MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cám ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng số liệu
Danh mục các biểu đồ, bản đồ
MỞ ĐẦU .1
1.Tính cấp thiết của đề tài .1
2. Mục đích nghiên cứu.2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.2
4. Phạm vi, giới hạn của đề tài .2
5. Lịch sử nghiên cứu đề tài .3
6. Quan điểm .4
7. Phương pháp nghiên cứu.5
8. Cấu trúc luận văn .7
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH.8
1.1. CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH.8
1.1.1. Khái niệm về du lịch.8
1.1.2. Sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch.10
1.1.3. Tổ chức lãnh thổ du lịch .10
1.2. VAI TRÒ CỦA DU LỊCH TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI.11
1.2.1. Đối với kinh tế .11
1.2.2. Đối với xã hội .11
1.2.3. Đối với môi trường, sinh thái .12
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN DU LỊCH .13
1.3.1. Khái niệm về tài nguyên du lịch.13
1.3.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên .14
1.3.2.1. Khái niệm .14
135 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 860 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển du lịch tỉnh Tiền Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: độ ẩm không khí, nắng, bức xạ, nhiệt độ, mưa...được phân bố theo
mùa trong năm khá rõ nét. Qui luật phân bố này khá ổn định qua nhiều năm và ít
thay đổi trong không gian. Cùng với đặc điểm địa chất, địa hình, đây là một trong
những điều kiện để thảm thực vật phát triển phong phú, đan xen, cho nên sự phân
bố thảm, vùng không có tính khu biệt.
Thực vật rừng: Diện tích chiếm 13.120,41 héc ta. Trong đó: rừng tự nhiên
305,86 héc ta (rừng phòng hộ), rừng trồng12.814,55 héc ta. Ngoài ra Tiền Giang
còn có vườn cây ăn trái chiếm diện tích 170.377,44 héc ta. Trong đó cây lâu năm là
75.166,87 héc ta; vườn tạp là 2.520,90 héc ta, cây hàng năm 92.689,67 héc ta.
Thực vật trồng trọt: Chủ yếu là cây lúa, rau, màu chiếm tổng diện tích
85.568,98 héc ta. Ngoài ra có các loại cây trái rất đa dạng được trồng trến các lếp,
vườn của các hộ nông dân, đặc biệt là các hộ ven các sông, rạch, kênh.
Quần thể thực vật ven biển, ven sông rạch: Trước hết là quần thể thực vật
phía đông của tỉnh, ven biển vùng Gò Công. Chủng loài thực vật ở đây tương đối
đơn điệu, nếu càng đi về phía biển, và phong phú hơn khi đi sâu vào đất liền. Đáng
kể nhất là các cây dừa nước (Nipa fructicans), Cây lức (Pluchea indica) thuộc họ
cúc (Asteraceae), họ bìm bìm (Convolvulaceae) có cây muống biển (Impomaea pes-
caprae).
Ven biển Gò Công còn có các loại cây họ đước vẹt (Rhizophorzceae), họ cỏ
roi ngựa (Verbenaceae) có cây mắm, cây chà là (Phoenix paludosa), bần ổi
(Sonneratia alba), bần đắng (Sonneratia griffithii).
Ở ven sông rạch vùng nước ngọt sông Tiền, các nhóm thảo mộc thường thấy
thuộc họ ráy (Araceae) ,cây nghể (Polygonum hydropiper - còn gọi thủy liễu) thuộc
họ rau răm (Polygonaceae), cây dứa gai (Pandanus tectorius), họ rau dừa nước
(Oenotheraceae), bèo cái (Pistia stratoites), cây rau chóc (Laisia spinosa ), họ ô rô
(Acanthaceae) mọc hoang nơi bãi lầy cũng được khai thác làm thuốc. Cây ngãi (huệ
nước), họ layơn (Iridaceae), họ nê thảo (Butomaceae), cây kèo nèo (Limmocharis
flava), mọc ven bờ nước, làm rau ăn...Cùng chủng loại có cây rau tai tượng được
trồng quanh bờ ao làm rau ăn. Họ Cói (Cyperraceae) có cây Thủy trúc hay gọi là lác
dù, ô du. Họ Lục bình (Pontederriaceae), Rau nhút, họ trinh nữ (Mimosaceae) (hay
còn gọi rau thuần) được trồng nhiều ở ao đìa vùng đất ven sông rạch, nhiều phù sa.
