Đặc điểm sản xuất của Công ty là lao động nhẹ nhàng đòi hỏi sự khéo léo của người lao động, lao động nữ chiếm tỷ trọng lớn. Hiện nay, số lao động nữ của Công ty chiếm khoảng 80%, do đó việc quan tâm tới người lao động và tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ yên tâm làm việc là nhiệm vụ quan trọng của ban lãnh đạo Công ty và công đoàn đặc biệt phải quan tâm giải quyết hợp lý các vấn đề như nghỉ việc do thai sản, con ốm, bệnh tật,.
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3410 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thuế Giá trị gia tăng và thực tiễn áp dụng tại Công ty Bánh kẹo Hải Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Với mức thuế suất thuế GTGT tương đương hoặc cao hơn thuế 5% đến 10% so với thuế Doanh thu sẽ mang lại tính khả thi, tạo được nguồn thu cho Ngân sách nhà nước một cách tích cực, đồng thời thúc đẩy phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hoá có lợi cho nền kinh tế.
Thuế GTGT là loại thuế đánh vào người tiêu dùng và nó được cộng vào gía bán của sản phẩm hoặc dịch vụ. Nó đảm bảo cho mọi người được lựa chọn hàng hoá có mức thuế suất cao hay thấp tự do phù hợp với túi tiền của mình. Thuế GTGT tránh được sự quan hệ trực tiếp giữa người tiêu dùng là người chịu thuế và cơ quan thu thuế nên dễ thu hơn các loại thuế khác. Thuế đánh vào tiêu dùng nên người tiêu dùng không cảm nhận thấy được đầy đủ gánh nặng của loại thuế gián thu này, do đó dễ điều chỉnh.
Thứ hai, nó khắc phục được những hạn chế của thuế Doanh thu. Thuế GTGT tránh được hiện tượng đánh trùng lắp của thuế Doanh thu bởi vì thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị tăng thêm của sản phẩm hàng hoá dịch vụ và được khấu trừ số thuế đã nộp ở giai đoạn trước đó nên không có sự chồng chất thuế qua các giai đoạn chế biến sản phẩm. Điều này rất phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. Như ta biết một sản phẩm phải trải qua nhiều giai đoạn trước khi đến tay người tiêu dùng, mục tiêu của thuế là đánh vào tiêu dùng trên sản phẩm tiêu thụ, nhưng cách đánh của thuế Doanh thu tạo nên nhiều khoản thuế chồng chéo khiến cho tổng số thuế phải nộp là quá nặng và vô lý.
Thứ ba, thuế GTGT khuyến khích sản xuất xuất khẩu. Thuế GTGT thay thế cho thuế Doanh thu đánh trùng lặp có tác dụng khuyến khích sản xuất xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Vì thông thường hàng hoá xuất khẩu được áp dụng mức thuế suất 0% nên nó đảm bảo cho hàng xuất khẩu sẽ hoàn toàn được hoàn lại số thuế GTGT đã nộp mà người xuất khẩu phải chịu trong thị trường nội địa, điều đó làm cho chi phí hàng xuất khẩu giảm xuống, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị trường ngoài nước.
Bên cạnh đó thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu kết hợp với thuế nhập khẩu làm giá vốn hàng nhập khẩu tăng lên, điều này có tác dụng bảo vệ sản xuất kinh doanh hàng trong nước.
Thứ tư, thuế GTGT tạo điều kiện chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao bởi vì các nhà sản xuất, kinh doanh khó có thể trốn thuế, nó tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau về thuế. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện dựa trên hoá đơn chứng từ mua vào như vậy việc áp dụng thuế GTGT không những bắt buộc người mua và người bán phải lập hoá đơn chứng từ mà còn buộc người nộp thuế phải giữ sổ sách kế toán, phản ánh đầyđủ chính xác hoạt động kinh doanh của mình. Giá trị hàng hóa bán ra hay dịch vụ cung cấp cho bên ngoài xí nghiệp, Công ty này phải là giá trị mua vào hay phí tổn cho Công ty kia. Do đó có cùng nhau trốn thuế cũng không được vì quyền lợi mâu thuẫn lẫn nhau.Xí nghiệp này bán được nhiều sản phẩm mà ghi ít sản phẩm để tránh nộp thuế thì xí nghiệp kia lại không xin khấu trừ thuế khi bán sản phẩm ra. Chỉ có giai đoạn bán lẻ mới có hy vọng trốn thuế nhưng đến giai đoạn này giá trị phần tăng thêm rất ít. Nhìn chung áp dụng thuế GTGT người ta dễ dàng kiểm soát sự vận động của hàng hoá. Việc trốn thuế GTGT chỉ có thể nếu Công ty không mua nguyên vật liệu bán thành phẩm, tức là cung cấp dịch vụ thuần tuý.
