Luận văn Thực trạng và giải pháp phát triển ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh với yêu cầu hội nhập WTO

MỤC LỤC

Chương 1: 3

ĐẶT VẤN ĐỀ 1

1.1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài. 3

1.2. Mục tiêu nghiên cứu. 4

1.3. Nội dung nghiên cứu. 4

1.4. Phương pháp nghiên cứu. 4

Chương 2: 5

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP HÀ TĨNH VỚI VIỆC GIA NHẬP WTO 5

2.1. Vai trò vị trí của ngành lâm nghiệp 5

2.1.1. Vai trò cung cấp 5

2.1.2. Vai trò phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái 5

2.1.3. Vai trò xã hội 6

2.2. Các tiềm năng phát triển ngành lâm nghiệp của Hà Tĩnh 6

2.2.1. Điều kiện tự nhiên 6

2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội 7

2.3. Các hoạt động của ngành lâm nghiệp 9

2.3.1. Hoạt động trồng rừng và bảo vệ rừng 9

2.3.2. Hoạt động khai thác lâm sản 10

2.3.3. Hoạt động chế biến lâm sản 10

2.3.4. Hoạt động tiêu thụ 11

2.4. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và xu thế hội nhập của lâm nghiệp Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh nói riêng. 11

2.4.1. Tổ chức WTO 11

2.4.2. Sự cần thiết phải hội nhập của ngành lâm nghiệp 16

Chương 3: 19

THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH LÂM NGHIỆP HÀ TĨNH VỚI YÊU CẦU HỘI NHẬP WTO 19

3.1. Những yêu cầu và lộ trình cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến kinh tế lâm nghiệp Việt Nam. 30

3.1.1. Về chính sách thuế quan 30

3.1.2. Phi thuế quan 33

3.2. Thực trạng phát triển của ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh 19

3.2.1. Về công tác trồng rừng, bảo vệ và phát triển rừng 19

3.2.2. Về công tác khai thác sử dụng rừng 22

3.2.3. Về hoạt động chế biến và tiêu thụ lâm sản. 25

3.3. Đánh giá tình hình thực hiện hội nhập của lâm nghiệp Hà Tĩnh 36

3.3.1. Sự chủ động trong hội nhập 36

3.3.2. Đánh giá cơ hội và thách thức 39

3.3.3. Đánh giá điểm mạnh điểm yếu 42

Chương 4: 45

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH THEO YÊU CẦU HỘI NHẬP 45

4.1 Quan điểm, mục tiêu phát triển 45

4.1.1. Quan điểm 45

4.1.2. Mục tiêu phát triển 46

4.2 Dự báo một số xu hướng thị trường trong những năm tới 46

4.3 Một số giải pháp thúc đẩy ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh phát triển theo yêu cầu hội nhập 48

4.4 Một số kiến nghị cho ngành lâm nghiệp Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh nói riêng trong thực hiện lộ trình hội nhập WTO 55

4.4.1 Đối với chính phủ 55

4.4.2 Đối với các nhà đầu tư 56

KẾT LUẬN 57

Tài liệu tham khảo 58

 

 