Quần thể thực vật vùng phù sa cổ, đất giồng: Đặc điểm địa chất của vùng đất
này là đất cát và đất pha cát, độ màu mỡ ít, ở cao và thường khô hanh vào mùa
nắng, thích hợp các loại cây: Họ sao, dầu (Dipterocarpaceae), họ bàng
(Combretaceae) có cây trâm bầu (Commbretum quadrangulare Kurz), mọc ở dãy
đất cao, hiện ở Gò Công còn địa danh Gò Bầu. Cây bàng (Terminalia catappa), họ
hàng nhà tre có nhiều chủng loại gồm tre đắng, tre hóp (Bambusa muiplex) , tre gai
và các loại trúc. Họ trinh nữ (Mimosaceae) có cây me keo (Pithecolobium dulce),
keo bông vàng (Acacia aneuramuell), họ đậu (Fabaceae) có các loại thân gỗ như cây
me (Tamarindus indicus), cây so đũa (Sesbaria grandiflora), cây vông nem
(Erythrina variegata), được trồng để lấy lá gói nem, hoặc dùng làm trụ (nọc) để
trồng trầu, hồ tiêu. Họ thầu dầu (Eupborbiaceae) đại diện là cây bả đậu (Huara
crepitans), họ trúc đào (Apocyraceae)
Ngoài ra còn rất là nhiều họ thảm thực vật, đã tạo cho Tiền Giang có một
phong cảnh thực vật rất xanh. Đặc biệt là các loại thân thấp, các loại cỏ, các loại cây
có giá trị kinh tế. Trong các loài họ trên có rất nhiều loài làm thuốc chữa bệnh rất
tốt, nên đây được coi là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá để xây dựng các sản
phẩm du lịch.
Chim rừng có nhiều loại, một số có tập quán di trú, chỉ xuất hiện theo mùa,
một số làm tổ định cư thành những vườn cò, vườn chim, gồm có: cu đất, cu cườm,
cu xanh, cưỡng, sáo, sáo nghệ, sáo sậu, sáo trâu, nhồng, chìa vôi, se sẻ, chim khách,
bìm bịp, ó diều, chim ụt, lắc nước, le le, gà đãy, bồng bồng, giỏ giẻ, óc cau, cò ma,
cò trâu, cò quắm, cò trắng, cúm núm, chàng bè, diệc lửa, diệc mốc, dồng dộc, chim
sắc, trao trảo, sa sả, chài chài, điên điển, cồng cộc, chim sâu, chim vịt...
Chuột và dơi cũng rất đông đúc. Họ hàng nhà chuột, gồm các loại chuột lắc,
chuột cơm, chuột cống, chuột cống nhum...là tai họa của nhà nông. Dơi thường thấy
có dơi quạ, dơi sen, dơi hương, dơi muỗi... cư trú ở vùng cây ăn trái.
Cá là thực phẩm chính của cư dân địa phương từ bao đời nay, mặc dù môi
trường ô nhiễm và nạn đánh bắt bừa bãi, nhiều loài cũng đã tuyệt chủng, nhưng
nguồn cá vẫn còn khá phong phú, bao gồm: các loại cá nước ngọt: Cá bống tượng,
bống mú, bống các, bống xệ, bống trứng (chỉ xuất hiện vào mùa nước son từ thượng
nguồn đồ về), bống dừa, cá trèn, cá chốt. Cá lòng tong có hai loại: đá và bay. Cá mè
vinh, cá mè rổ, mè hôi, cá bãi trầu, cá lành canh. Cá linh trong mùa nước nổi rất
nhiều, ngày xưa người ta chỉ nấu lấy dầu, làm mắm hoặc làm nước mắm. Nhiều loài
sống ở sông, kinh rạch như: cá lăng, cá úc, cá dồ. Cá bông lau sống ở vùng nước lợ,
cá hú, cá ba sa. Cá chạch và cá chạch lấu có hoa ở thân. Cá ở đồng ruộng ao, đìa
gồm có: cá rô, cá dầy tho, các sặt bướm, cá sặt rằn (vảy nhỏ, dẹp, nhỏ con hơn dày
tho), cá lóc cùng loại có cá tràu nhỏ con hơn. Cá bông to con, sống ở sông lớn, ít vô
ao đìa. Loài giác ngư (có hai ngạnh) còn có cá trê trắng, cá trê vàng, cá trê dừa, sau
có cá trê phi nhập. Cá bẹ dẹp, cá vược, cá chẻm, cá vược. Ngoài các loại cá chưa
thống kê hết được, ở vùng nước ngọt, còn có các loài lươn, chình... cũng là nguồn
thực phẩm giàu dinh dưỡng.
