Luận văn Thực trạng và những biện pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

4. Phương pháp nghiên cứu 3

CHƯƠNG I: MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ LÀNG NGHỀ 4

1.1. Khái niệm và đặc điểm của làng nghề: 4

1.1.1. Khái niệm về làng nghề 4

1.1.2. Đặc điểm của làng nghề: 8

1.2. Vai trò của kinh tế làng nghề trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn nước ta 10

1.2.1. Vai trò của làng nghề đói với phát triển kinh tế nói chung: 10

1.2.2. Vai trò của làng nghề đối với xã hội nói chung: 13

1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế làng nghề 18

1.3.1. Nhóm nhân tố tự nhiên: 18

1.3.2. Nhóm nhân tố kinh tế 18

1.3.3. Nhóm nhân tố văn hoá- xã hội 20

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ LÀNG NGHỀ Ở HẢI PHÒNG 20

2.1. Khái quát các điều kiện phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng 20

2.1.1. Điều kiện tự nhiên và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của làng nghề ở Hải Phòng: 20

2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội của Hải Phòng và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của làng nghề: 22

2.2. Thực trạng phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng: 25

2.2.1.Vài nét về quá trình phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng: 25

2.2.2.Sự phát triển của làng nghề Hải Phòng giai đoạn từ năm 1996 đến nay: 30

a)Chủ trương chính sách phát triển làng nghề của thành phố .30

b) Thực trạng về hình thức tổ chức sản xuất của các làng nghề của Hải Phòng hiện nay: 31

c) Tình hình lao động ở các làng nghề Hải Phòng: 33

d) Về vốn đầu tư và cơ sở hạ tầng của các làng nghề hiện nay của Hải Phòng 37

e) Cơ sở hạ tầng cho sản xuất của làng nghề ở Hải Phòng 39

f) Về nguồn nguyên liệu cho sản xuất ở các làng nghề 40

g) Tình hình tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề ở Hải Phòng hiện nay: 41

h) Về thu nhập và mức sống của lao động làng nghề hiện nay 43

2.3. Kết quả và những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế làng nghề của Hải Phòng 45

2.3.1.Những kết quả đạt được trong thời gian qua: 45

2.3.2. Những vấn đề tồn tại và nguyên nhân trong phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng hiện nay: 47

2.3.3. Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng: 50

CHUƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ LÀNG NGHỀ Ở HẢI PHÒNG 53

3.1. Những yêu cầu cơ bản trong phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng: 53

3.1.1.Cần nhận thức đầy đủ vai trò và sự cần thiết phát triển kinh tế làng nghề: 53

3.1.2. Phát triển làng nghề phải gắn với phát triển kinh tế nông thôn Hải Phòng 54

3.1.3. Phát triển sản xuất của làng nghề phải gắn với việc đáp ứng nhu cầu của thị trường về sản phẩm làng nghề: 55

3.1.4. Cần phát huy tối đa nội lực và tận dụng các yếu tố ngoại lực để phát triển làng nghề: 56

3.2. Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng: 57

3.2.1. Hoàn thiện và thực hiện công tác quy hoạch sản xuất làng nghề ở Hải Phòng: 57

3.2.2. Một số giải pháp chủ yếu về tiêu thụ: 58

3.2.3. Đổi mới và tăng cướng áp dụng công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm: 64

3.2.4. Phát triển các quan hệ tín dụng nhằm đảm bảo vốn sản xuất cho các làng nghề: 66

3.2.5. Đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguyên liệu theo yêu cầu sản xuất của các làng nghề: 68

3.2.6. Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và môi trường của làng nghề: 69

3.2.7. Đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề nhằm đảm bảo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho sản xuất của các làng nghề 70

3.2.8. Phát triển đa dạng các mô hình hợp tác sản xuất trong các làng nghề 72

KẾT LUẬN 77

TÀI LIỆU THAM KHẢO 79

 