Thứ năm, thuế GTGT nâng cao tinh thần tự giác và nghĩa vụ của người nộp thuế. Thu thuế GTGT là một phương pháp thu tiên tiến, nâng cao được tinh thần tự giác và nghĩa vụ của người nộp thuế. Việc giành quyền tự kê khai cho người nộp thuế có ưu điểm về phương diện tâm lý và pháp lý, họ được tự do không có sự ép buộc hoặc không có sự đôi co giữa họ và cơ quan thuế mà trước đây với thuế Doanh thu đã xảy ra do việc xác định doanh thu chính xác là một việc rất khó khăn. Hơn nữa việc xác định thuế GTGT cũng rất dễ dàng vì cách thu thuế này buộc người mua, người bán và cơ quan thu thuế phải lưu giữ biên lai, chứng từ và hồ sơ thu thuế cẩn thận, làm cho người nộp thuế quen với cơ chế thuế dựa trên cơ sở hoá đơn.
Thứ sáu, thuế GTGT khuyến khích sản xuất, tiêu dùng những loại mặt hàng không thuộc diện chịu thuế GTGT như : sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, muối, các sản phẩm dịch vụ thuộc lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao. Đồng thời khuyến khích nhập khẩu những mặt hàng thiết bị máy móc loại trong nước không sản xuất được,…Các sản phẩm này có vai trò rất quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội.
chương II
Thực tiễn áp dụng luật thuế giá trị gia tăng tại Công ty Bánh kẹo Hải Hà
I/ - Khái quát chung về Công ty Bánh kẹo Hải Hà.
1/- Khái quát về qúa trình thành lập và phát triển :
Công ty Bánh kẹo Hải Hà ( gọi tắt là HAIHACO ), địa chỉ số 25 - đường Trương Định – Hà Nội, là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên sản xuất và tiêu thụ các loại bánh kẹo để phục vụ mọi tầng lớp nhân dân và xuất khẩu sang một số nước. Hải Hà là một Công ty nằm trong kế hoạch phát triển lâu dài của ngành bánh kẹo Việt Nam. Sản phẩm của Công ty đã trở thành người bạn quen thuộc của nhiều thành phố và địa phương trong cả nước, đặc biệt là các địa phương ở phía Bắc nước ta. Bên cạnh đó, một số sản phẩm của Công ty đã có mặt ở một số nước như: Nga, Hungari, Tiệp Khắc, Mông Cổ.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Công ty Bánh kẹo Hải Hà đã kịp thích ứng và phát huy mọi khả năng để giữ vững uy tín trên thị trường, đồng thời thực hiện tốt công tác quản lý sản xuất, đổi mới công nghệ, cải tiến cách thức bán hàng đã từng bước đưa Công ty lớn mạnh và đứng vững trên thị trường. Một điều chắc chắn là các sản phẩm của Công ty trên thị trường với mẫu mã đẹp, hấp dẫn, chủng loại mặt hàng phong phú, chất lượng cao sẽ có mặt ở nhiều nơi trong nước và ngoài nước.
l Các giai đoạn hình thành và phát triển :
1.1/-Giai đoạn 1959 – 1961:
Tháng 11 năm 1959, Tổng Công ty Nông Thổ Sản Miền Bắc đã xây dựng một cơ sở thực nghiệm nghiên cứu hạt chân châu với chín cán bộ công nhân viên của Tổng Công ty gửi sang. Đến đầu năm 1960, thực hiện chủ trương của Tổng Công ty, Công ty đã đi sâu nghiên cứu và sản xuất các mặt hàng từ đậu xanh cung cấp cho nhu cầu của nhân dân. Trên cơ sở đó ngày 25/12/1960 xưởng miến Hoàng Mai ra đời, đánh dấu bước ngoặt đầu tiên cho sự ra đời của nhà máy sau này.
1.2/-Giai đoạn 1962 – 1967 :
Năm 1962, xí nghiệp Hoàng Mai trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ quản lý. Thời kỳ sau này, xí nghiệp đã thử nghiệm thành công và đưa vào sản xuất các mặt hàng như dầu ăn, tinh bột ngô cung cấp cho nhà máy pin Văn Điển. Năm 1966, Viện thực phẩm đã lấy xí nghiệp làm cơ sở sản xuất và thử nghiệm các đề tài thực phẩm để từ đó phổ biến cho các địa phương sản xuất, nhằm giải quyết hậu cần tại chỗ, tránh được ảnh hưởng do chiến tranh gây ra. Từ đó nhà máy đã đổi thành nhà máy Thực nghiệm thực phẩm Hải Hà, ngoài sản xuất tinh bột ngô, nhà máy còn sản xuất viên đạm, trao tương, nước chấm lên men, nước chấm hoa quả, dầu đạm tương, bánh mì bột dinh dưỡng trẻ em và bước đâù nghiên cứu mạch nha..
1.3/-Giai đoạn1968 – 1991:
Năm 1968, nhà máy trực thuộc Bộ Lương thực Thực phẩm quản lý. Tháng 6 năm 1970, nhà máy mang tên mới là Nhà máy thực Phẩm Hải Hà với số cán bộ công nhân viên là 555 người và nhiệm vụ chính là sản xuất kẹo nha, tinh bột. Tháng 12 năm 1976, nhà máy phê duyệt phương án thiết kế Nhà máy thực phẩm Hải Hà với công suất thiết kế là 6000 tấn/ năm. Năm 1980, Nhà máy tập trung vào sản xuất các loại sản phẩm : kẹo chuối xuất khẩu, kẹo vừng xuất khẩu, kẹo mè xửng xuất khẩu, kẹo Cam mềm, kẹo Sôcôla cứng. Bắt đầu từ năm 1981, Nhà máy được giao cho Bộ công nghiệp thực phẩm quản lý. Đến năm 1985, Nhà máy có 6 chủng loại sản phẩm : kẹo mềm cafê, kẹo mềm sôcôla và kẹo cứng nhân các loại, kẹo mè xửng, kẹo chuối vừng lạc, kẹo vừng xốp. Thời kỳ này nhà máy tiếp tục mở rộng và phát triển thêm nhiều dây truyền sản xuất, dần dần thực hiện hoàn chỉnh luận chứng kinh tế. Một lần nữa, Nhà máy đổi tên thành nhà máy xuất khẩu Hải Hà. Sản lượng tăng hàng năm với tốc độ từ 1 – 15%, sản xuất từ chỗ thủ công đã dần tiến tới cơ giới hoá 70 – 80% với số vốn nhà nước giao là 5454 triệu đồng.
1.4/-Giai đoạn 1992- nay :
Ngày 15 tháng 7 năm 1994, nhà máy xuất khẩu Hải Hà quyết định đổi tên thành Công ty Bánh kẹo Hải Hà với tên giao dịch là Haihaco trực thuộc Bộ công nghiệp quản lý. Trong quá trình phát triển Công ty đã liên doanh với các Công ty nước ngoài : Năm 1993, Công ty đã liên doanh với Công ty Kotobuki ( Nhật Bản ) thành lập liên doanh Hải Hà - Kotobuki với tỷ lệ góp vốn như sau : Bên Việt Nam 30% ( 12 tỷ đồng ), bên Nhật Bản 70% ( 28 tỷ đồng ). Năm 1995, thành lập liên doanh MIWON ( Đài Loan ) tại Việt Trì với số vốn góp của Hải Hà là 11 tỷ đồng. Năm 1996, thành lập liên doanh Hải Hà-Kameda tại Nam Định với số vốn góp của Hải Hà là 4,7 tỷ đồng. Tuy nhiên đến năm 1998 do hoạt động không hiệu quả nên đã giải thể liên doanh Hải Hà - Kameda. Việc liên doanh với nước ngoài đã nâng cao uy tín của Công ty về chất lượng cũng như chủng loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh độc lập. Mặt hàng sản xuất chính là bánh và kẹo các loại. Các xí nghiệp trực thuộc Công ty gồm có : xí nghiệp kẹo, xí nghiệp bánh, xí nghiệp thực phẩm Việt Trì, xí nghiệp phụ trợ, xí nghiệp dinh dưỡng Nam Định.
2/- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công ty :
Thực hiện nghị quyết VII của ban chấp hành trung ương Đảng về công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, của Công ty Bánh kẹo Hải Hà xác định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn (Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty) chủ yếu của mình như sau :
2.1/-Chức năng :
Công ty Bánh kẹo Hải Hà có chức năng chính là sản xuất kinh doanh bánh kẹo các loại và chế biến thực phẩm nhằm mục tiêu lợi nhuận. Các sản phẩm chính mà Công ty sản xuất đó là: các loại kẹo cứng, kẹo mềm, kẹo caramen, bánh bích quy, bánh kem xốp, bánh cracker, bột dinh dưỡng trẻ em và một số sản phẩm khác.
2.2/-Nhiệm vụ:
-Tăng cường chiều sâu với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, mở rộng thị trường từ nông thôn đến thành thị, từ trong nước ra nước ngoài, đủ sức cạnh tranh đối với các đối thủ trong và ngoài nước. Phát triển các loại mặt hàng mới, nhất là các loại bánh kẹo truyền thống cuả dân tộc.
-Đi sâu nghiên cưú thị trường, ổn định và không ngừng nâng cao hiệu quả của thị trường cũ, mở rộng thị trường mới, nhất là thị trường trong miền Nam và thị trường xuất khâủ
-Ngoài việc sản xuất các loại bánh kẹo là chính, Công ty sẽ sản xuất các mặt hàng khác để không ngừng nâng cao đời sống và thúc đẩy ngày một vững mạnh của Công ty.
-Ngoài các chức năng nhiệm vụ chủ yếu trên, Công ty còn có các nhiệm vụ sau:
+ Bảo toàn và phát triển vốn được giao.
+ Thực hiện các nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
+ Thực hiện phân phối theo lao động, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho
cán bộ công nhân viên,...
Như vậy, mục tiêu chung và nhiệm của Công ty là bảo đảm hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh trong các thời kỳ, bảo đảm thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đồng thời không ngừng phát triển quy mô doanh nghiệp, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên toàn Công ty. Có làm được như vậy thì Công ty mới góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
2.3/-Quyền hạn:
- Được phép ký kết các hợp đồng kinh tế đối với các đối tác thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các đơn vị nghiên cứu khoa học kỹ thuật; được ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu với đối tác nước ngoài để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
- Được phép ký kết hợp đồng liên doanh, hợp tác đầu tư sản xuất.
- Được vay vốn bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tại các ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài, được huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Được đặt chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước theo đúng quy định của Nhà nước Việt Nam và nước sở tại. Công ty được thu thập tin tức về kinh tế thị trường.
- Được tham ra các hội chợ, triển lãm trưng bày, giới thiệu sản phẩm ở trong và ngoài nước.
- Mở cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm do Công ty sản xuất theo quy định của Nhà nước.
- Chủ động phát triển sản xuất, mở rộng hay thu hẹp các ngành nghề kinh doanh phù hợp với khả năng của Công ty nếu được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép.
- Tổ chức ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, trang thiết bị phù hợp với quy hoạch, kế hoạch, quy chế hướng dẫn của Công ty và Nhà nước.
3/-Địa vị pháp lý của Công ty:
Công ty Bánh kẹo Hải Hà là đơn vị chuyên sản xuất các loại bánh kẹo phục vụ cho nhu cầu của nhân dân. Công ty được thành lập theo quyết định số 216 CNn/TCLD ngày 24/03/1993 của Bộ công nghiệp nhẹ ( hiện nay là Bộ công nghiệp ) căn cứ theo Nghị Định số 338 - HĐBT (nay là Chính phủ ) ngày 20/11/1991.
Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh số 106286 ngày 7/4/1993 của trọng tài kinh tế Hà Nội cấp. Mã số thuế 0100100914-1 tại Cục thuế Hà Nội.
Công ty Bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, được mở tài khoản tại ngân hàng và sử dụng con dấu của Nhà nước.
Công ty Bánh kẹo Hải Hà đăng ký nhãn hiệu hàng hoá số 5864 theo quyết định số 2348 ngày 21/08/1992 của Cục sở hữu công nghiệp và có giá trị 10 năm.
Đăng ký kiểu dáng công nghiệp số 5256 của kẹo cứng nhân theo quyết định số 577/QĐKD ngày 07/09/1998 của Cục sở hữu công nghiệp.
Đăng ký chất lượng hàng hoá các mặt hàng theo quy định của Nhà nước.
4/-Mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh và quản lý kinh doanh của Công ty
4.1/-Cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty.
Hiện nay Công ty Bánh kẹo Hải Hà gồm 5 xí nghiệp: xí nghiệp bánh, xí nghiệp kẹo, xí nghiệp phụ trợ, xí nghiệp thực phẩm Việt Trì, xí nghiệp bột dinh dưỡng Nam Định và hai liên doanh: Hải Hà Kotobuki, Công ty MIWON Việt Nam.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty Bánh kẹo Hải Hà
Hải Hà - Kotobuki
Công ty Bánh kẹo Hải Hà
PX
kẹo
gôm
PX
bánh kem xốp
PX
làm
bột
gạo
PX
kẹo
cứng
PX
kẹo mềm
PX
giấy
bột
PX
cơ
khí
PX
kẹo
các loại
PX kẹo
Jelly
Hệ thống phòng ban
XN bánh
XN dinh dưỡng Nam Định
XN thực phẩm Việt Trì
XN phụ
trợ
XN kẹo
Các Công ty Liên doanh
Miwon Việt Nam
PX bánh
biscuit
Trong đó:
Xí nghiệp bánh bao gồm ba phân xưởng: phân xưởng bánh kem xốp; phân xưởng bánh biscuit; phân xưởng làm bột gạo.
Xí nghiệp kẹo gồm ba phân xưởng: phân xưởng kẹo cứng; phân xưởng kẹo mềm và phân xưởng kẹo gôm.
Xí nghiệp phụ trợ chuyên sửa chữa máy móc thiết bị; chế biến một số nguyên liệu như bột giấy.
Xí nghiệp Việt Trì bên cạnh phân xưởng sản xuất kẹo các loại còn có phân xưởng sản xuất kẹo Jelly khuôn và Jelly cốc.
Xí nghiệp Nam Định có phân xưởng sản xuất kem xốp các loại.
Liên doanh Hải Hà -Kotobuki chuyên sản xuất các loại bánh kẹo cao cấp như Socola, Cookíe bơ, kẹo cao su
Liên doanh Miwon Việt Nam có trụ sở tại Việt Trì chuyên sản xuất bột ngọt.
4.2/-Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty
Năm 1995 Công ty tiến hành đổi mới mô hình bộ máy quản lý nhằm đảm bảo sự linh hoạt, năng động và phản ứng nhanh chóng trước các tình huống xảy ra.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Bánh kẹo Hải Hà
Phó tổng giám đốc điều hành thương mại
Tổng giám đốc Công ty
Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất kỹ thuật
Liên doanh Hải Hà - Miwon
Liên doanh Hải Hà - Kotobuki
Phòng kỹ thuật
Văn phòng
Phòng tài vụ
Ban bảo vệ
Nhà ăn cơm ca
Hệ thống cửa hàng
Phòng kinh doanh
XN thực phẩm Việt Trì
XN phụ trợ
XN kẹo
XN Nam Định
XN bánh
Bộ máy quản lý của Công ty được bố trí theo kiểu trực tuyến - chức năng. Theo đó, Tổng giám đốc được sự giúp đỡ của Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất kỹ thuật và Phó tổng giám đốc điều hành thương mại trong việc nghiên cứu,
bàn bạc tìm kiếm các giải pháp tối ưu cho những vấn đề phức tạp, tuy nhiên quyền quyết định các vấn đề này thuộc về Tổng giám đốc.
Những quyết định quản lý do các phòng chức năng nghiên cứu đề xuất khi được thủ trưởng thông qua biến thành mệnh lệnh được truyền đạt từ trên xuống theo tuyến đã quy định. Các phòng chức năng có trách nhiệm tham mưu.
Phòng kinh doanh có nhiệm vụ :
- Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và xây dựng giá thành sản phẩm ( quý, năm )
- Điều độ sản xuất và thực hiện kế hoạch
- Cung ứng vật tư sản xuất, cân đối kế hoạch thu mua, ký hợp đồng thu mua vật tư, thiết bị
- Ký hợp đồng và theo dõi thực hiện hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
- Tổ chức hoạt động Marketing từ quá trình sản xuất đến quá trình tiêu thụ, thăm dò thị trường quảng cáo.
- Lập kế hoạch phát triển cho các năm sau.
Phòng kỹ thuật sản xuất có nhiệm vụ :
- Nghiên cứu kỹ thuật cơ điện, công nghệ.
- Nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới
- Theo dõi việc thực hiện các quy trình công nghệ
- Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm
- Xây dựng định mức nguyên vật liệu cho từng loại sản phẩm.
Văn phòng có nhiệm vụ :
- Tính lương,, thưởng cho cán bộ công nhân viên.
- Tuyển dụng lao động
- Phụ trách vấn đề bảo hiểm, an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp
- Phục vụ tiếp khách
Phòng tài vụ có nhiệm vụ :
- Huy động vốn phục vụ sản xuất
- Hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh.
- Quản lý hoạt động tài chính.
- Trả lương cho cán bộ công nhân viên
Ban bảo vệ, nhà ăn, y tế có nhiệm vụ bảo vệ cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức bữa ăn giữa ca và chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên.
Ngoài ra, Công ty còn có một hệ thống các cửa hàng có chức năng giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm. Hệ thống nhà kho có chức năng dự trữ nguyên vật liệu, trang thiết bị phục vụ sản xuất.
5/-Tình hình về lao động, nhân sự trong doanh nghiệp :
Đặc điểm sản xuất của Công ty là lao động nhẹ nhàng đòi hỏi sự khéo léo của người lao động, lao động nữ chiếm tỷ trọng lớn. Hiện nay, số lao động nữ của Công ty chiếm khoảng 80%, do đó việc quan tâm tới người lao động và tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ yên tâm làm việc là nhiệm vụ quan trọng của ban lãnh đạo Công ty và công đoàn đặc biệt phải quan tâm giải quyết hợp lý các vấn đề như nghỉ việc do thai sản, con ốm, bệnh tật,..
Để phù hợp với tình hình sản xuất với dây truyền, máy móc thiết bị ngày càng được đổi mới, cải tiến theo kịp với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, lực lượng lao động của Công ty không ngừng được củng cố về số lượng và chất lượng. Cùng với việc phát triển và mở rộng sản xuất, số lượng lao động của Công ty liên tục tăng lên từ lúc Công ty chỉ có hơn 1000 lao động đến nay số lượng lao động của Công ty tăng lên gần 2000 người trong đó có 106 người có trình độ đại học, 42 người có trình độ trung cấp, bậc thợ trung bình toàn Công ty là 4/7. Nhằm nâng cao tay nghề, kiến thức chuyên môn cho công nhân, Công ty thường xuyên mở các lớp đào tạo tại doanh nghiệp và gửi đi học bên ngoài về quản lý kinh tế, an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, ngoại ngữ, nâng cấp và nâng bậc cho công nhân.
Biểu 1 : Cơ cấu lao động theo trình độ
Trình độ
Đại học
Trung cấp
Nghiệp vụ kinh tế
29
13
Nghiệp vụ kỹ thuật
52
10
Nghiệp vụ tài chính
8
8
Nghiệp vụ khác
4
9
Cán bộ lãnh đạo
6
-
Trưởng phòng
7
2
Tổng
106
42
(Nguồn: Tài liệu Phòng kinh doanh)
Biểu 2 : Số lượng cán bộ công nhân viên toàn Công ty được bố trí như sau:
Xí nghiệp
Chức năng
Xí nghiệp
Kẹo
Xí nghiệp bánh
Xí nghiệp phụ trợ
Xí nghiệp Nam Định
Xí nghiệp Việt Trì
I.Lao động gián tiếp
65
40
7
21
57
- Nghiệp vụ kinh tế
9
6
2
5
20
- Nghiệp vụ kỹ thuật
19
6
4
5
28
- Phục vụ, vệ sinh, cơ khí
37
28
1
11
9
II.Lao động trực tiếp
615
149
67
45
665
Tổng số
680
189
74
66
722
(Nguồn: Tài liệu Phòng kinh doanh)
Biểu 3 : Cơ cấu lao động theo thời hạn sử dụng
Loại lao động
Hành chính
XN kẹo
XN bánh
XN phụ trợ
XN Nam Định
XN Việt Trì
Lao động dài hạn
105
387
69
43
56
398
Lao động hợp đồng
(1-3 năm)
36
190
69
31
6
153
Lao động thời vụ
3
103
51
-
4
149
Tổng
144
680
189
74
66
722
(Nguồn: Tài liệu Phòng kinh doanh)
Thu nhập bình quân của công nhân viên tăng lên qua các năm, năm 1997 thu nhập bình quân là 680.000 đ/tháng, năm 1998 là 730.000 đ/tháng, năm 1999 là 800.000đ/tháng.
Qua đó ta thấy Công ty luôn chú trọng tới việc nâng cao đời sống cho người lao động, cân đối với kết quả sản xuất kinh doanh, thường xuyên tổ chức các hoạt động giải trí như tổ chức thi đấu thể thao, tham quan, nghỉ mát...nhằm khuyến khích tinh thần lao động, tạo sự gắn bó của công nhân với Công ty và sự hiểu biết lẫn nhau trong đội ngũ cán bộ lao động của Công ty.
6/- Tình hình kinh doanh của đơn vị trong một số năm gần đây :
6.1/-Tình hình về vốn của đơn vị trong một số năm gần đây:
Vốn là một nhân tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong thực tế có rất nhiều Công ty ngừng hoạt động vì thiếu vốn. Nhưng HAIHACO đã biết huy động và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả.
Biểu 4 : Tình hình về vốn của Công ty
Vốn
1997
1998
1999
Mức (tỷ đồng)
Tỷ trọng(%)
Mức (tỷ đồng)
Tỷ trọng(%)
Mức (tỷ đồng)
Tỷ trọng(%)
I.Theo cơ cấu
1.Vốn lưu động
89,402
90,23
95,409
90,27
99,35
89,7
2.Vốn cố định
9,685
8,77
10,286
9,73
11,4
10,3
Tổng vốn
99,087
100
105,695
100
110,75
100
II. Theo nguồn
1.Ngân sách cấp
49,416
49,87
56,37
55,3
65,3
58,96
2.Vốn vay
13,394
13,52
17,44
16,5
19,8
17,58
3.Nguồn khác
36,277
36,61
31,885
30,77
25,65
23,16
Tổng
99,087
100
105,695
100
110,75
100
(Nguồn: Phòng kinh doanh)
Cũng như một số doanh nghiệp khác, doanh nghiệp Hải Hà có nguồn vốn do ngân sách cấp. Nguồn vốn đó chiếm một tỷ trọng lớn và còn được tích luỹ bổ sung hàng năm. Số vốn lưu động tăng lên đáng kể: năm 1998 tăng so với 1997 là 6,007 tỷ đồng, năm1999 tăng so với năm 1998 là 3,941 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, nguồn vốn vay của doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu huy động trong điều kiện kinh doanh có hiệu quả. Thật vậy, nguồn vốn vay của Hải Hà tăng lên qua các năm, điều này đã thể hiện doanh nghiệp ngày càng phát triển và mở rộng sản xuất. Nhưng chính việc tăng vốn vay đã tạo ra một khoản chi phí của doanh nghiệp là phải trả lãi xuất tiền vay. Hàng năm Công ty phải trả 600-700 triệu đồng. Đây là một khó khăn do Công ty sử dụng vốn vay trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng nó cũng chứng to rằng năng lực huy động vốn của Công ty là rất lớn.