Các loại cá biển rất nhiều, những loài phổ biến gồm: cá chim, cá sơn, cá rựa
giống như lưỡi rựa, cá thu, cá biển, cá thu ầu, cá thu lá, cá gún, cùng loại. Cá mập,
cá dứa, cá mòi, cá ngừ, cá chét, cá mực, cá cúi (heo biển), cá bẹ. Cá búa, cá giủa,
cá nhám – cùng loại cá mập nhưng nhỏ con, màu xám. Cá đường, cá kìm, cá lạc,
cá bạc má, cá lù đù, cá chỉ vàng, cá thòi lòi biển, cá bống kèo sống ở cửa sông
nước lợ hiện nay giá rất đắt do thị trường ưa chuộng; cá lưỡi trâu, cá đối thường
dùng để làm khô.
Ở sâu trong Đồng Tháp Mười có nhiều cá thia thia, cá bãi trầu; cá rô năn, cá
trê năn cũng là loại cá rô, cá trê nhưng sống vùng nước phèn không lớn được. Khu
Bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười là nơi lưu giữ những sinh cảnh tự nhiên còn lại
của hệ sinh thái độc đáo vùng Đồng Tháp Mười. Khu bảo tồn có diện tích 106,8
ha, trong đó có 36 ha tràm là khu trung tâm, nơi dẫn dụ chim mồi. Vùng đệm xung
quanh khu bảo tồn được xác định có diện tích 1.800 ha. Đây được coi là nơi tham
quan nghiên cứu đặc trưng của vùng ngập nước.
Các loại nhuyễn thể và giáp xác ở vùng nước mặn gồm: đồm độp hay còn
gọi là hải sâm, nghêu, sò huyết, ốc len, cua biển, sam ghẹ, ba khía, họ hàng nhà
tôm, còng biển... Ở vùng nước ngọt, trong đất liền có các loại ốc: ốc ma loại ốc
rừng, ốc hương, ốc gạo, ốc bưu, ốc lác, ốc đắng, ốc đá và hến, vẹm, móng tay...
Con lưỡi búa cùng loại có nhiều ở cồn Tân Phong, có thịt dai, ít người ăn. Con
còng gió, cua đồng và tôm càng xanh, tép đồng, tép lóng, tép đất... Loài đỉa hầu
như đã tuyệt chủng.
Loài lưỡng cư có các loại cóc, nhái, nhái bầu, ếch, ễnh ương, bù tọt, hót cổ.
Ếch bầu cũng có nhiều ở các giồng cát, dân địa phương gọi là con uềnh oang.
Loài bò sát, còn tồn tại các loại rắn nước, rắn hổ mang, rắn hổ ngựa, rắn lục,
rắn ri cá, rắn ri voi, rắn ri dông, rắn ri cóc, rắn bông súng, rắn hổ hành, rắn trung,
rắn chàm quạp...và một số loài rắn biển khác. Rùa có nhiều nhưng hiện nay còn sót
lại rất ít, gồm các loại rùa vàng, rùa nắp, con cua đinh... Loài bò sát khác còn có kỳ
nhông, tắc kè, rắn mối, thằn lằn...Các loài rắn này được trại rắn Đồng Tâm bảo tồn
rất nhiều.
Ngoài ra còn có các loại gia súc, gia cầm được nhiều hộ gia đình chăn nuôi
ở tất cả các địa phương trong các huyện.
Qua các hệ động vật rất là phong phú về loài đa dạng về chủng loại, ngành
du lịch tận dụng các loài này để làm các món ăn do chính dân địa phương chế biến
để quảng bá về ẩm thực của vùng mình. Tạo ra nhiều món ăn lạ, ngon để thu hút
khách du lịch từ mọi miền đất nước, kể cả khách quốc tế. Chính đặc điểm về hệ
thực vật và động vật phong phú trên, mà tỉnh Tiền Giang chưa khai thác hết phục
vụ các món ăn mới lạ cho du khách. Trong tương lai ngành du lịch sẽ khai thác các
đặc điểm này để phát huy thế mạnh tiềm năng, cụ thể là các vùng sinh thái của tỉnh
hầu hết đã quy hoạch chi tiết để từng bước khai thác tốt các loại tài nguyên này.
