Luận văn Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2015. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

Chương 1: Diễn biến thị trường gạo thế giới giai đoạn 2008-2015 4

1.1 Thị trường gạo thế giới giai đoạn 2008-2014 4

1.1.1 Thương mại gạo thế giới 4

Thị trường gạo thế giới giai đoạn 2008-2015 được đánh giá là tương đối ổn định, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu luôn đạt trên 37 tỷ USD. 4

1.1.2 Những nhà xuất khẩu gạo chính trên thế giới 5

1.2 Những nhà nhập khẩu gạo chính trên thế giới 7

1.3 Dự báo tình hình thị trường gạo thế giới năm 2015-2016 8

1.4 Xu thế xuất khẩu và nhập khẩu gạo trên thế giới đến năm 2022 10

1.4.1 Các nhà nhập khẩu gạo trên thế giới 11

1.4.2 Các nhà xuất khẩu gạo trên thế giới 12

Chương 2: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2015 14

2.1 Lợi thế trong sản xuất gạo của Việt Nam. 14

2.2 Tình hình sản xuất gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2015 16

2.3 Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2015 17

2.4 Chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2008-2015 19

2.5 Thị trường và giá cả gạo xuất khẩu của Việt Nam 20

2.5.2. Giá cả gạo xuất khẩu của Việt Nam 23

2.6 Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 27

2.6.1 Cơ hội đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 27

2.6.2 Thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 27

Chương 3: Đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn hiện nay 31

3.1 Đẩy mạnh công tác marketing 31

Nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu 31

Thống nhất việc xác định giá xuất khẩu 32

Xây dựng và quảng bá thương hiệu: 32

3.2 Hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu: 33

3.3 Đầu tư đồng bộ khoa học – công nghệ để hiện đại sản xuất 34

3.4 Phát triển và xây dựng thị trường mục tiêu. 35

3.5 Chính sách tín dụng vốn sản xuất ưu đãi đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam 37

3.6 Chuẩn bị điều kiện cần thiết khi Việt Nam tham gia vào TPP 38

Tài liệu tham khảo 41

 