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5501 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp phát triển ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh với yêu cầu hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n quản lý rừng bền vững”. Để xác nhận QLRBV thì phải tổ chức đánh giá và cấp chứng chỉ rừng. Hiện đã có những tổ chức cấp chứng chỉ, như: Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC) hoặc được FSC uỷ quyền (như Smartwood, Hội đất). Việc cấp chứng chỉ rừng chỉ thực hiện ở đơn vị quản lý, chưa có chứng chỉ ở cấp quốc gia. Lợi ích của cấp chứng chỉ rừng là sản phẩm từ rừng có tính cạnh tranh cao trên những thị trường coi trọng bảo vệ rừng và môi trường. Nếu có quy trình theo dõi quá trình hình thành sản phẩm từ khâu khai thác đến khâu thành phẩm, gọi là chuỗi hành trình thì sản phẩm được dán nhãm của tổ chức cấp chứng chỉ. c. Về vấn đề cạnh tranh thương mại bình đẳng Theo nguyên tắc của WTO là tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng trong đó hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. Tuy nhiên đối với ngành lâm nghiệp thì gần như chưa có một vụ kiện nào thể hiện sự cạnh tranh không bình đẳng. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là các loại gỗ nhân tạo như: gỗ dăm, gỗ ghép thanh… ngoài ra sản phẩm được nhiều nước trên thế giới ưa chuộng là đồ thủ công mỹ nghệ mây tre đan. Bên cạnh đó chúng ta tạo môi trường bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp, trong đó chú trọng đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp. Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá doanh nghiệp về năng lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Tăng cường quản lý các doanh nghiệp nhà nước theo luật trên cơ sở tổ chức lại các Bộ, Ngành và hệ thống luật pháp ngày càng bình đẳng hơn giữa các loại hình doanh nghiệp. 3.2. Thực trạng phát triển của ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh 3.2.1. Về công tác trồng rừng, bảo vệ và phát triển rừng Diện tích rừng trồng hiện có của Hà Tĩnh là 84.645 ha. Bình quân mỗi năm Hà Tĩnh trồng mới được 6.000 ha. Trong đó: Rừng trồng bằng vốn ngân sách Nhà nước là 1.600 ha, trồng bằng nguồn vốn vay là 2000 ha, diện tích còn lại 2.400 ha là dân cư tự bỏ vốn ra trồng. Ngoài ra mỗi năm Hà Tĩnh còn trồng được 13 - 15 triệu cây phân tán các loại, đưa độ che phủ của rừng từ 34.1% năm 1999 lên và hiện nay là 47%, tăng bình quân 1.5% / năm. Là tỉnh có độ che phủ cao trong toàn quốc. Ý thức của người dân về rừng, về môi trường sinh thái và bảo vệ, phát triển rừng đã được nâng lên rõ rệt, xu thế trồng rừng nguyên liệu, trồng cây bản địa quý hiếm, trồng cây có giá trị kinh tế cao như cây Dó Trầm được nhân dân phát triển mạnh, cùng với các loài cây chủ lực khác như cây Cao Su, cây Keo, cây Phi Lao, cây Mây Nếp và một số lâm sản ngoài gỗ… đã tạo nên các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, gắn với nhà máy chế biến, tạo được động lực thúc đẩy quá trình phát triển rừng. Bảo vệ rừng là công tác thường xuyên, liên tục có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời với việc quản lý, phát triển và sử dụng rừng. Trong những năm qua công tác bảo vệ rừng đã được các cấp, các ngành, các chủ rừng quan tâm, chú trọng. Vì vậy đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, nỗi bật là: - Bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có gồm 214.958 ha rừng tự nhiên; 84.645 ha rừng trồng - Số vụ phá rừng trái phép giảm nhiều so với trước đây cả về tính chất, quy mô và mức độ vi phạm. Các vụ vi phạm được phát hiện và xử lý chủ yếu là vận chuyển lâm sản trái phép từ các tỉnh khác qua địa bàn và vận chuyển động vật hoang