doc79 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và những biện pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đan tre, chế biến cói, thêu ren,... các ngành đòi hỏi sự cẩn thận kiên trì và khéo léo. Với cả hai giới đều có những ngành nghề phù hợp để tham gia lao động, tân dụng nguồn lực lao động ở địa phương. Bảng 5: Số lượng lao động ở các làng nghề (Đơn vị: người) Số TT Tên ngành nghề Lao động (người) Tổng số Theo giới tính Tính chất lao động Tình trạng việc làm Nam Nữ Thường xuyên Thời vụ Đủ việc Thiếu việc 1 Đan tre 5.039 2.470 2.569 1.791 3.248 2.140 2.899 2 Thêu ren 844 06 838 552 292 500 344 3 Gột cá giống 850 820 30 250 600 720 130 4 Dệt chiếu cói 1.500 600 900 600 900 1.200 300 5 Sản xuất đồ gỗ 1.615 1.454 161 817 798 1.156 459 6 Chế biến nông sản 1.661 595 1.066 1.015 646 1.078 538 7 KD cây cảnh 2.262 973 1.289 1.606 656 1.855 407 8 Vật liệu xây dựng 4.867 3.441 1.426 3.203 1.664 3.803 1.064 9 Đúc, rèn kim loại 1.626 1.213 413 990 636 1.232 394 10 Vận tải 905 855 50 802 103 830 75 11 Đánh cá xa bờ 2.900 2.900 - 1.900 1.000 1.900 1.000 Tổng cộng 24.069 15.327 8.742 13.526 10.543 16.414 7.655 (Nguồn: Sở NN & PTNT Thành phố Hải Phòng) Phân chia theo tính chất lao động, ta có thể thấy, hoạt động của làng nghề đã góp phần giải quyết được cho 13.526 lao động thường xuyên và 10.543 lao động thời vụ. Phân chia theo tình trạng việc làm cho thấy điều đáng quan tâm là lượng việc làm ở các làng nghề hiện không đủ cho lượng người có nhu cầu làm việc, biểu hiện qua con số 7.655 người thiếu việc làm của các làng nghề được điều tra. Tổng số lao động có việc làm là làng nghề mới chỉ là hơn 24.000 người, chưa phải là con số lớn đối với lượng lao động dồi dào ở nông thôn Hải Phòng. Một mặt nó cho thấy nguồn lực lao động của Hải Phòng hiện vẫn chưa được giải phóng hết. Mặt khác lại thấy rằng nông thôn Hải Phòng hiện có một nguồn lao động dồi dào sẵn sàng với việc làm. Đây là một nguồn lực đáng kể để khai thác trong thời gian tới. *Về chất lượng lao động: đáng chú ý là hiện nay các lao động hầu hết chưa qua đào tạo, chủ yếu làm bằng kinh nghiệm và truyền nghề. Do đó, chất lượng lao động không cao, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Bảng 6: Trình độ lao động ở các làng nghề Số TT Tên ngành nghề Tổng số lao động Chưa qua đào tạo Đã qua đào tạo Tổng số Trình độ Sơ cấp Thợ giỏi Trung cấp CĐ ĐH 1 Đan tre 5.039 4.930 109 10 99 - - 2 Thêu ren 844 - 844 741 102 - 1 3 Gột cá giống 850 770 80 - 52 25 3 4 Dệt chiếu cói 1.500 1.380 120 - 120 - - 5 Sản xuất đồ gỗ 1.615 1.376 239 125 94 20 - 6 Chế biến nông sản 1.661 1.661 - - - - - 7 KD cây cảnh 2.262 2.262 - - - - - 8 Vật liệu xây dựng 4.876 4.119 748 348 400 - - 9 Đúc, rèn kim loại 1.626 1.404 222 50 130 40 2 10 Vận tải 905 509 396 304 - 56 36 11 Đánh cá xa bờ 2.900 2.378 522 410 - 103 9 Tổng cộng 24.069 20.789 3.280 1.988 997 244 51 (Nguồn: Sở NN & PTNT Thành phố Hải Phòng) Có thể thấy rằng tỷ lệ lao động đã được qua đào tạo là rất ít, chỉ có 3.280 người, chiếm 14% tổng số lao động làng nghề. Trình độ đào tạo của người làm nghề cũng tỷ lệ nghịch với số lượng lao động tương ứng. Chủ yếu thợ làm nghề chỉ có trình độ sơ cấp, chiếm đến hơn 50% tổng số lao động đã qua đào tạo. Đặc biệt, người làm nghề có trình độ cao đẳng hoặc đại học rất hiếm hoi, chỉ có 51 người trong 3.280 người được đào tạo và trong 24.069 người là lao động làng nghề. Lượng lao động có qua đào tạo chủ yếu tập trung ở các nghề thêu ren, vận tải , vật liệu xây dựng. Nhưng thợ có trình độ cao về chuyên môn thì chủ yếu ở các ngành đánh cá xa bờ, đúc rèn kim loại. Một điểm đáng lưu ý là nghề chế biến nông sản, sản xuất các loại thực phẩm, bún bánh,... hoàn toàn không được đào tạo qua một bậc nào cả. Việc sản xuất hoàn toàn dựa trên nghề cha truyền con nối hoặc nghề dạy nghề. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm và sức khoẻ người tiêu dùng. Cũng như vậy, đối với các nghề đòi hỏi trình độ nhất định như vận tải, khai thác vật liệu xây dựng hay đánh cá xa bờ thì mức đào tạo mà người dân được học chủ yếu là trình độ sơ cấp. Dễ thấy rằng mức độ đào tạo đối với các ngành này như vậy là chưa thoả đáng. Hậu quả của nó có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ cũng như của cải vật chất của chính người làm nghề, ảnh hưởng tới sản phẩm và môi trường sinh thái bền vững. Một vấn đề nữa là trình độ quản lý của chủ các cơ sở sản xuất ở Hải Phòng hiện cũng chưa cao. Nguyên nhân do sản xuất nhỏ quy mô gia đình nên chủ hộ đồng thời là chủ cơ sở sản xuất, quyết định mọi vấn đề liên quan đến sản xuất. Đối với những hộ sản xuất lâu năm còn có thể bù lấp bằng kinh nghiệm và mối quan hệ trong sản xuất, tiêu thụ. Còn đối với hộ mới đi vào sản xuất thì sự thiếu hụt kiến thức chung về sản xuất và quản lý làm ảnh hưởng rất nhiều đến sự tồn tại của cơ sở sản xuất. Nhất là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày nay, người quản lý cần có một lượng kiến thức nhất định trong sản xuất kinh doanh để có được những quyết định kinh doanh đúng đắn. Trong khi đó, Hải Phòng vốn được đánh giá là một trong những thành phố có trình độ dân trí cao, nguồn lao động có tay nghề và được đào tạo bài bản hơn so với một số tỉnh, địa phương trong khu vực. Vấn đề là ở chỗ thu hút lượng lao động này phục vụ cho hoạt động của các làng nghề, góp phần cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ quản lý sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tóm lại, trình độ lao động nói chung của các lao động làng nghề ở Hải Phòng hiện nay là chưa cao, 86% lao động chưa qua đào tạo, chỉ có 14% lao động được qua đào tạo. Để phát triển sản xuất và duy trì sự tồn tại, phát triển của làng nghề thì trong thời gian tới cần có những biện pháp thúc đẩy công tác dạy và học nghề, nâng cao trình độ của người làm nghề. d) Về vốn đầu tư và cơ sở hạ tầng của các làng nghề hiện nay của Hải Phòng Vốn là điều kiện cần thiết và không thế thiếu được để thực hiện bất cứ quá trình sản xuất kinh doanh nào. Nhất là đối với lĩnh vực nông nghiệp- nông thôn đang là lĩnh vực có vai trò chủ chốt trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Đối với các ngành nghề nông thôn, vốn đầu tư là yếu tố quan trọng để phát huy tiềm năng về các nguồn lực khác của làng nghề. Trong quá trình hoạt động và phát triển hiện nay, các làng nghề cũng từng bước tích luỹ vốn, đầu tư cho sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, mức đầu tư cho mỗi ngành nghề và tỷ lệ đầu tư vốn trong mỗi ngành nghề là khác nhau. Bảng 8: Tình hình đầu tư cho sản xuất ở các làng nghề Số TT Ngành nghề Giá trị tài sản (triệu đồng) Tổng giá trị Tài sản cố định Tài sản lưu động Giá trị máy móc TSCĐ khác 1 Đan tre 2.947 246 1.100 1.601 2 Thêu ren 1.238 390 618 230 3 Gột cá giống 3.550 50 0 3.500 4 Dệt chiếu cói 1.870 270 0 1.600 5 Sx đồ gỗ 10.390 1.180 3.360 5.850 6 CB nông sản 3.560 1.345 715 1.500 7 KD Cây cảnh 3.400 - - 3.400 8 Vật liệu XD 10.624 6.454 1.245 2.925 9 Đúc rèn kim loại 15.606 1.346 1.568 12.692 10 Vận tảI 121.250 105.920 2.205 13.125 11 Đánh cá xa bờ 89.880 87.880 - 2.000 Tổng cộng 264.315 205.081 10.811 48.423 Tổng vốn đầu tư của 30 làng nghề điều tra là 264.315 triệu đồng, trong đó, tổng tài sản cố định là 215.892 triệu