2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
2.2.2.1. Các di tích lịch sử - văn hóa
Tiền Giang là tỉnh có nhiều di tích lịch sử - văn hóa, có nhiều kiến trúc tồn
tại hàng trăm năm, gắn liền với các chiến công chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ. Nhiều khu di tích được công nhận mang tầm cỡ quốc gia, điều đó cho thấy tài
nguyên du lịch nhân văn của tỉnh khá lớn.
Chiến thắng Rạch Rầm – Xoài Mút: Rạch Gầm - Xoài Mút là nơi đầu tiên
trên địa bàn phía Nam của Tổ quốc đã diễn ra một trận thủy chiến chiến lược đánh
tan 300 chiến thuyền, 5 vạn quân Xiêm xâm lược và tập đoàn phong kiến bán nước
Nguyễn Ánh vào đêm 19 rạng sáng 20 tháng 1 năm 1785. Có thể nói, chiến thắng
Rạch Gầm - Xoài Mút là một chiến công chống ngoại xâm lừng lẫy của nhân dân
Đàng Trong, lớn nhất trong 5 thế kỷ kể từ chiến thắng Bạch Đằng ở thế kỷ thứ 13.
Với chiến thắng này, nhân dân miền Nam đã nêu cao truyền thống anh hùng của
dân tộc và xứng đáng là bức thành kiên cố phía Nam của Tổ quốc. Khu di tích
Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút tọa lạc tại ấp Đông (Kim Sơn, Châu Thành, Tiền
Giang), nằm cạnh bờ sông Tiền, ngay mặt tiền tỉnh lộ 864, cách Mỹ Tho khoảng 12
km về phía Tây. Di tích đã được đưa vào sử dụng vào ngày 20 tháng 1 năm 2005
nhân kỷ niệm 220 năm chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, với diện tích 1,5 ha gồm
3 nhà trưng bày.
Di tích Lũy Pháo Đài: Bên Cửa Tiểu thuộc xã Phú Tân, huyện Tân Phú
Đông, năm Minh Mạng thứ 15 (1834) vua cho xây dựng đồn Từ Linh nhằm bảo vệ
cửa biển và thu thuế. năm 1861 Trương Định cho quân đóng tại đồn này để chặn
đánh tàu Pháp, đồn được gọi là chiến lũy Pháo Đài. Đây là thành lũy có hình lục
giác, thành bằng đất, mỗi cạnh dài 22m, cao 1,8m, có 2 cửa, giếng nước ngọt, trại
lính, kho lương thực và kho đạn. Bên ngoài thành có hào lũy và một khẩu thần công
loại lớn.
Mộ anh hùng dân tộc Trương Định: Là người con của đất Quảng Ngãi,
Trương Định sinh năm 1820 là người đi đầu trong khai hoang lập ấp tại vùng Gò
Công, được triều đình bổ nhiệm chức Quản Cơ. Trong những năm kháng chiến
chống Pháp, ông là người đầu tiên của Việt Nam dấy binh khởi nghĩa làm quân giặc
bao phen khiếp sợ. Mộ ông được xây dựng tại Phường 1- Thị xã Gò Công, mộ được
xây bằng đá xanh, diện tích khoảng 67m2. Mặt bia có khắc chữ "Đại Nam – Phấn
Dũng Đại Tướng Quân, Truy tặng Ngũ Quân, Quận Công, Trương Công Định Chi
mộ". Đến đây du khách còn có thể tìm hiểu kiến trúc mộ táng tiêu biểu vùng Nam
Bộ.
Đền Thủ Khoa Huân: Nguyễn Hữu Huân (1830 – 1875) sinh tại thôn Tịnh
Giang, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo,
tỉnh Tiền Giang), đỗ thủ khoa kỳ thi Hương tại Gia Định nên được gọi là Thủ Khoa
Huân, được triều đình bổ nhiệm làm chức Giáo phụ thủ kiến An. Thủ Khoa Huân ba
lần lần đứng lên dấy binh khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược. cả ba lần đều
bị địch bắt, một lần bị kết án khổ sai và đày đi vùng Trung Mỹ, cuối cùng chúng
đưa ông về quê nhà xử trảm.
