MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRONG VIỆC TỔ CHỨC HOẠT
ĐỘNG DẠY HỌC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI .6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề trên thế giới.6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam .7
1.2. Một số lý luận về PPDHGQVĐ.9
1.2.1. Dạy học giải quyết vấn đề .9
1.2.2. Cơ sở khoa học của DHGQVĐ .12
1.2.3. Đặc điểm, bản chất, cấu trúc của DHGQVĐ.13
1.2.4. Vấn đề, THCVĐ, cơ chế phát sinh và phân loại THCVĐ.18
1.2.5. Các mức độ hay các PPDH trong DHGQVĐ.22
1.3. Dạy và học trong giáo dục mầm non .23
1.4. Vận dụng PPDHGQVĐ trong hoạt động DH cho trẻ 5-6 tuổi .26
1.4.1. Cơ sở của việc vận dụng PPDHGQVĐ trong hoạt động DH cho trẻ 5-6 tuổi.26
1.4.2. Quy trình vận dụng PPDHGQVĐ trong hoạt động DH cho trẻ 5-6 tuổi .34
Tiểu kết chương 1 .39
Chương 2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ VÀO HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHO TRẺ 5-6
TUỔI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON THÀNH PHỐ VŨNG TÀU.40
2.1. Khái quát về tình hình giáo dục thành phố Vũng Tàu và tình hình giáo dục
mầm non thành phố Vũng Tàu .40
102 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 693 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề trong hoạt động dạy học cho trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non thành phố Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất cứ hoạt động DH nào ở
bậc học MN sử dụng phương pháp này đều mang lại kết quả tốt. Có những nội dung
GV không thể sử dụng phương pháp này để truyền tải hoặc có những nội dung có thể
sử dụng PPDHGQVĐ nhưng hiệu quả vận dụng sẽ thấp hơn so với việc sử dụng các
phương pháp khác. Chẳng hạn như một tiết kể chuyện cho trẻ. Với mục tiêu là trẻ hiểu
nội dung truyện, nhớ được tên các nhân vật trong truyện thì khó có thể vận dụng
PPDHGQVĐ. Do đó, cần có một sự lựa chọn hết sức kĩ lưỡng. Hơn nữa, việc DH cho
trẻ MN mang những đặc trưng riêng nên khi vận dụng PPDHGQVĐ cho trẻ, ở từng
giai đoạn trong tiến trình thực hiện cũng có sự khác biệt so với việc vận dụng ở các
35
cấp học khác.
+Bước 1: Chuần bị
- Xây dựng THCVĐ:
Trước hết, việc xây dựng THCVĐ cẩn bám sát vào mục tiêu của “tiết học” để
đảm bảo sao cho khi giải quyết được vấn đề nghĩa là trẻ đã thực hiện được mục tiêu đề
ra.
Mặc khác, hầu hết các “tiết học” ở MN hiện nay được xây dựng dựa trên cách
tiếp cận bằng đề tài, chủ đề tích hợp xung quanh một môn học (lĩnh vực phát triển)
“công cụ”. Các môn học (lĩnh vực phát triển) này có đặc điểm là chỉ có một phần nội
dung là đặc thù nhưng có thể nhận các môn học khác (lĩnh vực phát triển khác) làm
nội dung của mình [15, tr. 23] . Do đó khi xây dựng THCVĐ, cần xác định rõ nội dung
của chủ đề cũng như nội dung được lựa chọn triển khai trong tiết học và đâu là môn
học (lĩnh vực) được xem là “công cụ” để từ đó xác định đâu là phần trọng tâm, cần xây
dựng THCVĐ, đâu là phần chỉ cần rút ra kết luận cần thiết.
Đối với trẻ 5-6 tuổi chúng ta có thể vận dụng hầu hết các tình huống trong DH
như tình huống lựa chọn, tình huống tại sao. Bên cạnh đó còn một loại tình huống
được xem là đặc thù và được vận dụng nhiều nhất ở trẻ MN đó là tình huống chơi có
vấn đề, “một trong những hình thức mới của hoạt động chơi, trong đó bảo tồn và hệ
thống hóa được những yếu tố của giao tiếp nhận thức, học tập và vui chơi”. Bản chất
của tình huống chơi có vấn đề là ở chỗ “Nhà giáo dục cho trẻ làm quen với khái niệm,
thuật ngữ, dấu hiệu, kí hiệu, phương thức hành động vừa sức với trẻ, với trình tư thực
hiện hành động được cấu trúc hợp lý. Nhà giáo dục đưa ra những điều kiện đặc biệt
thúc đẩy trẻ vận dụng những kiến thức đã biết vào việc tạo ra phương thức mới để giải
quyết những nhiệm vụ không rập khuôn nhau. Trẻ xam xét các điều kiện đươc đưa ra
dưới những con đường giải quyết khác nhau, tranh luận về lý thuyết hoặc hành động
thực tiễn, phân tích mỗi quan điểm trong số đó.” [17, tr. 154]. Một loại tình huống
chơi có vấn đề đối với trẻ có thể sử dụng đó là trò chơi “công việc” hoặc trò chơi điều
khiển, bắt chước người lớn.
- Chuẩn bị các phương tiện DH, những thông tin cần thiết cho việc tổ chức
hoạt động DH trên lớp.
36
Sau khi xây dựng THCVĐ, giáo viên dự kiến các PPDH chủ yếu được dùng kết
hợp với PPDHGQVĐ trong quá trình DH (Các phương pháp phù hợp với trẻ nhỏ bao
gồm phương pháp trực quan, phương pháp dùng lời, PPDH theo nhóm, phương pháp
đóng vai, phương pháp trò chơi) và chuẩn bị các phương tiện DH, tổ chức môi
trường, dự kiến cách giải quyết tình huống, các tình huống khác có thể phát sinh.
+ Bước 2: Tổ chức hoạt động DH trên lớp:
- Giai đoạn 1: Nêu vấn đề.
Sau khi thực hiện các bước đã nêu trên GV sẽ tổ chức tiết dạy và giới thiệu
THCVĐ đến trẻ và giúp trẻ nhận ra vấn đề tồn tại trong tình huống. Việc sử dụng các
hình thức như kể một câu chuyện, xem một đoạn video, đưa ra một câu đố, sử dụng
một bài hátgiúp cho việc giới thiệu trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng. Tuy vậy, do thời
lượng của một giờ hoạt động chủ đích của trẻ 5-6 tuổi chỉ khoảng 35- 40 phút nên việc
giới thiệu và làm sáng tỏ THCVĐ không nên quá dài, dù sử dụng phương tiện nào thì
cũng nên hết sức thận trọng tránh gây mất thời giờ và lang mang. Nếu tình huống có
vấn đề thuộc loại tình huống chơi có vấn đề thì việc giới thiệu tình huống chỉ đơn
thuần như giới thiệu một trò chơi có luật và trẻ sẽ dễ dàng nhận ra vấn đề khi tham gia
vào trò chơi.
- Giai đoạn 2: Giải quyết vấn đề
Trước khi bắt đầu giai đoạn này, GV có thể cho trẻ chia nhóm. Nhóm có thể
được chia theo ý thích của trẻ và cũng có thể do sự tổ chức khéo léo của GV. Tuy
nhiên số lượng trẻ trong mỗi nhóm không nên quá đông. Bởi lẻ số lượng trẻ ở một
nhóm quá đông sẽ gây khó khăn cho trẻ khi phân công nhiệm vụ cho các thành viên
trong nhóm và làm hạn chế hoạt động của một số cá nhân. Tùy theo khả năng của mỗi
nhóm mà GV có thể đưa ra sự hướng dẫn, gợi mở khác nhau cho cùng một nhiệm vụ.
Việc chia nhóm làm tăng cơ hội hoạt động của trẻ và sự tương tác, trao đổi giữa các trẻ
giúp trẻ hỗ trợ tốt cho nhau trong quá trình giải quyết vấn đề
Đối với trẻ, biểu tượng, kinh nghiệm còn hạn chế, khả năng làm việc độc lập
cũng như khả năng duy trì mục đích, hứng thú ban đầu của trẻ chưa cao. Vì vậy, ở giai
đoạn này trẻ cần một sự hỗ trợ rất lớn từ phía GV trong việc đề xuất các giả thuyết,
xác định và tìm kiếm các kiến thức cũng như việc duy trì hứng thú nhận thức ở trẻ.
37
Để giúp trẻ tự giải quyết vấn đề trong khi khả năng của trẻ còn hạn chế là một việc hêt
sức khó khăn. Do đó, GV cần tổ chức môi trường và chuẩn bị thật tốt các câu hỏi gợi
mở, dẫn dắt, cho đến các tình huống có thể nảy sinh trong quá trình giải quyết vấn đề.
Các giáo cụ trực quan, sinh động cần được ưu tiên. Đồng thời trong suốt quá trình trẻ
tham gia giải quyết vấn đề, GV phải luôn động viên, khuyến khích trẻ kịp thời. Trẻ cần
có thời gian nên rất cần GV dành thời gian cho trẻ, không hối thúc hay làm hộ trẻ.
- Giai đoạn 3: Trình bày kết quả.
Cũng như giai đoạn giải quyết vấn đề, ở khâu này, trẻ cũng cần có sự hỗ trợ của
GV. GV giúp trẻ nhớ lại và khuyến khích trẻ tự rút ra kết luận. Nếu trẻ giải quyết vấn
đề theo nhóm, GV nên tổ chức cho các nhóm tự nhận xét kết quả của mình, các nhóm
nhận xét lẫn nhau và sau cùng mới là lời nhận xét, đánh giá của GV..Trong quá trình
giải quyết, có thể các nhóm khác nhau sẽ có được kết quả khác nhau hoặc có được kết
quả giống nhau vào thời điểm khác nhau. Lúc đó, GV cần xử lý khéo léo, khuyến
khích trẻ suy nghĩ, nhận xét các kết quả và đi đến thống nhất. Đối với các nhóm chưa
có được kết quả khi mà các nhóm khác đã hoàn tất việc giải quyết vấn đề, GV có thể
gợi ý trẻ tìm kiếm thông tin từ nhóm bạn để giải quyết khó khăn của nhóm. Sau cùng,
nếu vấn đề chưa được giải quyết GV cần động viên, duy trì hứng thú để trẻ tiếp tục
tham gia giải quyết vào các hoạt động tiếp theo.
Nhìn chung, để vận dụng PPDHGQVĐ cho trẻ 5-6 tuổi một cách hiệu quả thì cần
hết sức lưu ý đến vai trò tác động của người GV. Nếu GV can thiệp quá nhiều, không
đúng cách, can thiệp bằng cách chỉ ra hoặc giải quyết vấn đề giúp trẻ thì sẽ làm mất đi
hiệu quả vận dụng phương pháp. Nếu sự can thiệp của GV là hời hợt, không kịp thời
thì trẻ khó có thể giải quyết vấn đề và sẽ dễ mất đi hứng thú nhận thức ban đầu. Vì
vậy, ngay từ khâu xây dựng THCVĐ, GV cần tính toán một cách thận trọng từ độ khó
của vấn đề đưa ra, cách giới thiệu, tổ chức sắp xếp những tư liệu trong môi trường học
tập, dự kiến các khó khăn trẻ có thể gặp phải và phương án gợi mở. Từng hình thức,
từng câu hỏi gợi mở, dẫn dắt phải thật tinh tế sao cho vẫn giữ được tính chủ động, tích
cực cho trẻ mà vẫn thực hiện được tiến trình của các khâu giải quyết vấn đề.
Một công cụ hỗ trợ tích cực cho GV khi thực hiện PPDHGQVĐ là tình huống
chơi có vấn đề là. Nếu GV đưa được loại tình huống này vào các tiết học theo
38
PPDHGQVĐ cho trẻ 5-6 tuổi thì việc vận dụng phương pháp sẽ mang lại hiệu quả cao
và sẽ dễ dàng hơn cho GV trong việc phát huy tính chủ động, tích cực của trẻ cũng
như trong việc sắp xếp tiết học và lựa chọn hình thức gợi mở. Bởi lẻ “tổ chức trò chơi
“công việc” hoặc tình huống chơi có vấn đề dẫn đến việc phá vỡ hình thức tổ chức
quen thuộc của hoạt động nhận thức. Khi đó, mỗi trẻ nhận một nhiệm vụ cá nhân từ cô
giáo, thực hiện nó bằng miệng hoặc bằng những giáo cụ trực quan, mà trong đó phải
sử dụng tới những kiến thức và kĩ năng trẻ lĩnh hội được trong quá trình học tập, trẻ
phải nhớ lại những gì mà cô đã dạy và hành động bằng những phương thức mà trẻ biết.
Còn nhà giáo dục sẽ đánh giá sự chính xác, đúng đắn, cẩn thận, nhanh chóng của việc
thực hiện nhiệm vụ. Tình huống chơi có vấn đề đưa ra những trở ngại, hoặc điều kiện
không cho phép trẻ tổ chức hoạt động riêng của mình bằng những con đường quen
thuộc. Trong trường hợp đó, trẻ cần tự tìm kiếm phương thức so sánh, chọn phương
pháp, xác định chuẩn, thực nghiệm việc thử nghiệm với một vài đối tượng và chọn đối
tượng phù hợp với các điều kiện hiện hữu trong số đó. Hơn nữa, khi giải quyết tình
huống có thể đi bằng cả hai con đường lý luận và thực tiễn.” [17, tr. 155].
Tóm lại, PPDHGQVĐ có thể được sử dụng trong tổ chức hoạt động DH cho trẻ
5- 6 tuổi trong điều kiện chương trình hiện nay. Việc vận dụng ở trẻ 5- 6 tuổi mang
những đặc trưng riêng như: sự kĩ lưỡng hơn trong khâu chuẩn bị môi trường học tập
cũng như các phương tiện hỗ trợ trẻ giải quyết vấn đề nêu ra vì khả năng tự tìm kiếm
thông tin của trẻ còn hạn chế; vai trò của GV được chú trọng hơn bởi lẻ để phát huy
tính tự lực, chủ động trong việc giải quyết vấn đề và đánh giá kết quả của trẻ thì rất
cần sự tổ chức hết sức khéo léo và sự gợi mở hợp lí của GV; Tình huống chơi có vấn
đề là phù hợp vì trẻ học thông qua chơi, trong tổ chức vui chơi bằng tình huống có vần
đề trẻ hoạt động một cách tự nhiên, thoải mái, GV hướng dẫn trẻ thông qua một vai
chơi trong trò chơi vì thế sự hướng dẫn cũng trở nên tự nhiên và dễ dàng hơn. Với tình
huống chơi có vấn đề, hoạt động DH theo PPDHGQVĐ cũng trở thành một trò chơi lý
thú.
39
Tiểu kết chương 1
DHGQVĐ là một PPDH có thể phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, của
mỗi cá nhân học sinh nhằm chuần bị cho học sinh thích ứng và hội nhập tốt trong một
xã hội đang phát triển và thay đổi liên tục . Học tập với PPDHGQVĐ, kiến thức, kĩ
năng được hình thành ở học sinh, vững chắc.
Sự sẵn sàng về mặt tâm sinh lý ở trẻ 5-6 tuổi và tính mềm dẻo của chương trình
giáo dục mầm non hiện hành là những điều kiện thuận lợi, cho việc vận dụng
PPDHGQVĐ trong hoạt động DH cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi môt cách hiệu quả.
Tuy nhiên, do đặc thù của giáo dục mầm non nên việc vận dụng PPDHGQVĐ
cho trẻ cần lưu ý một số vấn đề như :
- Nội dung chương trình được xây dựng theo hình thức tích hợp theo chủ đề .
- Trẻ học thông qua chơi. Tổ chức hoạt động học tập cũng là tổ chức trò chơi và
ngược lại.
- Phương pháp trực quan, phương pháp trò chơi, phương pháp đóng vai.. là
những phương pháp phù hợp với trẻ MN và cần phối hợp sử dụng chúng với
PPDHGQVĐ để mang lại hiệu quả tích cực.
- Năng lực giải quyết vấn đề và khả năng duy trì hứng thú nhận thức của trẻ còn
thấp nên vai trò GV trở nên hết sức quan trọng.
- Trò chơi là phương tiện học tập hữu hiệu và tình huống chơi có vấn đề là loại
tình huống rất phù hợp với trẻ .
40
Chương 2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀO HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHO TRẺ 5-6
TUỔI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON THÀNH PHỐ VŨNG TÀU
2.1. Khái quát về tình hình giáo dục thành phố Vũng Tàu và tình hình giáo dục
mầm non thành phố Vũng Tàu
Nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Vũng Tàu là thành phố có nhiều
tiềm năng và lợi thế quan trọng về vị trí, đất đai, hạ tầng kỹ thuật để phát triển kinh tế
– xã hội và giáo dục.
Trong năm học 2013 - 2014, được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Sở Giáo dục
và đào tạo Tỉnh, Thành ủy, Ủy ban Nhân dân thành phố và sự phối hợp, hỗ trợ của các
phòng ban hữu quan, của Ủy ban Nhân dân các phường xã, các cơ quan, đoàn thể, tổ
chức xã hội trên địa bàn, nền giáo dục thành phố Vũng Tàu nói chung và giáo dục
mầm non trên địa bàn thành phố Vũng Tàu nói riêng đã đạt được những thành tựu hết
sức nổi bậc.
Năm học này, ngành đã xây dựng được khối đoàn kết tập thể sư phạm trong toàn
ngành cùng thi đua dạy tốt với sự cộng tác tích cực của phụ huynh học sinh trong
phong trào thi đua học tốt và sự quan tâm của toàn xã hội tạo ra sự chuyển biến thực
sự về nề nếp, chất lượng DH. Cơ sở vật chất, phòng học được xây dựng và chăm sóc
sạch đẹp, phòng bộ môn được đầu tư nâng cấp, bổ sung, đáp ứng cơ bản nhu cầu dạy
và học của giáo viên và học sinh. Đội ngũ GV và CBQL được chuẩn hóa về chuyên
môn, nghiệp vụ, đồng bộ về mặc cơ cấu, bộ máy quản lý từng bước được kiện toàn.
Bên cạnh đó, nhiệm vụ năm học được triển khai một cách có trọng tâm, trọng điểm,
tập trung chỉ đạo giải quyết các vấn đề nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục
đạo đức, xây dựng nền nếp, kỷ cương trong hoạt động DH, đảm bảo hoàn thành tốt kế
hoạch. Các trường học đã tổ chức thực hiện nghiêm túc chương trình, nội dung giáo
dục theo hướng đổi mới, giảm tải, tích hợp các nội dung giáo dục, ứng dụng các PPDH
mới vào giảng dạy, nâng cao hiệu quả giáo dục, khai thác sử dụng thiết bị DH và
phòng chức năng phục vụ việc đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục,
kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục thực hiện đúng quy trình, đảm bảo kiến thức, kỹ
năng, sát với đối tượng học sinh. Các phong trào thi đua dạy tốt, chuyên đề được thực
41
hiện có chiều sâu tại các điểm trường, cụm trường và trong toàn Thành phố. Phong
trào xây dựng trường học thân thiện trở thành nền nếp hoạt động thường xuyên với
nhiều hình thức hoạt động phong phú góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh. Các
hội thi “Hùng biện học sinh với văn hóa giao thông”, “Học sinh giỏi văn hóa”, “Toán
học tuổi thơ” được tổ chức trang trọng, nghiêm túc, huy động tất cả các trường học
tham gia, thực hiện tốt việc tuyển chọn và tôn vinh các cá nhân điểm hình, các tập thể
xuất sắc. Nổi bậc nhất, tỉnh đã huy động được tối đa học sinh ra học phổ thông, tạo
điều kiện cho tất cả học sinh 5 tuổi ra lớp, giải quyết cơ bản nhu cầu trẻ đi học mầm
non. Các chuẩn mực hành vi đạo đức từng bước được hình thàh và phát triển, hạn chế
các biểu hiện không lành mạnh, chấm dứt tình trạng bạo lực học đường. Có những
chuyển biến tích cực về chất lượng giáo dục, nhiều học sinh vươn lên khá, giỏi, hạn
chế tình trạng yếu kém
Riêng ở bậc học MN, Thành phố đã triển khai thực hiện chương trình mầm non
mới ở tất cả các trường và nhóm lớp mầm non. Các cán bộ, GV đã nghiêm túc thực
hiện chương trình, nội dung giáo dục, sáng tạo trong việc soạn giảng theo hướng lấy
trẻ làm trung tâm, tham gia nghiêm túc các lớp tập huấn về đổi mới đánh giá kết qủa
nuôi dạy trẻ, quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác phòng chống bệnh dịch.
Các chuyên đề giáo dục an toàn giao thông, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường,
giáo dục biển hải đảo, giáo dục biến đổi khí hậu, giáo dục kỹ năng sống được lồng
ghép, tích hợp trong việc xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động theo chủ đề phù
hợp với từng hoạt động, độ tuổi của trẻ. Bên cạnh việc tổ chức các chuyên đề, ngành
đã đẩy mạnh việc dự giờ thăm lớp, sinh hoạt chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức hội thi
GV dạy giỏi cấp trường, tổ chức cho GV và học sinh thm gia làm đồ dùng đồ chơi từ
nguyên vật liệu phế thải, tích cực sử dụng các phần mềm phục vụ cho việc chăm sóc,
giảng dạy và tổ chức trò chơi cho trẻ. Công tác xã hội hóa và xây dựng môi trường
giáo dục cũng được thực hiện khá hiệu quả. Hầu hết các trường đều xây dựng góc
tuyên truyền về chương trình giáo dục, dinh dưỡng, phòng chống dịch bệnh. Nhiều
phụ huynh tham gia các hoạt động hỗ trợ giáo dục trẻ, làm đồ dùng và tư liệu DH góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ngành giáo dục thành phố Vũng Tàu vẫn
tồn tại một số hạn chế. Chẳng hạn như: việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp ở
42
một số trường học chưa được quan tâm đúng mức, tổ chức hoạt động còn thiếu sáng
tạo, chưa có chiều sâu; việc đổi mới soạn giảng chưa có những chuyển biến thực sự
mạnh mẽ, khai thác và sửa dụng thiết bị dạy học hiệu quả chưa cao, việc phụ đạo, giúp
đỡ học sinh yếu vẫn còn hạn chế; công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành tuy có chuyển
biến tích cực nhưng chưa có những giải pháp tốt để khai thác có hiệu quả các nguồn
lực về đội ngũ, cơ sở vật chất, kinh phí nhằm tạo chuyển biến về chất lượng và hiệu
quả giáo dục. Một số tổ chức trong trường học, đặc biệt là hội đồng trường hoạt động
chưa tương xứng với chức năng nhiệm vụ, hiệu quả chưa cao, nghiệp vụ hành chính
chưa chuyên nghiệp, thông tin báo cáo còn thiếu chính xác, không kịp thời; Cơ sở vật
chất tại một số trường còn hạn chế và chưa đồng bộ về sân chơi, bãi tập, trang thiết bị
dạy học; Hiện tượng học sinh bỏ học có giảm, nhưng tỉ lệ ở cấp trung học cơ sở vẫn
còn cao. Tình trạng dạy thêm tuy đã được kiểm soát nhưng vẫn còn hiện tượng gây
bức xúc cho phụ huynh học sinh.
Cùng với những hạn chế chung của toàn ngành, bậc học MN thành phồ Vũng
Tàu cũng có những hạn chế riêng. Tình trạng thiếu trường, thiếu GV ở các trường MN
trong thành phố vẫn còn . Hầu hết các trường ở trung tâm thành phố có sỉ số lớp vượt
quá quy định cho phép. Sự quản lý chưa thực sự chặc chẽ. Tình trạng đánh trẻ vẫn tồn
tại nhất là ở các trường tư thục. Cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi tuy đã được cải thiện
đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu DH. Việc đổi mới PPDH theo định
hướng lấy trẻ làm trung tâm vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả, vẫn còn một số đông
GV chưa thực sự hiểu và vận dụng.
Có thể nói, trong năm học 2013 - 2014, những thành tựu mà ngành giáo dục và
bậc học MN thành phố đạt được là hết sức to lớn. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế
mà ngành học và bậc học MN cần giải quyết để nâng cao hơn nữa chất lượng GD
thành phố cũng như chất lượng giáo dục MN.
2.3. Mẫu khảo sát, công cụ nghiên cứu và phương pháp điều tra thực trạng
2.21. Mô tả mẫu khảo sát và công cụ nghiên cứu
Người nghiên cứu tiến hành khảo sát ở một số trường MN công lập trên địa bàn
thành phố Vũng Tàu. Những trường này là đại diện cho các loại hình trường MN trên
địa bàn thành phồ Vũng Tàu. Nghiên cứu này được tiến hành trên các GVMN trực tiếp
43
dạy trẻ 5- 6 tuổi. Số lượng GV trong mẫu nghiên cứu được thống kê trong bảng sau:
Bảng 2.1. Số lượng giáo viên trong mẫu nghiên cứu
STT Tên trường Số lớp Số GV
1 MN Phước Thắng 4 8
2 MN 30/4 4 8
3 MN 1 tháng 6 4 8
4 MN Ánh Dương 4 8
5 MN 20 tháng 10 4 8
6 MN Hoa Mai 2 4
7 MN 19 tháng 5 4 8
8 MN Hoa Phượng 3 6
9 MN Hoa Sen 2 4
10 MN Họa Mi 2 4
11 MN Phường 3 3 6
12 MN Sơn Ca 2 4
13 MN Trúc Xanh 2 4
14 MN Châu Thành 4 8
Tổng cộng 44 88
Sau khi khảo sát, người nghiên cứu thu được kết quả về trình độ được đào tạo
như sau:
Bảng 2.2. Cơ cấu trình độ và thâm niên công tác của mẫu nghiên cứu
Trình độ đào tạo Thâm niên công tác
Trung
cấp
Cao
đẳng
Đại học Trên
Đh
Dưới 5
năm
5- 10
năm
10- 20
năm
Trên 20
năm
Số
lượng
5 43 40 0 31 25 21 11
% 5.7 48.9 45.4 0 35.2 28.4 23.9 12.5
- Đa số GV tại các trường khảo sát đạt trình độ cao đẳng và đại học. Điều này
cho chúng ta thấy đội ngũ GV đang giảng dạy các cháu 5-6 tuổi tại các trường trong
thành phố Vũng Tàu đều có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tiếp thu và vận
dụng những phương pháp mới phục vụ cho hoạt động giảng dạy.
- GV có thâm niên dưới 5 năm chiếm tỉ lệ cao (35,2 %) . Đây là hai nhóm GV
trẻ, nhiệt tình trong công việc, năng động, sáng tạo. Và đặc biệt, những kiến thức họ
học được trong quá trình đào tạo vẫn còn nóng hổi và phù hợp hơn với tình hình giáo
dục chung của cả nước. Hơn nữa, do trẻ và năng động, họ ham học hỏi và dễ tiếp thu
những tri thức, công nghệ mới, thuận lợi hơn trong việc vận dụng các PPDHTC.
44
- Có 28,4 % trong tổng số GV có thâm niên từ 5-10 năm. Đây là nhóm GV trẻ
vừa có kinh nghiệm giảng dạy vừa khá năng động trong công tác. Họ là lực lượng
được đánh giá cao do có được sự tổng hòa giữa kinh nghiệm và sự nhiệt tình, sáng tạo.
- Số lượng GV có thâm niên từ 10- 20 năm là 21 người, chiếm tỉ lệ 23,9%. Phần
lớn những GV này có kinh nghiệm giảng dạy, hiểu đặc điểm của học sinh và đã có một
quá trình tương đối dài để tích lũy những kinh nghiệm cũng như phương tiện dạy học.
Do vậy, họ có những điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn những phương pháp cũng
như phương tiện hỗ trợ phù hợp đối với từng hoạt động DH.
2.2.2. Mô tả phương pháp điều tra thực trạng.
Nghiên cứu này điều tra thực trạng vận dụng PPDHGQVĐ của GVMN dạy lớp 5-6
tuổi ở một số trường mầm non thành phố Vũng Tàu một cách có hệ thống dưới cả hai
góc độ định lượng và định tính. Trước hết, chúng tôi phát phiếu hỏi cho 88 GV và tập
hợp số liệu , phân tích để tìm hiểu thực trạng nhận thức, thực trạng vận dụng
PPDHGQVĐ của GVMN dạy lớp 5-6 tuổi ở một số trường mầm non thành phố Vũng
Tàu và những yếu tố ảnh hưởng đến việc vận dụng PPDHGQVĐ vào hoạt động dạy
học cho trẻ 5-6 tuổi. Tiếp theo, chúng tôi tiến hành quan sát ngẫu nhiên ở một số lớp
5-6 tuổi tại 3 trường mầm non trên địa bàn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến phỏng
vấn sâu cán bộ quản lý phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Vũng Tàu, ban giám
hiệu các trường mầm non cũng như một số giáo viên đứng lớp 5-6 tuồi, so sánh kết
quả thu được từ phiếu hỏi với kết quả quan sát và phỏng vấn. Từ đó, chúng tôi đánh
giá thực trạng nhận thức của GVMN về PPDHGQVĐ và thực tế vận dụng trong hoạt
động DH cho trẻ 5-6 tuổi, chỉ ra những thành công và khó khăn khi vận dụng
PPDHGQVĐ, ghi nhận những đề xuất nâng cao hiệu quả vận dụng, xem xét và đề ra
một số biện pháp nâng cao hiệu quả vận dụng PPDHGQVĐ trong hoạt động DH cho
trẻ 5-6 tuổi tại một số trường MN thành phố Vũng Tàu. Các phương pháp chính được
sử dụng bao gồm:
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Để khảo thực trạng vận dụng PPDHGQVĐ trong hoạt động DH cho trẻ 5-6 tuổi tại
một số trường MN thành phố Vũng Tàu chúng tôi sử dụng phiếu thăm dò ý kiến (Phụ
lục 1). Phiếu hỏi này được sử dụng cho GV đang giảng dạy lớp 5-6 tuổi tại địa bàn TP
45
Vũng Tàu. Mẫu thăm dò được lấy một cách ngẫu nhiên gồm 88 GV,. Số phiếu hỏi
phát ra cho 88 GV và số phiếu thu về là 88 phiếu.
Mục tiêu sử dụng bảng hỏi để tìm hiểu thực trạng nhận thức của GV dạy lớp 5-6
tuổi ở một số trường MN thành phố Vũng Tàu và đánh giá của họ về việc vận dụng
PPDHGQVĐ trong hoạt động DH cho trẻ 5-6 tuổi. Để thực hiện tốt phương pháp,
chúng tôi tiến hành thực hiện lần lượt các bước: thiết kế bảng hỏi, phát phiếu hỏi -
trước hết phát phiếu đến một mẫu nhỏ (1 trường mầm non), thu phiếu, đọc kết quả và
có thể điều chỉnh câu hỏi hoặc nội dung câu hỏi cho phù hợp hơn, sau đó phát bảng hỏi
trên diện rộng; tổng hợp kết quả điều tra và trên cơ sở đó phân tích, thảo luận kết quả
thu được
- Phương pháp quan sát
Bên cạnh điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu, tôi lựa chọn công cụ nghiên
cứu thứ ba là quan sát thực tế dạy học của 12 GV ở 6 lớp bao gồm: 2 lớp lá trường
MN Châu Thành, 2 lớp lá trường MN 30/4 và 2 lớp lá trường MN Phước Thắng.
Chúng tôi tiến hành quan sát một cách ngẫu nhiên. Quá trình quan sát được ghi lại
bằng thiết bị ghi hình và ghi chép. Các đối tượng được chọn quan sát cũng nằm trong
nhóm đối tượng trả lời phiếu hỏi của người nghiên cứu. Phương pháp quan sát giúp
chúng tôi phân tích, chứng minh thực tế dạy học của GVMN có như những gì họ nhận
thức và trong thực tế họ chịu ảnh hưởng của những yếu tố nào.
- Phương pháp phỏng vấn
Dựa vào kết quả thu được từ phiếu hỏi và quan sát, chúng tôi tiến hành phỏng
vấn sâu đối với 6 cán bộ quản lý (3 hiệu trưởng, 3 hiệu phó chuyên môn) tại 3 trường
MN Phước Thắng, MN 30/4, MN Châu Thành và 1 chuyên viên phòng Giáo dục và
Đào tạo thành phố Vũng Tàu nhằm làm rõ cũng như tìm hiểu thêm về thực trạng vận
dụng PPDHGQVĐ từ đánh giá của cấp quản lí. Để đảm bảo sự ẩn danh của CBQL
tham gia phỏng vấn, người nghiên cứu quy ước mã GV được phỏng vấn là G1 đến G7
cho 7 CBQL tham gia trả lời phỏng vấn từ 3 trường MN và một chuyên viên phòng
Giáo dục và Đào tạo thành phố Vũng Tàu. Tất cả các cuộc phỏng vấn diễn ra được sắp
xếp chỉ có người phỏng vấn và người được phỏng vấn. Việc phỏng vấn được tiến hành
sau khi người nghiên cứu đã thu được một số kết quả sơ bộ về thực trạng thu được từ
46
kết quả quan sát và kết quả từ phiếu hỏi. Do đó, ngoài hệ thống câu hỏi có trong dự
kiến ( Phụ lục 2), chúng tôi còn thực hiện một số câu hỏi nhằm giải đáp những thắc
mắc đối với kết quả đã thu được. Các câu hỏi phát sinh nhằm mục đích giải đáp những
thắc mắc đó cũng được thực hiện trên tất cả các đối tượng tham gia phỏng vấn nhằm
so sánh kết quả và rút ra kết luận chính xác nhất.
2.2.3. Quy ước về cách xác định mức độ đánh giá theo thang điểm khảo sát
- Với cách cho điểm: “Rất quan trọng” = 1, “Quan trọng” = 2, “Không quan
trọng” = 3. Điểm trung bình (Mean) Đạt từ 0 – 1,49 là “Rất quan trọng”, từ 1,5 - 2,49
là “quan trọng”, từ 2,5 đến 3 là “không quan trọng”.
- Với cách cho điểm “thường xuyên” = 1, “thỉnh thoảng” = 2, “Hoàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2015_01_08_1817966895_2052_1872718.pdf