đồng (chiếm 81%), vốn lưu động là 48.423 triệu đồng (chiếm 19%). Xét tương tương quan giữa hai lượng vốn cho thấy rõ ràng sự chênh lệch. Vốn đầu tư cho sản xuất chủ yếu tập trung vào các tài sản cố định, vốn lưu động ít và do đó sản xuất sẽ khó có khả năng phát huy vai trò của mình. Đó là vấn đề chủ động về nguyên liệu, vật tư dự trữ cho sản xuất, các vấn đề về lưu thông sản phẩm... Trong các ngành nghiên cứu, hai ngành có lượng vốn đầu tư lớn là ngành vận tải (121.250 triệu đồng) và đánh cá xa bờ (89.880 triệu đồng) cũng là do đặc điểm hoạt động phải sử dụng các loại máy móc lớn, hiện đại. Với các ngành này, lượng vốn đầu tư vào máy móc, phương tiện vận tải chiếm hầu hết lượng tài sản cố định của ngành. Với một số ngành khác thì lượng vốn đầu tư rất thấp, vào khoảng 1.000.000 đồng/ hộ. Hầu hết các ngành này sử dụng tay nghề làm vốn, tài sản cố định ít và có giá trị thấp, số vốn còn lại là vốn lưu động, sử dụng quay vòng trên thị trường để thu mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.. Các ngành này có quy mô nhỏ, sản xuất manh mún, dụng cụ thô sơ và chất lượng sản phẩm không cao. Về hình thức đầu tư vốn, các ngành này chủ yếu sử dụng vốn tự có. Chính vì quy mô sản xuất gia đình và sử dụng lượng vốn tự có để tiến hành sản xuất nên lượng vốn đầu tư cho sản xuất thấp. Hình thức vốn tín dụng được xác định là hình thức đầu tư vốn quan trọng trong phát triển nông nghiệp nông thôn lại không được tiến hành rộng rãi đối với phát triển sản xuất của các làng nghề Hải Phòng. Vốn vay tín dụng chủ yếu tập trung tại các nghề vận tải đường thuỷ, đánh bắt cá xa bờ, một phần cho khai thác vật liệu xây dựng và nghề đúc rèn kim loại do tỷ lệ hoàn vốn cao hơn các ngành khác. Như vậy, một mặt làng nghề phát triển cũng góp phần giúp nông thôn Hải Phòng đẩy mạnh thu hút vốn trong dân đưa vào sản xuất tạo ra giá trị cho xã hội và cho bản thân chủ cơ sở sản xuất. Lượng vốn ở mỗi cơ sở không nhiều nhưng tính trên toàn khu vực nông thôn thì con số này là hơn 264.000 triệu đồng- một con số không nhỏ. Mặt khác, cũng lại thấy rằng do vốn đầu tư thấp làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và nhiều yếu tố khác nữa như tiêu thụ và xử lý rác thải... Nó cũng thể hiện tính chất sản xuất nhỏ, tính thủ công trong sản xuất. Về lâu dài tiến lên sản xuất hàng hoá lớn buộc phải tăng lượng vốn đầu tư cho các cơ sở sản xuất. Ta cũng thấy rằng vốn tín dụng không phát huy được vai trò tích cực của nó đối với sản xuất của làng nghề. Trong tình trạng thiếu vốn sản xuất, vốn tín dụng nếu được sử dụng hợp lý sẽ có tác dụng hỗ trợ phát triển rất to lớn. Do đó trong thời gian tới cần có những biện pháp đối với vốn tín dụng để vốn tín dụng có thể được sử dụng nhiều hơn ở khu vực kinh tế làng nghề. e)Về cơ sở hạ tầng cho sản xuất của làng nghề ở Hải Phòng Trong nhiều năm qua, được sự hỗ trợ của Nhà nước và cùng với sự hưởng ứng nhiệt tình của nông dân, đến nay, tại các xã có làng nghề đã có 48% đường liên thôn, liên xã được nhựa hoá, bê tông hoá, còn lại cũng được rải đá cấp phối. Đường thôn xóm cũng được củng cố, tạo điều kiên thuận lợi cho lưu thông nguyên vật liệu và sản phẩm dễ dàng hơn trước. Giao thông trước đây vốn là một trở ngại cho việc lưu thông và tiêu thụ hàng hoá thì từ nay, việc vận chuyển, tiêu thụ đã thuận tiện hơn rất nhiều. Phục vụ cho sản xuất, các yếu tố quan trong khác như điện, nước sạch, các công trình phục vụ văn hoá, giáo dục, y tế của nhân dân cũng được cải thiện khá nhiều. Các huyện có tới 102 trạm biến áp, đáp ứng được hơn 95% nhu cầu người dân về điện, gần 90% các hộ dân thoả mãn nhu cầu dùng nước sạch. Những điều kiện thuận lợi này hỗ trợ rất tích cực cho các làng nghề trong sản xuất và sinh hoạt. Tuy nhiên trong tổng số 5.904 hộ sản xuất cần có nhà xưởngảan xuất thì có tới 76% không có khu vực riêng, các hộ thường kết hợp nhà ở với khu sản xuất gây ảnh hưởng tới sinh hoạt và môi trường xung quanh. Tổng diện tích nhà xưởng của các làng nghề Hải Phòng khoảng 90.000 m², phần lớn thuộc các cơ sở sản xuất lớn, trong đó 84% là nhà xưởng tạm thời hoặc đã xuống cấp. Điều này cho thấy mức độ tập trưng đầu tư cho sản xuất còn yếu kém, cần được củng cố hơn nữa trong thời gian tới. f) Về nguồn nguyên liệu cho sản xuất ở các làng nghề Bảng 9: Tình hình cung ứng nguyên liệu cho sản xuất Số TT Ngành nghề Nguồn cung ứng(%) Mức độ ổn định (hộ) Đầu tư sản xuất NVL Sử dụng NVL trong nước Sử dụng NVL nhập từ nước ngoài Nguồn NVL ổn định Nguồn NVL ko ổn định 1 Đan tre 9,00 91,00 - 1.940 846 2 Thêu ren - 100,00 - 250 482 3 Gột cá giống 80,00 20,00 - 728 - 4 Dệt chiếu cói 21,00 79,00 - 320 80 5 Sản xuất đồ gỗ 9,00 83,00 8,00 300 170 6 Chế biến nông sản 46,00 54,00 - 880 - 7 KHcây cảnh 80,00 20,00 - 975 275 8 Vật liệu xây dựng 96,4 3,60 - 1.369 414 9 Đúc, rèn kim loại - 100,00 - 320 316 10 Vận tải - - - - - 11 Đánh cá xa bờ - - - - - Tổng cộng 40,00 59,66 0,34 7.082 2.583 Nguồn nguyên liệu của thành phố hiện nay chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất của các làng nghề. Còn lại, hầu hết các làng nghề phải sử dụng nguyên liệu của các tỉnh thành khác trong nước. Nguồn nguyên liệu nhập ngoại chỉ chiếm số lượng rất ít, phục vụ cho ngành sản xuất đồ gỗ. Có những ngành như vận tải hay đánh cá xa bờ không quan trọng nguyên liệu, có ngành như ngành đúc rèn kim loại phải dùng 100% nguyên liệu nhập từ các tỉnh khác, nghề đan tre cũng phải dùng 91% nguyên liệu của các tỉnh khác. Hơn nữa, 27% nguồn nguyên liệu cung ứng cho sản xuất lại không ổn định. Như vậy, hầu hết các ngành nghề ở Hải Phòng phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài. Đây là một khó khăn cho sản xuất ở các làng nghề Hải Phòng. Phải nhập nguyên liệu từ bên ngoài sẽ làm cho chi phí sản xuất cao hơn do phải gánh thêm phí vận chuyển cùng nhiều phụ phí khác. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, chi phí tăng lên sẽ trực tiếp đánh vào lợi nhuận của cơ sở sản xuất. Hơn nữa, phải nhập nguyên liệu làm cho tính chủ động trong sản xuất lại bị hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó cần lưu ý là hiện nay các làng nghề ở Hải Phòng có gần 30% các hộ sản xuất không có nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định. Để sản xuất ổn định thì nhất định phải ổn định đầu vào, do đó, những hộ sản xuất này phải có những biện pháp đáp ứng tốt hơn nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất trong thời gian tới. g) Tình hình tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề ở Hải Phòng hiện nay: Các sản phẩm của làng nghề hiện nay vẫn chủ yếu được tiêu thụ trong thành phố, phục vụ nhu cầu của người dân Hải Phòng. Một số nghề như nghề đúc kim loại đã tạo ra được nhiều sản phẩm gang, nhôm, đồng, phục vụ cho sản xuất công nghiệp, dân dụng, mỹ thuật... được đánh giá cao và đã được xuất khẩu sang thị trường Pháp, Nhật, Đông Âu. Hay nghề thêu ren, vốn là nghề thủ công truyền thống có sản phẩm được người nước ngoài ưa chuộng, sản phẩm làm ra 100% được xuất khẩu. Tuy nhiên, các sản phẩm như vậy không nhiều. Bảng 10: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề Số TT Ngành nghề Tiêu thụ trong thành phố (%) Tiêu thụ ở các tỉnh nước (%) XK qua các đơn vị khác (%) XK trực tiếp (%) 1 Đan tre 68,20 31,20 0,30 0,30 2 Thêu ren - - 100,00 - 3 Gột cá giống 95,00 5,00 - - 4 Dệt chiếu cói 95,00 5,00 - - 5 Sản xuất đồ gỗ 51,00 49,00 - - 6 Chế biến nông sản 95,00 5,00 - - 7 KD cây cảnh 55,00 45,00 - - 8 Vật liệu XD 74,00 26,00 - - 9 Đúc rèn kim loại 20,10 45,30 25,70 8,90 10 Vận tải - - - - 11 Đánh cá xa bờ 20,00 80,00 - - Trung bình 59,0 32,31 8,11 0,58 Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thô thành phố Hải Phòng Theo như bảng tổng kết trên, ta có thể thấy, 59% các sản phẩm các làng nghề sản xuất ra được tiêu thụ trong nội thành. Chỉ có 32,31% tổng sản phẩm được tiêu thụ ở các tỉnh khác và tỷ lệ xuất khẩu trung bình là 8,69% tổng sản phẩm. Điều này phản ánh chất lượng sản phẩm của các làng nghề hiện nay. Do đội ngũ thợ có tay nghề cao, thợ giỏi còn thiếu nên chất lượng sản phẩm thấp, trình độ kỹ thuật lẫn mỹ thuật đều không cao nên chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Sản phẩm của làng nghề Hải Phòng hiện nay có thể nói là chưa đa dạng về chủng loại, chất lượng cũng như hình thức không cao. Do đó, mức độ đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và tính cạnh tranh của sản phẩm là rất thấp. Bên cạnh đó lại là sự cạnh tranh gay gắt của những hàng hoá cùng loại của các địa phương khác trong nước, hàng Trung quốc giá rẻ... Tất yếu dẫn đến việc tiêu thụ bị bó hẹp trong khu vực thành phố, chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong khu vực. Việc sản xuất hiện nay còn mang tính tự phát và sản xuất còn manh mún nên những thông tin về thị trường chủ yếu do các chủ cơ sở sản xuất tự tìm hiểu không chính xác, thiếu tính cập nhật, làm giảm khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường và tiêu thụ sản phẩm. Các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của các đơn vị sản xuất hầu như không có. Gần như các cơ sở sản xuất chỉ tiến hành sản xuất đơn thuần, vấn đề tiêu thụ giao cho người mua buôn qua mối quan hệ lỏng lẻo hoặc tự những người trong hộ sản xuất đem tiêu thụ tại các chợ nông thôn, chợ đầu mối của thành phố. Một điều đáng nói nữa là những sản phẩm có khả năng xuất khẩu và đã được xuất khẩu hiện nay phần lớn phải xuất khẩu qua các đơn vị khác chứ các làng nghề chưa chủ động tự tìm nguồn xuất khẩu cho mình. Đây là một điều đáng tiếc chứng tỏ khả năng tiếp cận thị trường của các làng nghề ở Hải Phòng hiện nay còn rất yếu kém. Điều này càng cho thấy rõ hơn việc cần phải có một chiến lược nắm bắt thị trường đối với các làng nghề, tạo điều kiện mở rộng thị trường cho các làng nghề Hải Phòng. h) Về thu nhập và mức sống của lao động làng nghề hiện nay Thu nhập từ làng nghề là giá trị bằng tiền thu được do tham gia sản xuất làng nghề. Mức thu nhập của lao động phần nào cho thấy hiệu quả sản xuất của các làng nghề tại những thời điểm nhất định. So sánh mức thu nhập của người tham gia các ngành nghề nông thôn với thu nhập làm nông nghiệp thuần sẽ cho ta thấy hiệu quả so sánh giữa các ngành này. Qua đó cũng có thể thấy phần đóng góp của làng nghề cho đời sống người dân nông thôn và việc phát triển kinh tế khu vực nông thôn. Bảng 10: Tình hình thu nhập của làng nghề Đơn vị tính:1000đ Số TT Ngành nghề Tổng giá trị SP (Triệu đồng) Lương tháng cho 1 lao động thường xuyên Thu nhập bình quân của LĐ thời vụ Bình quân / 1LĐ Thu nhập của các bậc LĐ Nghệ nhân, thợ giỏi Thợ trung bình LĐ thường 1 Đan tre 13.133 210 300 230 185 155 2 Thêu ren 3.638 230 280 230 205 175 3 Gột cá giống 6.750 550 800 600 450 310 4 Dệt chiếu cói 4.200 250 300 260 220 150 5 Sx đồ gỗ 15.550 520 780 600 410 295 6 CB nông sản 13.250 275 340 290 245 200 7 KD cây cảnh 8.600 350 550 400 300 250 8 Vật liệu XD 30.558 405 630 450 365 315 9 Đúc rèn kim loại 55.010 630 1.000 635 440 295 10 Vận tải 15.858 890 1.500 950 750 530 11 Đánh cá xa bờ 90.000 700 1.100 800 550 350 Bình quân 410 750 450 350 260 Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thô thành phố Hải Phòng Thu nhập bình quân cho một lao động làng nghề vào khoảng 350- 410.000đ/ tháng (đối với những lao động có việc làm thường xuyên). Thu nhập này bằng 2,1-2,3 lần lao động nông nghiệp thuần ở Hải Phòng. Đối với những lao động thời vụ, ngành nghề cũng đem đến cho mỗi lao động thu nhập khoảng 260.000đ/tháng. Qua đó có thể thấy lao động ở làng nghề đem đến hiệu quả nhất định đối với người dân nông thôn. Nhất là đối với những lao động là thợ giỏi, có kinh nghiệm và tay nghề cao, thu nhập trung bình lên tới 750.000đ/ tháng. Thậm chí có những nghệ nhân có thể có thu nhập lên tới 1.500.000đ/ tháng. Đây quả là con số không nhỏ đối với người dân nông thôn và là một đọng lực thu hút người dân nông thôn tham gia và các hoạt động ngành nghề và dịch vụ phục vụ sản xuất của các ngành nghề. Các ngành có thu nhập cao là các ngành yêu cầu đầu tư và trình độ thợ cao hơn các ngành nghề khác. Đó là các nghề vận tải, đánh cá xa bờ, đúc rèn kim loại...( trung bình từ 600-900.000đồng/ tháng). Nó cũng thể hiện nhu cầu của xã hội hiện nay về các sản phẩm của các ngành này. Các nghề có thu nhập thấp hơn là các nghề đan tre, thêu ren... có thu nhập/1lao động khoảng hơn 200.000đ/tháng. Tuy nhiên, các ngành nghề này thu hút chủ yếu là lao động trong thời gian nông nhàn nên thu nhập này mang tính chất phụ thêm vào thu nhập chính. Do đó, con số 200.000đ/ tháng thu nhập thêm không phải là nhỏ, thậm chí tương đối cao so với lao động thuần nông. Tổng giá trị sản phẩm mà các làng nghề đóng góp cho xã hội trung bình là 240.689 triệu đồng/ tháng, trong đó cao nhất là phần đóng góp của nghề đánh cá xa bờ (90.000 triệu/tháng). Với mức thu nhập này, các lao động làng nghề có thể phần nào cải thiện đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của mình. Thực tế ở Hải Phòng hiện nay, làm giàu từ làng nghề chưa có nhiều nhưng làng nghề cũng đã đóng góp một phần nhất định nâng cao mức sống vật chất cũng như tinh thần của một số cư dân. Nó cho thấy khả năng của làng nghề trong vấn đề xoá đói giảm nghèo và làm giàu ở khu vực nông thôn trong thời gian tới nhờ phát triển sản xuất ngành nghề nông thôn. Chúng cũng nói lên những đóng góp của làng nghề cho xã hội nói chung và đời sống xã hội nông thôn nói riêng. 2.3. Kết quả và những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế làng nghề của Hải Phòng 2.3.1.Những kết quả đạt được trong thời gian qua: Theo định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn của Đảng, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN & PTNT, UBND thành phố đã thực hiện chỉ đạo, tạo hành lang pháp lý và cơ chế chính sách đầu tư để phát triển làng nghề. Do đó, trải qua một thời gian khôi phục và xây dựng các làng nghề, các làng nghề Hải Phòng đã đạt được một số thành tựu nhất định về phát triển ngành nghề nông thôn, mang lại nhiều hiệu quả kinh tế xã hội. Đầu tiên phải nói đến là tác động tích cực của làng nghề đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Năm 1990, sản xuất của các làng nghề chiếm 40% GDP chung của khu vực nông thôn. Đến năm 2000, tỷ trọng của ngành nghề nông thôn trong cơ cấu kinh tế nông thôn Hải Phòng là 45,7%. Riêng những xã có làng nghề hoạt động, tỷ trọng ngành nghề giai đoạn 2000-2001 chiếm 64%, cao hơn hẳn các nơi khác. Hoạt động sản xuất của các làng nghề đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo đúng hướng, tăng dần tỷ trọng của ngành nghề nông thôn trong cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung. Điều này lại có ý nghĩa đặc biệt hơn nữa đối với thành phố Hải Phòng vốn không có nhiều thuận lợi cho sản xuất thuần nông. Từ đó sẽ tạo điều kiện cho việc đưa nhanh cơ khí hoá vào sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy các loại hình dịch vụ, ngành nghề khác cùng phát triển. Đối với lao động nông thôn, làng nghề đã tạo ra việc làm cho người dân nông thôn, tạo ra nguồn thu nhập khá cao đối với người dân nông thôn, cao gấp 2,1-2,3 lần so với lao động thuần nông, do đó thu hút ngày càng nhiều lao động vào hoạt động làng nghề. Đến nay, khu vực kinh tế làng nghề đã thu hút hơn 24 ngàn lao động, trong đó tạo việc làm cho hơn 10.500 lao động thời vụ. Thứ hai, kinh tế làng nghề Hải Phòng thời gian qua đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế nói chung và kinh tế nông thôn Hải Phòng nói riêng. Tổng giá trị sản phẩm trung bình trong thời gian qua đạt khoảng 240.500 triêu đồng/ năm và nó đã góp phần nâng cao đời sốngvật chất tinh thần cho người dân nông thôn. Các làng nghề đồng thời cũng tham gia tạo ra một khối lượng sản phẩm không nhỏ cung cấp trước hết cho dân cư trong khu vực và bắt đầu có xu hướng tiến tới sản xuất hàng xuất khẩu. Về mặt xã hội, hoạt động của làng nghề cũng đã tạo ra được những hiệu quả nhất định. Việc tham gia sản xuất ở làng nghề tạo ra thu nhập cao hơn so với lao động thuần nông là một cái mốc thu hút lao động nông thôn (khoảng 1-2%/năm). Việc tham gia lao động trong các ngành nghề đã tích cực góp phần thúc đẩy sản xuất, ổn định trật tự xã hội, giảm bớt nguy cơ về tệ nạn xã hội phát sinh do không có việc làm. Hơn nữa, trong quá trình lao động, người lao động sẽ được nâng cao tay nghề, tạo ra đội ngũ thợ hoàn thiện có khả năng đáp ứng yêu cầu sản xuất hơn so với hiện nay. Tăng lượng người tham gia lao động ở các làng nghề còn tạo ra khả năng phát triển các nghề mới, phong phú hoá các loại hình ngành nghề nông thôn. Một ảnh hưởng tốt nữa do có việc làm ổn định là hạn chế lượng người ở nông thôn ra thành phố tìm việc, giảm bớt gánh nặng cho đô thị. Hải Phòng hiện là thành phố có tỷ lệ lao động ở các làng nghề ra thành phố tìm việc giảm đi khá rõ. Cũng từ việc có việc làm và thu nhập ổn định, môi trường xã hội ở nông thôn cũng dần dần được cải thiện và ổn định hơn. Tệ nạn xã hội và các vấn đề do thất nghiệp gây ra giảm đi khá rõ. Đồng thời, cùng với phát triển sản xuát, giao lưu tiêu thụ, trình độ dân trí của người dân cũng được nâng cao. Do thu nhập tăng, tích luỹ tăng nên cơ sở hạ tầng cho sản xuất và sinh hoạt, các công trình phúc lợi xã hoọi, công trình công cộng được xây dựng nhiều hơn ở khu vực nông thôn. 2.3.2. Những vấn đề tồn tại và nguyên nhân trong phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng hiện nay: Mặc dù đã đạt được một số thành quả nhất định, nhưng cũng lại thấy rằng, trong những năm vừa qua, làng nghề của Hải Phòng có được khôi phục và phát triển, có nhiều dấu hiệu khởi sắc nhưng chưa tạo ra được ấn tượng mạnh mẽ, chưa hoạt động hiệu quả như khả năng và mong đợi. Sản xuất ở làng nghề Hải Phòng, qua phân tích thực trạng cho thấy, quy mô sản xuất hiện còn rất manh mún, kỹ thuật sản xuất thô sơ, mang nặng tính thủ công. Vốn đầu tư cho máy móc, công nghệ ở những khâu có thể thay thế lao động chân tay nhằm tăng năng suất lao động còn rất thấp. Nó ảnh hưởng trực tiếp lên chất lượng sản phẩm, làm cho sản phẩm thiếu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100352.doc
Tài liệu liên quan