Chiến thắng Cổ Cò: Trận Cổ Cò diễn ra ngày 22 tháng 01 năm 1947 (nhằm
ngày mùng 1 Tết Đinh Hợi) là trận phục kích của Chi đội 17 Quốc vệ đội Mỹ Tho
và chi đội 18 đại đội trường quân chính khu 8, cùng du kích huyện Cái Bè đánh tiểu
đoàn Leon co giới Pháp ở khu vực Cổ Cò, diệt và làm bị thương hơn 170 tên, là trận
đánh lớn đầu tiên trên chiến trường khu 8, góp phần chặn đứng âm mưu bình định
nông thôn Nam Bộ của địch. Di tích chiến thắng Cổ Cò thuộc xã An Thới Đông,
huyện Cái Bè.
Chiến thắng Giồng Dứa: ngày 25 tháng 4 năm 1947, dưới sự chỉ huy của
đồng chí Trần Văn Trà, Khu Bộ trưởng khu 8, Chi đội 17 bộ đội chủ lực của quân
khu và Đại đội khóa sinh trường Quân chính khu 8, phối hợp cùng quân dân Mỹ
Tho tiêu diệt đoàn xe Công voa và đoàn xe chính phủ bù nhìn Nam Kỳ tự trị. Ở trận
này ta tiêu diệt 80 tên, có tên các tên chỉ huy tình báo Pháp, 1 tên đốc phủ và 1 tên
bộ trưởng ngụy quyền, làm chấn động nước Pháp thời bấy giờ. Di tích chiến thắng
Giồng Dứa thuộc xã Long Định, huyện Châu Thành.
Bia căm thù bến đò Phú Mỹ: bia căm thù Bến đò Phú Mỹ thuộc ấp Phú Hữu,
xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước. Trong những năm 1947 – 1949, thực dân Pháp đã bắt
hàng chục cán bộ chiến sĩ và nhân dân yêu nước địa phương chặt đầu, xả thịt, buộc
những người dân vô tội qua lại trên sông phải mua thịt đồng đội và nấu ăn, nếu ai
không mua chúng bắt và đem đi chặt đầu. Tại đây, một bia căm thù được dựng lên
để tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược.
Chiến thắng Ấp Bắc: chiến thắng Ấp Bắc ngày 02 tháng 1 năm 1963 tại xã
Tân Phú, huyện Cai Lậy, là móc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống ngoại
xâm của nhân dân Tiền Giang và của dân tộc Việt Nam. Với 200 tay súng, quân dân
Ấp Bắc đã đánh bại hơn 2000 quân địch có máy bay, xe tăng, tàu chiến và cố vấn
Mỹ chỉ huy. Ta đã bẻ gãy hai chiến thuật mà Mỹ áp dụng trong chiến lược "Chiến
tranh đặc biệt" là "trực thăng vận" và "thiết xa vận", báo hiệu sự sụp đổ của chế độ
độc tài Nghô Đình Diệm.
Tượng đài kỷ niệm chiến thắng Ba Rài: chiến thắng Ba Rài trên đoạn sông
Ba Rài thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cai Lậy vào ngày 15 tháng 9 năm 1967. Với trận
này quân và dân ta đã bẻ gãy chiến thuật "Hạm đội nhỏ trên sông" – một chiến thuật
cơ động, luồn sâu vào hậu cứ của ta trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế
quốc Mỹ. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ 16 tàu giặc bị đánh chìm, hơn 200 tên mỹ bị
tiêu diệt trên một đoạn sông ngắn Ba Rài. Ngày nay, trên khúc sông từng diễn ra
trận đánh, một tượng đài tưởng niệm chiến thắng cao 15m, chất liệu bê tông cốt
thép được dựng lên trong một khuôn viên có nhiều cây cảnh để ghi lại trận thắng
Mỹ đầu tiên của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long từ khi Mỹ đến đồng bằng
vào năm 1967.
Di chỉ khảo cổ Gò Thành: thuộc xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, cách
thành phố Mỹ Tho khoảng 10km về hướng Đông Bắc. Khu di tích có niên đại từ thế
kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VIII sau Công Nguyên thuộc nền văn hóa Óc Eo. Các nhà
khảo cổ học đã phát hiện 3 loại di chỉ: kiến trúc, mộ táng và cư trú. Tại di tích đã
tìm thấy các pho tượng quý như: Visnu, