệ nằm trong khuôn khổ hợp tác ASEAN - EU. Ngày 17/1/1996, EU đã cử Đại sứ thường trực của mình tới Việt Nam, sau đó Uỷ ban hợp tác Việt Nam - EU cũng được thành lập. Uỷ ban này có nhiệm vụ thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế - thương mại theo sự cam kết của Hiệp định khung [19]. Trong quan hệ thương mại và đầu tư, EU đã nhanh chóng trở thành bạn hàng lớn thứ ba của Việt Nam (sau Nhật Bản và ASEAN), kim ngạch buôn bán hai chiều tăng lên đáng kể từ 15% - 20%/năm, với tổng trị giá khoảng từ 3,5 - 4 tỷ USD/năm. Tháng 2/1997, EU đã ký chính thức hiệp định hợp tác EU - ASEAN. Điều này đã tạo cho Việt Nam một vị thế mới trong ASEAN đối với quan hệ EU - ASEAN. Qua đó, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn nhất là về các hoạt động kinh tế đối ngoại vì được hưởng thêm nhiều ưu đãi của EU [18]. Những yếu tố trên tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác thương mại giữa 2 nước nói chung và tạo điều kiện cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường EU. Kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam - EU tăng nhanh trong những năm qua đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu có sự tăng trưởng rất mạnh. Bảng 2.3: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - EU Đơn vị: Triệu USD Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Kim ngạch XNK 2002 3.149,9 1.841,1 4.991,0 2003 3.858,8 2.472,0 6.330,8 2004 4.962,6 2.509,5 7.472,1 2005 5.600,0 2.600,0 8.200,0 2006 6.050,0 2.765,0 8.815,0 Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam Cùng với sự tăng trưởng mạnh của kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU thì kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường này cũng tăng nhanh. Bảng 2.4: Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU Đơn vị tính: Triệu USD Mặt hàng 2002 2003 2004 2005 Hàng dệt và may mặc 551.9 537,0 860,0 826,0 Giày dép các loại 1.327,9 1.602,5 1.850,0 1.700,0 Cà phê 165,8 262,31 467,0 320,0 Thủy sản 97,9 153,2 235,0 430,0 Hàng thủ công mỹ nghệ 119,6 142,3 193,1 225 Sản phẩm gỗ 101,8 158,8 306,0 412,0 Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam Như vậy kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang EU chiếm tỷ trọng 3,7% - 4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này trong giai đoạn 2002 - 2005. Đây là con số còn nhỏ so với tiềm năng xuất khẩu mặt hàng này của nước ta. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 sẽ nâng tỷ lệ này lên trên 6,4% (đạt kim ngạch trên 0,6 tỷ USD). EU còn có nhiều nỗ lực ủng hộ Việt Nam trong tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Quan hệ Việt Nam - EU chắc chắn sẽ có nhiều bước tiến vượt bậc trong thời gian tới, nhất là khi EU đã thành lập xong Hội đồng kinh doanh và Trung tâm thông tin kinh tế Châu Âu tại Việt Nam. Hai tổ chức này sẽ không chỉ là nơi cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp mà còn đóng vai trò là chiếc cầu nối, là sợi dây liên hệ giữa các doanh nghiệp Việt Nam và EU, đem đến cho cả hai phía nhiều cơ hội thuận lợi trong kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như các hoạt động kinh tế khác. 2. Những khó khăn khi xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU 2.1. Nguồn nguyên liệu đầu vào chưa ổn định Phần lớn nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là nguyên liệu tại chỗ như mây, tre, lứa, đất sét, cói...phần nhập khẩu không đáng kể (trừ mặt hàng gỗ phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu). Để theo kịp xu hướng tiêu dùng luôn thay đổi và đem lại sự sáng tạo cho sản phẩm, nhiều doanh nghiệp đã khai thác được các nguyên liệu mới mà thực chất đã rất quen thuộc với người dân như mành trúc làm từ hoa mía, các sản phẩm đan từ sợi lục bình hay cỏ tết bện...Tuy nhiên, việc khai thác bừa bãi trong khi không có kế hoạch phục hồi đang là nguy cơ rất lớn gây nên tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất trong tương lai. Nhiều khu rừng tre, trúc, vầu đang bị khai thác cạn kiệt. Chính vì vậy làm giá nguyên liệu đầu vào ngày càng tăng lên, ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm và làm giảm sức cạnh tranh về giá cả. Nếu không có giải pháp kịp thời cho vấn đề này thì trong tương lai không xa Việt Nam sẽ giống như một số nước Châu á hiện nay là không còn nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Nhu cầu nguyên liệu cho chế biến đồ gỗ xuất khẩu hiện nay chủ yếu từ nguồn nhập khẩu, lượng gỗ khai thác tự nhiên không đủ sử dụng còn gỗ rừng trồng thì chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sản xuất dăm gỗ và ván nhân tạo. Trong tương lai nhu cầu về sản phẩm gỗ sẽ tăng nhanh ở cả trong và ngoài nước, đặc biệt là trong nước khi thu nhập quốc dân tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện thì yêu cầu về số lượng và chất lượng sản phẩm gỗ ngày càng một tăng cao. Theo tính toán của “Hiệp hội gỗ, lâm sản Việt Nam” từ nay đến 2010 hoặc lâu hơn chút nữa, thì tỷ lệ 20% nguyên liệu cung cấp cho sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu hàng năm từ nguồn trong nước mà chủ yếu là rừng trồng sẽ tiếp tục bị thu hẹp vì tiến độ rừng trồng và phát triển rừng không nhanh bằng tiến độ phát triển ngành sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu và kể cả tiến độ phát triển nhu cầu tiêu dùng trong nước. Hơn nữa cây gỗ rừng trồng cũng phải có tuổi đời và độ lớn nhất định mới dùng làm nguyên liệu sản xuất đồ gỗ xuất khẩu được [11]. Chính vì vậy mà nhiều năm nữa Việt Nam vẫn phải tiếp tục nhập khẩu gỗ nguyên liệu với số lượng lớn. Đây là một vấn đề đau đầu đối với các nhà sản xuất, kinh doanh đồ gỗ xuất khẩu vì sẽ vô cùng bị động và bấp bênh, nguồn cung cấp không ổn định, giá cả lại thường xuyên biến động với xu thế ngày càng tăng cao [8]. Do đó, việc xây dựng các chiến lược ổn định nguồn nguyên liệu gỗ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ mỹ nghệ xuất khẩu cũng như đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. 2.2. Các doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư Vốn là yếu tố rất cần thiết cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ cũng như bất kỳ loại hàng hóa nào. Đặc biệt, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam được sản xuất chủ yếu là thủ công nên năng suất không cao, trình độ khoa học công nghệ còn thấp nên rất khó đảm bảo chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ từ khi sản xuất cho tới khi đến tận tay người tiêu dùng nước nhập khẩu. Đặc biệt là trong điều kiện khí hậu nóng ẩm như Việt Nam thì hiện tượng mối, mọt rất dễ xảy ra. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp càng phải đầu tư vốn mua thêm trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động cũng như nâng cao chất lượng cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam đáp ứng với tiêu chuẩn khắt khe của thị trường EU. Mặc dù hiện nay có một số địa phương đã thực hiện cho vay vốn qua chương trình khuyến nông hoặc theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg, Nghị định 35/NĐ - CP như Hà Tây, An Giang, Hà Nam...tuy nhiên lượng vốn cho vay không được nhiều, mức độ ảnh hưởng của hỗ trợ tài chính chưa đáng kể bởi khả năng tiếp cận còn hạn chế và nhiều bất cập trong thủ tục, điều kiện vay vốn (đảm bảo thanh toán, thời hạn vay, mức lãi suất). Doanh nghiệp sản xuất tại Hà Nam muốn vay tiền phải trải qua nhiều bước rất phức tạp: lập dự án, lãnh đạo xã ký xác nhận, huyện xác nhận, ngân hàng thẩm định (có khế ước của ngân hàng) sau đó lên Sở Công nghiệp duyệt, ban chỉ đạo quỹ khuyến nông thẩm định, rồi mới trình lên UBND tỉnh. Hơn nữa, không phải lúc nào cũng trình dự án ngay được. Thường thì theo đợt, một năm 2 lần. Một nguyên nhân mà phần lớn các doanh nghiệp, hộ sản xuất tư nhân ở Hà Nam không tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển đó là theo qui định của Nghị định 35/NĐ - CP ngày 29/3/2002 của Chính phủ quy định danh mục sản xuất kinh doanh hàng hóa xuất khẩu thì doanh nghiệp phải xuất khẩu trực tiếp 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu. Mặc dù phần lớn các doanh nghiệp, hộ sản xuất tư nhân ở Hà Nam đều xuất khẩu hàng ra nước ngoài hơn 30%, có khi cả trăm phần trăm, nhưng đều qua trung gian (không xuất khẩu trực tiếp). Do vậy họ không được hưởng vay vốn ưu đãi theo Nghị định 35 của Chính phủ [12]. Hơn nữa, vẫn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, doanh nghiệp tư nhân không dễ gì vay được tín chấp. Việc tiếp cận các nguồn vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển cũng trong tình trạng như vậy. Do đó những đơn hàng lớn hoặc đầu tư cho mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp vừa và nhỏ hay hộ sản xuất còn rất hạn chế. 2.3. Qui mô sản xuất nhỏ, không đáp ứng được đơn hàng lớn Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam được các doanh nghiệp EU đánh giá là có kiểu dáng phù hợp với thẩm mỹ của người dân EU nhưng thật đáng tiếc là nhiều nhà sản xuất Việt Nam đã phải từ chối các đơn hàng lớn vì năng lực sản xuất không đáp ứng nổi. Hầu hết các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đều rất nhỏ lẻ và như đánh giá của các nhà nhập khẩu EU là “thiếu chuyên nghiệp”. Hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu tại các làng nghề truyền thống theo phương thức sản xuất hộ gia đình. Chính vì vậy mà qui mô sản xuất khá nhỏ nên không thể ký kết những hợp đồng xuất khẩu có giá trị lớn. Đến từ làng nghề gốm Bàu Trúc của dân tộc Chăm tỉnh Ninh Thuận, một trong những làng nghề cổ nhất Đông Nam á, ông Nguyễn Văn Tuyên, giám đốc công ty Gốm Bàu Trúc ấp ủ mong ước đưa sản phẩm gốm đặc trưng của dân tộc mình ra thị trường thế giới và nâng cao giá trị cho sản phẩm quê hương. Ông Tuyên cho biết: “có sản phẩm Bàu Trúc bán ra thị trường trong nước thì chỉ có thể đưa giá 15.000 đồng, khi gặp khách hàng Pháp, họ trả chúng tôi đến 100USD/bình nhưng số nghệ nhân làm nghề của làng hiện chỉ coàn 20-30 người, để đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu, năng lực của chúng tôi chỉ làm được 1500 sản phẩm/tháng - một con số quá nhỏ”. Trên thực tế, ông Tuyên đã phải từ chối nhiều đơn hàng lớn của khách hàng nước ngoài vì không thế đáp ứng được. Còn với ông Nguyễn Minh Phú, chủ cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Minh Phú (Hà Tây), một trong ba tác giả đạt giải đặc biệt của Golden V với sản phẩm bộ bình bách điệp đã có một kinh nghiệm xương máu khi mất khách hàng. “Đó là vào năm 2002, một khách hàng Hà Lan đã đặt của chúng tôi 5 mã bình cốt táng trị giá 1,2 triệu USD, trong đó mỗi mã đòi hỏi 22.000 sản phẩm và thời gian giao hàng rất gấp. Chúng tôi đã phải từ chối đơn hàng lớn đó vì năng lực sản xuất không thể đáp ứng được, hiện chúng tôi chỉ có khoảng 30 công nhân” [22]. Trước thực trạng trên, các cơ sở sản xuất có thế liên doanh, liên kết, tạo khối liên ngành, thành lập các công ty cổ phần để thực hiện các đơn hàng lớn. Nếu như khắc phục được nhược điểm nhỏ bé về năng lực sản xuất, ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng rất lớn khi vươn ra thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. 2.4. Nguồn nhân lực trình độ còn thấp Nói đến nguồn nhân lực phục vụ cho ngành hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam chúng ta có thể chia thành nguồn nhân lực phục vụ sản xuất và nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam được đánh giá là rẻ, dồi dào, không mất nhiều thời gian đào tạo bởi phần lớn là do vừa học

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU.doc
Tài liệu liên quan