dã từ Lào về. - Số vụ cháy rừng giảm đáng kể, chủ yếu là cháy do sơ suất khi đốt thực bì, cỏ dại ở những trang trại liền kề rừng lan sang, một số ít do dân đốt tổ ong lấy mật gây cháy. Ý thức của nhân dân trong việc phòng cháy chữa cháy rừng ngày càng được nâng cao; sự phối hợp giữa chính quyền các cấp huyện, xã, chủ rừng và các lực lượng vũ trang trong việc bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng ngày càng chặt chẽ. - Sâu róm gây hại rừng thông luôn là một nguy cơ thường trực. Tuy nhiên trong những năm qua các chủ rừng, các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành, các cấp chính quyền và nhân dân sống gần quan tâm, chú trọng, tập trung cao độ cả về tài và lực trong việc phòng và dập dịch nên phần nào đã hạn chế được tổn thất rừng do dịch sâu róm gây ra. Để thực hiện tốt quá trình trồng, chăm sóc, bảo vệ và phát triển rừng Hà Tĩnh đã giao 37.888 ha cho 13.730 hộ gia đình, đồng thời các chủ rừng nhà nước đã thực hiện chính sách giao khoán lâu dài theo Nghị định 01 của Chính phủ cho 3.671 lượt hộ, với diện tích 94.100 ha. Hoạt động lâm nghiệp đã tạo việc làm cho 37.000 lao động của 193 xã có rừng trên 10 huyện, thị trong tỉnh, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, giảm nhẹ tệ nạn phá rừng và tăng cường ổn định an ninh, xã hội ở miền núi. Ta thấy hoạt động trồng, chăm sóc, bảo vệ và phát triển rừng đã có những tiến triển tích cực. Đặc biệt trong xu thế hội nhập mà cụ thể là sau một năm gia nhập WTO của Việt Nam thì hoạt động trồng của ngành với mục đích phát triển ngành lâm nghiệp phát triển theo yêu cầu hội nhập Hà Tĩnh đã thực hiện đề án phát triển các loài cây lâm nghiệp chủ lực đến năm 2010 với vốn đầu là 463,969 tỷ đồng. Tình hình đầu tư cho từng loài cây cụ thể được thể hiện trong biểu sau: Biểu 3.04: Tình hình đầu tư cho các các loài cây lâm nghiệp chủ lực TT Hạng mục ĐVT Keo, bạch đàn Dó trầm Cao su Phi lao Song mây Tổng số 1 Xây dựng rừng Tr.đ 119.790 36.619 61.803 18.107 33.150 269.469 - Diện tích Ha 18.150 3.329 2.289 3.033 5.100 31.920 - Đơn giá Tr.đ/ha 6,6 11 27 5,97 6,5 2 Mở đường Tr.đ 39.300 9.000 13.800 6.000 5.100 73.200 - Khối lượng Km 262 60 92 50 51 515 - Đơn giá Tr.đ/km 150 150 150 120 100 3 XD nhà máy Tr.đ 35.000 3.000 32.000 15.000 30.000 115.000 4 Chuyển giao KL Tr.đ 2.400 1.200 700 800 1.200 6.300 Tổng cộng Tr.đ 196.490 49.819 108.303 39.907 69.450 463.969 Trong đó: - Vốn ngân sách là 85,7 tỷ đồng, gồm: . Đầu tư mở đường 59,4 tỷ đồng . Đầu tư chuyển giao và khuyến lâm 6,3 tỷ đồng . Chính sách hỗ trợ sản xuất 20 tỷ đồng - Vốn tín dụng 327,17 tỷ đồng - Vốn đầu tư nước ngoài 33,1 tỷ đồng - Vốn huy động trong dân 18 tỷ đồng Như vậy không chỉ khi gia nhập WTO rồi thì tỉnh mới có những chuẩn bị cho các khu rừng trồng nguyên liệu, mà từ nhu cầu của ngành chế biến lâm sản thì ngành lâm nghiệp cũng đã tiến hành phát triển các khu rừng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Những sản phẩm tiêu dùng trong nước nguồn gốc của nguyên liệu đầu vào không được kiểm soát chặt chẽ nhưng đối với sản phẩm xuất khẩu thì đây là một điều kiện quyết định sản phẩm có được thị trường chấp nhân hay không. Đó là nguyên do mà các khu rừng nguyên liệu của Hà Tĩnh cũng được tiến hành thực hiện theo các quy định của Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam nhằm đảm bảo quản lý rừng bền vững. 3.1.2. Về công tác khai thác sử dụng rừng Khai thác rừng là một khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh lâm nghiệp, nó vừa là kết quả của hoạt động trồng rừng cũng là điều kiện thúc đẩy thực hiện trồng, tái sinh rừng. Thực trạng khai thác rừng một số sản phẩm từ rừng trong thời gian qua được thể hiện trong bảng sau: Biểu 3.05: Kết quả khai thác gỗ tròn giai đoạn 2000 - 2007 Năm Sản lượng Giá trị m3 Tốc độ phát triển LH (%) Triệu đồng Tốc độ phát triển LH (%) 2000 23.935,75 - 23.606,63 - 2001 22.681,90 94,76 22.684,96 96,09 2002 18.524,56 81,76 22.761,26 100,34 2003 8.745,20 47,21 13.120,44 57,64 2004 8.967,31 102,54 15.748,39 120,03 2005 9.006,72 100,44 17.835,11 113,50 2006 8.827,37 98,01 17.675,98 99,11 2007 9.043,0 102,44 18.253,29 103,27 (Nguồn: Báo cáo thực trạng và phát triển lâm nghiệp Hà tĩnh) Cả tỉnh Hà tĩnh trước năm 2003 có 6 đơn vị được phép khai thác rừng tự nhiên, bình quân mỗi năm sản lượng khai thác từ 20.000 đến 25.000 m3. Từ năm 2003 chỉ còn lại hai đơn vị được phép khai thác rừng tự nhiên là: Lâm trường Chúc A và Công ty Lâm nghiệp dịch vụ Hương Sơn. Tổng diện tích hai đơn vị này quản lý 67.118 ha, và hàng năm chỉ được phép khai thác bình quân khoảng 8.000 m3 với cường độ khai thác bình quân 20% tương đương 30m3/ha. Sau khai thác rừng vẫn còn trữ lượng trên 100 m3/ha, độ tàn che bình quân 0,5 và chỉ sau 1 đến 2 năm rừng phục hồi trạng thái ổn định. Thông qua khai thác rừng mỗi năm các đơn vị còn trích bình quân 250.000 đồng/m3 đầu tư trở lại quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Ta thấy khi có quyết định hạn chế khai thác rừng tự nhiên thì sản lượng khai thác hàng năm đã giảm một cách đáng kể, kéo theo đó là giá gỗ tròn lại tăng lên làm tăng giá trị khai thác nên dù sản lượng giảm hơn một nữa nhưng giá trị khai thác giảm không nhiều. Bên cạnh đó sản lượng khai thác hàng năm tăng giảm không theo một xu hướng nhất định, mà không đều giữa các năm vì hoạt động này phần lớn cũng phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, mà Hà Tĩnh là một trong những tỉnh mà khí hậu, thời tiết khắc nghiệt gây khó khăn nhiều cho sản xuất nông nghiệp nói chung và lâm nghiệp nói riêng. Lâm sản ngoài gỗ cũng là một nguồn lợi từ rừng có giá trị cao, tuy nhiên chưa được chú trọng khai thác với quy mô lớn do không có cơ sở chế biến và không có nguồn tiêu thụ ổn định. Do đó việc khai thác các nguồn lâm sản ngoài gỗ như dược liệu… là do cá nhân hay hộ gia đình tiến hành và phục vụ nhu cầu của họ nên rất khó thống kê. Công tác điều tra và khảo sát nguồn lợi của rừng được tiến hành hàng năm nhằm phục vụ cho công tác lập kế hoạch khai thác, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển lâm nghiệp bền vững. Khi có quyết định hạn chế việc khai thác rừng tự nhiên, đồng thời việc thực hiện cấp chứng chỉ rừng đã giúp cho việc khai thác rừng có quy cũ hơn. Chứng chỉ rừng thực chất là hình thức đảm bảo cho sản phẩm khai thác từ rừng mà cụ thể là gỗ phải có nguồn gốc từ những khu rừng không bị phá hoại và suy thoái. Khi gia nhập WTO việc kiểm soát lâm sản xuất khẩu càng chặt chẽ hơn thể hiện: đối với nguyên liệu nhập khẩu từ ngoài vào thì lượng xuất đi không thể vượt quá lượng nhập vào, do đó sẽ rất khó tiêu thụ nếu nguyên liệu khai thác trong nước không có nguồn gốc rõ ràng. Điều này đã có tác động không nhỏ đến hoạt động khai thác lâm sản. Hiện tại Hà Tĩnh có hai đơn vị được phép khai thác rừng tự nhiên là rừng sản xuất trong đó Công ty Lâm nghiệp và Dịch vụ Hương Sơn đang thực hiện thí điểm của đề án phát triển lâm nghiệp bền vững nhằm đảm bảo để rừng được cấp chứng chỉ rừng. Trên cơ sở chiến lược phát triển lâm nghiệp Quốc gia, định hướng phát triển Lâm nghiệp tỉnh trong giai đoạn tới là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển từ lâm nghiệp chủ yếu từ khai thác lợi dụng tài nguyên rừng thông qua các đơn vị kinh tế nhà nước sang lâm nghiệp xã hội với trọng tâm là bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, khôi phục và phát triển rừng với cơ cấu cây trồng đảm bảo đáp ứng được cả hai mục tiêu phòng hộ môi trường và kinh tế. Khai thác lợi dụng tài nguyên hợp lý, bền vững. Đẩy mạnh trồng rừng sản xuất, gắn với công nghệ chế biến tiên tiến nhằm nâng giá trị sản phẩm từ rừng, đồng thời đáp ứng được nhu cầu thị trường. Rừng trồng ở Hà Tĩnh trong nhiều năm nay chủ yếu là Thông nhựa và các loài Keo, Bạch Đàn, Phi Lao và một số cây bản địa. Trong vài năm gần đây đã đẩy mạnh việc trồng cây Keo lai, Dó Trầm, tre lấy măng và đặc biệt là trồng rừng sản xuất phục vụ cho cung cấp gỗ nguyên liệu. Sản phẩm gỗ rừng trồng chủ yếu cung cấp cho nhà máy băm dăm gỗ xuất khẩu ở cảng biển Vũng Áng. Bình quân mỗi năm Hà Tĩnh khai thác 30.000 đến 40.000 m3. Biểu 3.06: Tình hình khai thác rừng trồng trong 3 năm qua TT Sản phẩm ĐVT 2005 2006 2007 TĐPTBQ 1 Gỗ m3 26563,6 32126,22 162859,8 Tốc độ PT % - 120,9 506,9 247,5  2 Nhựa thông Tấn 2016,5 1506,4 1161,5 Tốc độ PT % - 74,7 77,1 76,2  Nhìn vào biểu 3.06 ta thấy tốc độ khai thác gỗ tăng đột biến khá cao riêng năm 2007 sản lượng gỗ vượt lên quá mức bình quân do nguyên nhân đây là năm mà bão lụt khá nhiều đã làm mất đi rất nhiều diện tích rừng trồng rừng chưa đến thời kỳ khai thác. Trong 162.859,8 m3 thì chỉ có 57.253,2 m3 là khai thác và tỉa thưa gỗ rừng trồng, còn 105.606,6 m3 là tận thu gỗ đổ gãy do bão. Sản phẩm chủ yếu phục vụ cho sản xuất gỗ nhân tạo. Việc khai thác rừng trồng nhất là đối với rừng thông chỉ mới khai thác lấy nhựa nhưng do sâu bệnh và chất lượng rừng thông giảm nên sản lượng khai thác có xu hướng giảm trong 3 năm gần đây, ngoài ra việc tận dụng gỗ thông để sản xuất các sản phẩm tiêu dùng khác còn chưa đạt hiệu quả cao nên cần có những biện pháp nhằm khai thác tận dụng khi rừng hết thời kỳ khai thác nhựa. Qua quá trình nghiên cứu ta thấy trong thời gian ba năm trở lại đây tình hình khai thác rừng ở Hà Tĩnh không có biến động nhiều. Và nhìn chung sau một năm gia nhập WTO của nước nhà chưa có tác động nhiều đến hoạt động khai thác lâm sản của cả nước nói chung và Hà Tĩnh nói riêng. Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu thì việc gia nhập WTO ít tác động đến sản xuất và tiêu dùng mà phần lớn nó tác động vào hoạt động thương mại, và tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn sản phẩm tiêu dùng phù hợp với thu nhập của họ. 3.1.3. Về hoạt động chế biến và tiêu thụ lâm sản. Nguyên liệu phục vụ cho các ngành chế biến là sản phẩm từ hoạt động khai thác. Đồng thời đây cũng là ngành quan trọng trong việc quyết định giá trị của sản phẩm cao hay thấp. Công nghệ chế biến lâm sản ở Hà Tĩnh chủ yếu là sản xuất các loại gỗ như: gỗ xẻ, ván bóc, ván ghép thanh, mộc gia dụng, mộc xuất khẩu, ván dăm… ngoài ra còn có Công ty sản xuất kinh doanh nhựa thông, Công ty Cao Su, Công ty Rau quả, và một số làng nghề sản xuất mây tre đan… sản phẩm của công nghiệp chế biến được tiêu dùng trong nước và xuất khẩu Hà Tĩnh có hệ thống các nhà máy, xưởng chế biến lâm sản năng lực chế biến lớn song nhu cầu chưa được đáp ứng, cụ thể năng lực của một số thiết bị chế biến như sau: thiết bị chế biến gỗ xẽ từ 35.000 - 40.000 m3, sản xuất ván bóc 6.000 m3/năm, sản xuất ván ép 3.000 - 3.500 m3/năm… tuy nhiên hiện tại vẫn còn thiếu các cơ sở chế biến nhỏ gắn với vùng nguyên liệu tại chỗ để có thể sơ chế. Mặt khác một số cơ sở chế biến đã lạc hậu về công nghệ do đó khó khăn trong việc nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm chế biến. Việc phát triển công nghiệp chế biến lâm sản xuất khẩu là một trong những mục tiêu nhằm phát triển kinh tế tỉnh. Và để đáp ứng với yêu cầu hội nhập mà cụ thể là những quy định của WTO thì Hà Tĩnh đã thực hiện cắt bỏ các hình thức trợ cấp như khen thưởng xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu… bên cạnh đó thực hiện kiểm soát chặt chẽ nguồn nguyên liệu đầu vào đảm bảo uy tín của sản phẩm tạo niềm tin cho thị trường xuất khẩu. Hoạt động chế biến lâm sản nhìn chung đã tận dụng và phát huy được thế mạnh của ngành tuy nhiên sản phẩm sản xuất ra phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu phần lớn đang là sản phẩm thô hoặc chỉ mới qua chế biến thô nên giá trị mang lại chưa cao. Bên cạnh đó ngành chế biến lâm sản Hà Tĩnh còn chưa phát triển là do một số nguyên nhân sau: Các doanh nghiệp chế biến đa phần là có quy mô nhỏ, công nghệ và thiết bị còn lạc hậu lại thiếu sự hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau sản xuất kinh doanh theo kiểu mạnh ai người đó làm nên sản xuất khó phát triển, không thực hiện được các hợp đồng lớn do một doanh nghiệp không đủ điều kiện thực hiện mà lại không chia sẽ hợp đồng với các doanh nghiệp khác nên bỏ lỡ nhiều cơ hội. Ngoài ra các doanh nghiệp xuất khẩu lâm sản tại Hà Tĩnh chủ yếu là xuất khẩu qua trung gian nên giá trị mang lại thấp, đồng thời không có tiếng nói trên thị trường. Mặt khác việc rừng thiếu Chứng chỉ rừng là một trong những nguyên nhân mà Hà Tĩnh sẽ khó mở rộng được thị trường xuất khẩu lâm sản. Nhìn vào biểu 3.07 và biểu 3.08 ta thấy rằng tình hình tiêu thụ lâm sản của 3 năm qua luôn có xu hướng tăng lên cả tiêu thụ nội địa lẫn xuất khẩu điều đó chứng tỏ trong xu thế phát triển của ngành lâm nghiệp có chiều hướng đi lên. Chỉ riêng có colophan là có xu hướng giảm nhẹ trong năm 2007. Phân tích tình hình tiêu thụ được thể hiện cụ thể như sau: Biểu 3.07 thể hiện tình hình tiêu thụ lâm sản trong nước của tỉnh Hà Tĩnh, tốc độ bình quân của lâm sản tiêu thụ trong nước đạt 118.5% tăng 18.5% năm do sự tăng lên của các sản phẩm chế biến đặc biệt là SP mây tre đan tăng nhiều nhất tăng 40,3% sau đó là đồ mộc các loại tăng 24,7% và ván bóc tăng 15,5% và các sản phẩm khác cũng tăng lên. Riêng colophan qua giá trị tiêu thu của từng năm có xu hướng giảm nhưng về tốc độ phát triên bình quân của cả 3 năm vẫn tăng 8,4%. Và hai loại sản phẩm đồ mộc các loại và gỗ xể XDCB thay nhau chiếm tỷ trọng cao trong giá trị tiêu thụ trong nước, cụ thể trong năm 2005 sản phẩm mộc các loại chiếm 35,7%, gỗ xẻ XDCB chiếm 41,3% trong giá trị tiêu thụ trong nước; tương ứng năm 2006 là 32,4% và 37,2% ; năm 2007 là 39,6% và 33,9%. Với giá trị sản phẩm gỗ có tốc độ tăng hàng năm là 15.7% đây là một mức tăng khá cao thể hiện những dấu hiệu tốt về tình hình tiêu thụ sản phẩm gỗ trong nước. Đạt được mức tăng như vậy là do nhu cầu về các loại sản phẩm gỗ trong nước tăng lên một cách đáng kể, nhất là các sản phẩm đồ mộc các loại (tăng 24.7%); đây là sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt và sản xuất khác nhau như: giường, bàn, ghế, tủ văn phòng… Bên cạnh đó tốc độ phát triển bình quân của ván bóc đạt được đáng kể 115.5% (tăng 15.5%). Có được sự phát triển như vậy là do trong giai đoạn phát triển hiện nay, các sản phẩm đồ gỗ từ gỗ tự nhiên ít dùng vừa tốn nguyên liệu mà giá lại cao, thay thế vào đó là các sản phẩm làm từ gỗ nhân tạo, gỗ ép vừa rẻ lại có tính thẫm mỹ cao nên được người tiêu dùng chấp nhận vì thế tình hình tiêu thụ sản phẩm này không ngừng tăng lên dự báo cho thấy rằng trong tương lai mức độ tiêu thụ còn lớn hơn nữa. Bên cạnh đó, gỗ xẻ xây dựng cơ bản cũng tăng lên đáng kể chủ yếu là do nhu cầu của ngành xây xựng cơ bản tăng, nhu cầu của thị trường tiêu dùng tăng lên. Hiện nay, do đời sống cao và do tính chất đặc trưng của sản phẩm gỗ nên người dân có xu hướng tăng nhu cầu sử dụng mặt hàng này nên tình hình tiêu thụ không ngừng tăng lên. Về lâm sản ngoài gỗ tốc độ phát triển bình quân tương đối đạt 109.1%. Nhìn chung đây là mặt hàng truyền thống và trong những năm qua nhu cầu sử dụng tương đối cao. Là mặt hàng chủ yếu để xuất khẩu tuy nhiên ba năm qua nhu cầu sử dụng trong nước tăng lên nên tình hình tiêu thụ tăng lên. Hơn nữa trong những năm qua có nhiều doanh nghiệp cũng như Sở Nông nghiệp Hà Tĩnh có nhiều đầu tư về kỹ thuật và vốn vào mặt hàng này nên nâng cao chất lượng tạo niềm tin cho người tiêu dùng trong và ngoài nước. Với các mặt hàng lâm sản xuất khẩu được thể hiện cụ thể ở biểu 3.08 như sau: Các mặt hàng xuất khẩu tuy ít về chủng loại song về số lượng và giá trị tương đối lớn. Tốc độ tăng bình quân chung là 21.7% tình hình xuất khẩu cụ thể từng loại sản phẩm thể hiện là: Trong giá trị của kim ngạch xuất khẩu thì ta thấy SP đồ mộc các loại chiếm tỷ trọng cao nhất năm 2005 chiếm 89,1%, năm 2006 chiếm 89,8% và năm 2007 chiếm 90,9% trong tổng giá trị xuất khẩu. Việc sản phẩm đồ gỗ chiếm tỷ trọng lớn như vậy đem lại nhiều ưu thế cho lĩnh vực sản xuất đồ mộc. Sản phẩm gỗ tốc độ tăng bình quân là 23.1%, đây chủ yếu là các sản phẩm đồ mộc các loại có chất lượng cao và dăm mảnh. Sản phẩm này chủ yếu tiêu thụ ở các nước như Đài Loan, EU, Mỹ… Điều đó chứng tỏ rằng sản phẩm của tỉnh Hà Tĩnh đủ tiêu chuẩn để có thể thâm nhập thị trường quốc tế nên cần phát huy ưu điểm của mình để mở rộng thị trường tiêu thụ trong tương lại. Bên cạnh các sản phẩm gỗ còn có lâm sản ngoài gỗ cũng là loại sản phẩm đang được các nước ưa chuông nhất là mặt hàng mây tre đan. Vốn dĩ đây là mặt hàng truyền thống của Việt Nam, mang nét đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam nên được khách hàng thế giới ưa chuộng. Vì thế mặt hàng này ngày càng có nhiều đơn đặt hàng của các nước, qua đó cho thấy rằng mây tre đan của Hà Tĩnh không chỉ tạo niềm tin cho khách quốc tế bằng mẫu mã đẹp mà chất lượng còn tốt nữa. Vì thế Sở Nông nghiệp cũng như các doanh nghiệp Hà Tĩnh cần đầu tư nhiều kỹ thuật, vốn để tạo nên một thương hiệu cho hàng lâm sản của tỉnh mình. Biểu 3.07: Tình hình tiêu thụ lâm sản trong nước qua ba năm 2005 - 2007 Đvt: tr.đ TT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 TĐPTBQ (%) Giá trị Giá trị TĐPT(%) Giá trị TĐPT(%) I Sản phẩm gỗ 41.800 45.200 108,1 56.000 123,9 115,7 1 Đồ mộc các loại 18.000 19.500 108,3 28.000 143,6 124,7 2 Gỗ xẻ XDCB 20.800 22.400 107,7 24.000 107,1 107,4 3 Ván bóc 3.000 3.300 110,0 4.000 121,2 115,5 II Lâm sản ngoại gỗ 12.354 15.049 121,8 14.710 97,7 109,1 1 Colophan 12.100 14.686 121,4 14.210 96,8 108,4 2 Mây tre đan 254 363 142,9 500 137,7 140,3 Tổng 50.359 60.249 119,6 70.710 117,4 118,5 Biểu 3.08: Tình hình xuất khẩu lâm sản trong các năm 2005 - 2007 Đvt: USD TT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 TĐPTBQ (%) Giá trị Giá trị TĐPT(%) Giá trị TĐPT(%) II Sản phẩm gỗ 16.832.000 23.031.000 136,8 25.519.000 110,8 123,1 1 Đồ mộc các loại 16.112.000 22.001.000 136,6 24.319.000 110,5 122,8 3 Dăm mảnh 720.000 1.030.000 143,1 1.200.000 116,5 129,1 II Lâm sản ngoại gỗ 1.246.500 1.460.100 117,1 1.240.050 84,9 99,7 1 Colophan 1.223.000 1.435.000 117,3 1.206.400 84,1 99,3 2 Mây tre đan 23.500 25.100 106,8 33.650 134,1 119,7 Tổng 18.078.500 24.491.100 135,5 26.759.050 109,3 121,7 Nói tóm lại tình hình tiêu thụ lâm sản của Hà Tĩnh trong cũng như ngoài nước đạt tỷ trọng tương đối cao. Song bên cạnh mặt hàng tăng cũng có những mặt hàng giảm xuống như Colophan. Đây là sản phẩm sản xuất từ nhựa thông, song do tình hình cung cấp nguyên liệu giảm (do sâu bệnh phá hại) nên số lượng và chất lượng cung cấp bị giảm đáng kể. Mặt khác, ở trong nước cũng như trên thế giới có nhiều doanh nghiệp cung cấp sản phẩm này nên tình hình xuất khẩu của Hà Tĩnh giảm đáng kể. Vì thế để khắc phục tình trạng này cần có biện pháp tốt chống sâu bệnh phá hại cây cũng như có công nghệ tiên tiến giúp quá trình sản xuất hiệu quả tạo ra sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới. 3.3. Đánh giá tình hình thực hiện hội nhập của lâm nghiệp Hà Tĩnh 3.3.1. Sự chủ động trong hội nhập Chủ động trong cơ chế thị trường Cơ chế thị trường luôn chứa đựng trong nó những diễn biến và các mối quan hệ phức tạp. Vì vậy để tồn tại và phát triển được ngành lâm nghiệp phải biết rõ được thực lực của mình, điểm mạnh, điểm yếu của mình để có thể chủ động tham gia thị trường không bị lúng túng. Ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 tỉnh Hà Tĩnh đã có những đổi mới trong cơ chế quản lý về lâm nghiệp. Thực chất là sự “cởi trói” khỏi cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã xơ cứng và quan liêu. Từ đây ngành lâm nghiệp đã từng bước chủ động các nguồn lực để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh và định hướng kế hoạch sản xuất kinh doanh không phụ thuộc quá nhiều vào các trợ cấp, cân đối từ ngân sách Nhà nước. Sự chủ động trong ngành lâm nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh chính là việc nhanh chóng nắm bắt được sự cần thiết của thị trường lâm sản, để từ đó chủ động điều chỉnh cơ chế sản xuất trong lâm nghiệp. Trong những năm gần đây tỉnh đã nâng cấp được một khu bảo tồn thành Vườn quốc gia Vũ Quang và khu bảo tồn thiên nhiên Kẽ Gỗ nhằm bảo tồn lưu giữ nguồn gen động thực vật và tham gia dự án 661 phát triển vốn rừng. Những bước tiến với mục đích phát triển ngành du lịch sinh thái và các ngành lâm sản ngoại gỗ.Và đây chính là bước đầu cho sự phát triển của ngành trong tương lai, nhất là tạo sự khởi đầu cho quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Chủ động trong điều chỉnh cơ chế quản lý đáp ứng yêu cầu hội nhập Có thể nói rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào khi có cơ chế phù hợp, chọn đúng khâu đột phá thì nhất định ngành lâm nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh sẽ có bước phát triển mạnh mẽ. Vì vậy để tiến tới hội nhập Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đã chủ động hướng dẫn các doanh nghiệp lâm nghiệp chuẩn bị các điều kiện, chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh cuả hàng hoá. Điều đó thể hiện qua việc hướng dẫn các đơn vị thực hiện linh hoạt các chính sách của nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp về đầu tư tăng cường năng lực và khả năng cạnh tranh, cụ thể: - Rà soát quỹ đất, tổ chức sắp xếp lại các Lâm trường Quốc doanh theo Quyết định 187 của Thủ tướng Chính phủ. - Tăng độ che phủ của rừng từ 34,1% năm 1999 lên 45% năm 2005, ngăn chặn cơ bản nạn chặt phá rừng tráí phép, góp phần vào việc giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái và mang lại hiệu quả kinh tế. - Thực hiện tốt giao đất khoán rừng, tạo công ăn việc làm cho lao động trên 10 huyện trong tỉnh, góp phần vào công cuộc xoá đối giảm nghèo. - Tiến hành thực hiện cải cách hành chính, đổi mới trong Quản lý Nhà nước theo yêu cầu của nền kinh tế, của hội nhập, đảm bảo sử dụng bền vững tài nguyên môi trường. Ngoài việc thực hiện tốt các công việc nêu ra ở trên thì có hai vấn để mà ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh phải tiến hành thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên như sau: Vấn đề thứ nhất: khai thác có hiệu quả tài nguyên rừng, nằm trong khả năng giải quyết của các doanh nghiệp trong lĩnh vực lâm nghiệp một khi xóa bỏ được tình trạng bao cấp và thay thế bằng cơ chế hoạt động hợp lý. Nghị quyết

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16.doc
Tài liệu liên quan