docx40 trang | Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 11/09/2024 | Lượt xem: 49 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2015. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à năng suất nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tổng hòa các yếu tố giống mới, phân bón thủy lợi và kỹ thuật canh tác lúa. Tuy nhiên bước sang năm 2015 tổng diện tích giảm 104 nghìn ha so với năm 2014 do bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã quyết định chuyển đổi những diện tích đất lúa kém hiệu quả sang trồng ngô vì ngô cũng là loại lương thực quan trọng ở Việt nam, đứng sau lúa gạo. Mặc dù diện tích đất trồng lúa 6 tháng đầu năm 2015 giảm nhưng do áp dụng kỹ thuật thâm canh lúa nên năng suất đạt giá trị khá cao là 49 tạ/ha nên tổng sản lượng lúa tăng lên 45.092,5 nghìn tấn cao hơn 0,3% so với năm 2014. 2.3 Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2015 Gạo là mặt hàng chủ lực của Việt Nam và trong ¼ thế kỷ qua đã đứng thứ hạng cao trên thế giới, góp phần vào đảm bảo an ninh lương thực. Trong rất nhiều năm xuất khẩu lúa gạo, Việt Nam luôn đứng ở vị trí thứ 2 sau Thái Lan về sản lượng gạo xuất khẩu. Từ năm 2013, Việt Nam tụt xuống vị trí thứ 3 sau Thái Lan và Ấn Độ. Nguồn: trademap, Tổng cục Hải quan Qua số liệu thống kê, có thể thấy kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2014 có nhiều biến động. Tổng giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thế giới liên tục tăng trong giai đoạn 2008-2012, từ 2,66 tỷ USD lên 3,67 tỷ USD. Trong năm này, gạo Viêt Nam phải chịu sự cạnh tranh từ Ấn Độ nên quý I/2012 giảm mạnh do gái trong nước ở mức cao. Nhưng từ tháng 3/2012 vào vụ thu hoạch Đông - Xuân sản lượng tăng lên, Việt Nam đã quay lại thị trường cạnh tranh với Ấn Độ, đẩy mạnh tiến độ xuất khẩu đến cuối năm và đạt kết quả vượt mức là 8.016100 tấn đáp ứng được các yêu cầu đề ra là tiêu thụ kịp thời sản lượng hàng hóa của nông dân, giữ ổn định giá lúa gạo trong nước. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm xuống còn 2,92 tỷ USD (giảm 750 triệu USD so với năm trước). Đến năm 2014, giá trị xuất khẩu gạo có tăng nhưng không đáng kể, chỉ ở mức 2,95 tỷ USD (tăng 30 triệu USD). Tuy nhiên, số liệu thống kê 6 tháng đầu năm 2015 của Tổng cục Hải quan, cả nước xuất khẩu hơn 3 triệu tấn gạo, trị giá 1,29 tỷ USD. So với cùng kỳ năm 2014, sản lượng xuất khẩu giảm 7,94%, trị giá giảm 12,18%. Từ đầu năm 2015 đến nay, xuất khẩu gạo gặp khó khăn và suy giảm về sản lượng lẫn giá trị. Trong 8 tháng qua, xuất khẩu đạt 4,1 triệu tấn giá trị xuất khẩu đạt 1,76 tỷ USD, giảm 8,6% về khối lượng và 13% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014. 2.4 Chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2008-2015 Hiện nay trên thế giới thì Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ và Pakistan đều là những quốc gia nằm ở vị trí hàng đầu trong những nước xuất khẩu gạo. Việt Nam giữ vị trí số 3 về xuất khẩu nhưng giá trị còn thấp hầu như đứng sau Thái Lan và Ấn Độ. Về chủng loại và chất lượng gạo, theo báo cáo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, gạo cao cấp chiếm 21,08% (1,331 triệu tấn), gạo cấp trung bình chiếm 31,78% (2,013 triệu tấn), gạo cấp thấp chiếm 11,58% (732 nghìn tấn). Gạo thơm các loại chiếm 20,62%, nếp chiếm 10,09%, tấm chiếm 2,52%, gạo đồ chiếm 1,29% còn lại là các loại gạo khác. Hiện có khoảng 50 loại giá quốc tế cho các chủng loại gạo khác nhau. Hiện nay gạo thơm có giá cao nhất, đây là loại gạo phổ biến được xuất khẩu bởi Thái Lan và Ấn Độ. Tiếp theo là gạo trắng hạt dài chất lượng cao (5% tấm) rồi đến gạo trắng hạt dài chất lương thấp (chứa 25% tấm), gạo đồ và gạo tấm. Nhìn chung chất lượng và giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam đều thấp hơn so với các nước do các nguyên nhân sau: Việt Nam chưa xuất khẩu được nhiều những giống có chất lượng gạo thơm ngon nổi tiếng trong nước như: Nàng thơm Chợ Đào, Nàng Nhen thơm, Huyết rồng, Gạo thơm Việt Nam đang xuất khẩu hầu hết đều có nguồn gốc nước ngoài ví dụ: Jasmine 85, Khaodak Mal, DS 10, nên việc xây dựng thương hiệu cũng gặp nhiều khó khăn. Chúng ta chưa xây dựng được thương hiệu cho gạo trắng cũng như gạo thơm nói riêng cho từng giống như các nước Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan đã có. Chúng ta chỉ có thương hiệu chung là gạo trắng, hạt dài bao nhiêu phần trăm tấm cho cả gạo thơm và gạo trắng thường. Vì vậy, chất lượng gạo kém do lẫn tạp nhiều giống khác nhau, trong đó có những giống chất lượng thấp. Chúng ta chưa đa dạng hóa sản phẩm gạo xuất khẩu mà hầu hết chỉ là gạo trắng phẩm cấp trung bình, ít gạo thơm và chưa nhiều dạng gạo đồ, hay nếp trong khi đó Thái Lan xuất khẩu rất đa dạng sản phẩm có thương hiệu riêng. Trình độ kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất chế biến lúa gạo có được cải tiến tuy nhiên áp dụng chưa đồng đều, đa số công nghệ xay xát còn non yếu và lạc hậu, tỷ lệ hạt gãy cao, tỷ lệ thủy phần (lượng nước) thường vượt quá mức do năng lực phơi sấy còn hạn chế dẫn đến ẩm mốc, khó bảo quản dẫn đến tình trạng cùng chủng loại với sản phẩm của quốc gia khác nhất là Thái Lan nhưng phẩm cấp gạo của Việt Nam vẫn ở mức thấp hơn. 2.5 Thị trường và giá cả gạo xuất khẩu của Việt Nam 2.5.1 Các thị trường chính tiêu thụ gạo Việt Nam Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các thị trường chính từ năm 2009 đến năm 2014 cũng có nhiều biến động. Biểu đồ 2.2 thể hiện những thay đổi trong giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thế giới và sang các thị trường tiêu thụ chính. Nguồn: Trademap, Tổng cục Hải quan Giá trị nhập khẩu gạo Việt Nam của Trung Quốc từ 8,2 triệu USD năm 2009 tăng vọt lên 902,2 triệu USD năm 2012. Những năm tiếp theo, nhìn chung xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc vẫn tiến triển tốt và Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam trong 3 năm liên tiếp từ năm 2012 cho đến nay. Năm 2014, Trung Quốc nhập khẩu 2,09 triệu tấn, trị giá 891,19 triệu USD (chiếm 31,64% về lượng và 30,16% tổng kim ngạch). Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Trung tâm xúc tiến đầu tư-thương mại và hội chợ triển lãm Cần Thơ, bảy tháng đầu năm 2015 xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2014 (giảm 7,2% về khối lượng và giảm 12,46% về giá trị). Nguyên nhân là do quốc gia này đẩy mạnh kiểm soát và ngăn chặn nhập khẩu lậu qua biên giới và ảnh hưởng đến tiêu thụ gạo của Việt Nam. Chính sách của họ thay đổi liên tục, cấp hạn ngạch cho gạo rất nhỏ giọt và rất chậm, dẫn đến xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường này suy giảm đến 30% ở quý I năm 2015 (Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh). Mặt khác, Trung Quốc tăng cường nhập khẩu chính thức từ nhiều nguồn cung với giá thấp nên nhiều khả năng xuất khẩu gạo Việt Nam vào Trung Quốc sẽ sụt giảm trong năm tới. Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Philipines không ổn định qua các năm. Giai đoạn 2010 - 2013, giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này giảm mạnh từ 0,94 tỷ USD xuống còn 0,22 tỷ USD (giảm 23,76%). Đáng chú ý là trong năm 2014 mặc dù xuất khẩu gạo sang phần lớn các thị trường bị sụt giảm cả về lượng và kim ngạch so với năm 2013, nhưng xuất khẩu lại tăng rất mạnh ở thị trường Philippines (chiếm 21,17% về lượng và chiếm 20,59% về kim ngạch) với mức tăng 168% về lượng và 170% về giá trị so với năm 2013. Với mức tăng này Philippines vươn lên đứng vị trí thứ hai về thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam. Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm 2015, Philippines nhập khẩu 427.607 tấn gạo của Việt Nam; cùng với đó ngày 17/9/2015, Việt Nam trúng thầu cung cấp 450.000 tấn gạo cho Philippines với giá 426,6 USD một tấn. Có thể thấy, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Philipines vẫn tiếp tục khởi sắc. Châu Phi là thị trường tiêu thụ gạo của Việt Nam đứng thứ 3 với lượng tiêu thụ tương đối ổn định và có xu hướng tăng dần qua các năm. Trong đó, Bờ Biển Ngà (Côte d’lvoire) và Ghana là hai quốc gia nhập khẩu gạo của Việt Nam lớn nhất khu vực. Từ năm 2010 đến năm 2013, giá trị xuất khẩu gạo sang 2 quốc gia này liên tục tăng và có sự giảm nhẹ vào năm 2014. Tuy nhiên, theo báo cáo sơ bộ 6 tháng đầu năm 2015 của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gạo sang 2 thị trường này đều có sự tăng trưởng cả về lượng và giá trị. Bờ Biển Ngà có sự tăng trưởng đột biến với 85,1% về lượng và 75,06% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014. Nguyên nhân xuất khẩu gạo sang châu Phi tăng mạnh là do giá bán gạo rẻ hơn so với các đối thủ Thái Lan, Ấn Độ. Mặt khác, gạo thơm và gạo chất lượng cao đang được xuất khẩu ngày càng nhiều vào thị trường châu Phi thay vì chỉ tập trung vào gạo trắng thường như trước đây. 2.5.2. Giá cả gạo xuất khẩu của Việt Nam - Giá gạo xuất khẩu của VN qua các năm Nhìn chung, những năm qua giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có nhiều biến động, tăng giảm qua các năm và có xu hướng ngày càng giảm. Nguồn: Hiệp hội Lương thực Việt Nam Năm 2011, giá gạo xuất khẩu trung bình đạt mức cao nhất, vào khoảng 514 USD/tấn. Đây cũng là thời điểm gạo xuất khẩu của Việt Nam có mức sản lượng cao nhất là 7,72 triệu tấn, tương đương 2,92 tỷ USD trong giai đoạn 2009 – 2014. Từ năm 2012 đến nay, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm mạnh. Vào thời điểm ngày 01/06/2015, gạo 25% tấn ấn định ở mức giá 350USD/tấn, giảm 60USD/tấn so với thời kỳ trước đó và tiếp tục giảm thêm 10USD/tấn vào ngày 25/09/2015. Theo trang Thông tin lúa gạo Oryza, gạo Việt Nam hiện đang có mức giá thấp nhất trong rổ gạo xuất khẩu thế giới và vẫn đang trên đà giảm giá. Cụ thể, ngày 15/05/2015, loại gạo 5% tấm Việt Nam có giá từ 350-360 USD/tấn, thấp hơn gạo cùng loại của Ấn Độ 20 USD/tấn, thấp hơn gạo Pakistan khoảng 20-40 USD/tấn. Gạo 25% tấm của Việt Nam ở mức giá 330-340USD/tấn, thấp hơn gạo 25% tấm của Ấn Độ 14-15 USD/tấn và thấp hơn 15 USD/tấn so với gạo cùng loại của Pakistan (Bảng 2.5). Bảng 2.4 Giá gạo thế giới ngày 15/5/2015 Giá gạo thế giới ngày 15/5/2015 tính theo Giá FOB (USD/tấn) Gạo trắng hạt dài cấp thấp Gạo trắng hạt dài cao cấp Thái Lan 350-360 Thái Lan 100% B 380-390 Việt Nam 25% 330-340 Việt Nam 5% 350-360 Ấn Độ 25% 344-355 Ấn Độ 5% 370-380 Pakistan 25% 345-355 Pakistan 5% 370-400 Campuchia 25% 410-420 Myanmar 5% 415-425 Mỹ 15% tấm 460-470 Campuchia 5% 430-440 Gạo tấm Mỹ 4% tấm 470-480 Thái Lan A1 Super 315-325 Gạo thơm hạt dài Việt Nam 305-315 Thái Lan Homrmali 92% 875-885 Pakistan 290-300 Việt Nam Jasmine 490-500 Capuchia A1 Super 350-360 Campuchia Phka Malis 815-825 Ấn Độ 270-280 Nguồn: Thông tin lúa gạo Oryza Có nhiều nguyên nhân khiến gạo xuất khẩu của Việt Nam bị đánh giá thấp: Thứ nhất, do áp lực cạnh tranh gay gắt cả về giá cả và chất lượng từ phía các cường quốc xuất khẩu gạo như Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia và Pakistan sẽ là thách thức đối với việc xuất khẩu gạo của Việt Nam. Gạo Việt Nam đang và sẽ tiếp tục bị cạnh tranh mạnh ở mọi phân khúc và hầu khắp các thị trường, kể cả châu Phi - thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ ba của Việt Nam (năm 2014). Việc Thái Lan xả kho 17 triệu tấn gạo của chương trình dự trữ trước kia; cùng với đó là mùa thu hoạch mới lại tới ở nhiều quốc gia xuất khẩu chủ chốt, trong đó có Thái Lan càng làm gia tăng áp lực xả hàng. Việc Myanmar gia nhập thị trường xuất khẩu cũng gia tăng sức ép giảm giá đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam. Thứ hai, bản thân các nước nhập khẩu cũng khuyến khích nông dân tăng sản lượng lúa gạo, bảo đảm an ninh lương thực, không lệ thuộc vào việc nhập khẩu lúa gạo. Đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thừa nguồn cung. Chính tình trạng sản xuất thừa đang tạo áp lực lớn cho thị trường và càng làm giá gạo sụt giảm. Thứ ba là do chất lượng gạo thấp. Xuất phát từ tập quán canh tác, nông dân Việt Nam sản xuất 2 - 3 vụ/năm. Thời gian sinh trưởng ngắn đã khiến chất lượng gạo không đảm bảo. Thứ tư, đứng ở góc độ doanh nghiệp, hầu hết doanh nghiệp Việt có quy mô vừa và nhỏ, năng lực vốn thấp, sức chịu đựng yếu, đi vay ngân hàng từ 3-4 tháng với mức lãi suất thực tế còn cao, khả năng tiếp cận vốn khó. Khi đến hạn trả nợ, do vốn không nhiều, lại sợ bị đưa vào “danh sách đen” nên doanh nghiệp phải bán hàng với giá thấp để trả nợ ngân hàng. Đây cũng là một nguyên nhân khiến giá gạo của Việt Nam ở mức thấp. Thứ năm, do sự thiếu chủ động đối với đầu ra của gạo xuất khẩu. Hiện nay Việt Nam có 2 kênh bán hàng: một là theo các hợp đồng Chính phủ, hai là bán theo các hợp đồng thương mại. Từ năm 2012 trở về trước, hợp đồng Chính phủ đóng vai trò quan trọng, thường chiếm đến 50% hợp đồng xuất khẩu, nên trong việc mua tạm trữ, có thể chủ động được giá bao tiêu. Chính nhờ 50% tỉ trọng các hợp đồng Chính phủ này mà các nhà điều hành kiểm soát được thị trường, giữ đối trọng với thương nhân và giữ được giá thị trường thương mại, ít nhất cũng phải tương đương với giá hợp đồng tập trung. Tuy nhiên, từ năm 2012 trở lại đây, Việt Nam bị mất đối trọng này do các hợp đồng tập trung bị cắt giảm mạnh. Điều này cũng góp phần khiến giá gạo Việt Nam xuống thấp. 2.6 Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Hiện nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP, nhiều FTA song phương với nhiều nước trên thế giới như Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc; trở thành thành viên của nhiều tổ chức kinh tế thế giới như Tổ chức Thương mại thế giới WTO, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam 2.6.1 Cơ hội đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Thứ nhất, cơ hội có được từ việc cắt giảm thuế quan tạo động lực cho sản phẩm gạo của Việt Nam mở rộng thị trường tiêu thụ với giá cạnh tranh ở các nước trên thế giới. Việc quy định mức thuế nhập khẩu gạo của Việt Nam là 0% vào Malaysia theo AFTA, cam kết cắt giảm thuế còn 0% theo lộ trình trong FTA với Chile, Nhật Bản đã tạo lợi thế lớn cho Việt Nam trên các thị trường này. Hiện nay, sản phẩm gạo của Việt Nam có thể mở rộng xuất khẩu sang các nước TPP như Mỹ, Canada, Mexico, Peru. Thứ hai, triển vọng mới về xuất khẩu mặt hàng gạo khi tham gia TPP, tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp cận các thị trường quan trọng như châu Mỹ, từ đó giảm bớt sự lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị phần. Việc mở rộng tự do thương mại với thế giới tạo cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam được cọ xát, trao đổi công nghệ và chủ động đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn thiện, phát triển của khoa học công nghệ về giống, kỹ thuật canh tác, bảo quản, chế biến là những yếu tố để đẩy mạnh phát triển ngành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. 2.6.2 Thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Năm 2014, Việt Nam xuống vị trí thứ ba xuất khẩu gạo thế giới, sau Thái Lan và Ấn Độ. + Về sản lượng và giá Nếu như sản lượng gạo Việt Nam ở các thị trường nhập khẩu lớn như Trung Quốc, Bờ Biển Ngà, Malaysia đang có xu hướng giảm, thì sản lượng gạo Thái Lan ở những thị trường này lại có xu hướng tăng (Biểu đồ 2.6). Nguồn: Trademap Ở khu vực Châu Phi - thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ hai của Việt Nam, trong năm 2014, Việt Nam mất thị phần đến 60% do cạnh tranh gạo của Thái Lan và Ấn Độ; nhất là gạo tồn kho giá rẻ của Thái Lan. Hiện nay, Ấn Độ, Pakistan cũng đang giảm giá mạnh đối với phân khúc gạo cấp trung bình và thấp để cạnh tranh với Việt Nam. + Về chất lượng Hiện nay Việt Nam chủ yếu sản xuất gạo hạt dài In

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxluan_van_thuc_trang_xuat_khau_gao_cua_viet_nam_giai_doan_200.docx
Tài liệu liên quan