6.2/-Tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh :
Mặc dù gặp nhiều khó khăn như thiếu vật tư, thiếu vốn, những thử thách bởi cơn lốc cạnh tranh, Hải Hà vẫn liên tục trưởng thành. Sau đây là kết quả kinh doanh của Công ty từ 1998 –2000.
Biểu 5 : Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty.
Chỉ tiêu
Đơn vị
1998
1999
2000
Giá trị sản lượng
Doanh thu
Nộp ngân sách
Lợi nhuận
Sản phẩm tiêu thụ
Thu nhập bình quân
Tình hình về vốn :
Vốn cố định
Vốn lưu động
8. Số lao động
Tỷ đồng
“
“
“
tấn
1000 đ/ng
tỷ đồng
“
“
người
133,35
153,38
16,017
0,5
10694,3
560
99,087
89,402
9,685
1921
135,5
161,5
16,7
0,2
10700,65
650
105,695
95,409
10,286
1832
134,1
162,5
18,2
0,2
9844,7
750
110,75
99,35
11,4
1962
(Nguồn: Phòng kinh doanh)
Từ trên ta thấy tốc độ sản xuất kinh doanh trong giai đoạn1998-2000, nhìn chung các chỉ tiêu năm sau cao hơn năm trước điều đó thể hiện sự năng động, nỗ lực cũng như khả năng chiếm lĩnh thị trường, mở rộng sản xuất của Công ty.
Về doanh thu : doanh thu của Công ty tăng hàng năm, doanh thu năm 1999 tăng 5,3% so với năm 1998, doanh thu năm 2000 tăng 0,26% so với năm 1999. Điều này chứng tỏ Công ty nắm chắc nhu cầu thị trường và đi sâu sản xuất hàng có xu hướng tiêu thụ mạnh.
Về lợi nhuận : lợi nhuận của Công ty năm 1999 giảm 0,3% so với năm 1998 và duy trì ở mức cũ năm 2000. Nguyên nhân chủ yếu là do giá nguyên vật liệu tăng, tỷ giá ngoại tệ biến động theo chiều hướng xấu, và đặc biệt phải xử lý sự xụp đổ của Công ty liên doanh MIWON.
Về nộp ngân sách : Công ty luôn là một đơn vị thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, giá trị nộp ngân sách Nhà nước có xu hướng tăng lên đặc biệt là năm 2000 nộp ngân sách tăng 8,98% so với năm 1999
Về thu nhập của cán bộ công nhân viên : thu nhập ngày càng cao, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất cho người lao động cũng như khả năng tái sản xuất sức lao động.
6.3/-Tình hình thực hiện sản xuất - tiêu thụ : (biểu 6-trang sau)
Một đặc điểm khác biệt của ngành sản xuất bánh kẹo là tiêu thụ sản phẩm mang tính thời vụ. Qua biểu 2 ta thấy quý I và quý IV trong năm lượng sản phẩm được tiêu thụ nhiều nhất vì hai quý này là mùa cưới, tết và lễ hội. Cụ thể, tháng 1 quý I năm 1998, lượng sản phẩm sản xuất ra là 1129,1 tấn và tiêu thụ đạt 99%. Cùng quý trong năm, tháng 2 và tháng3 lượng tiêu thụ đạt khá cao chiếm 97,8% và 98,999%. Tháng 10,11,12 của quý IV lượng sản phẩm tiêu thụ so với sản xuất đạt lần lượt là 96,8% ; 97% ; 99% . Trong đó quý II và quý III lượng sản phẩm sản xuất ra về số tuyệt đối ít hơn hai quý còn lại nhưng tỷ lệ thực hiện tiêu thụ vẫn thấp hơn. Những kết quả sản xuất tiêu thụ cũng như vậy cho các năm 1999 và năm 2000
Năm 1998, k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V8391.DOC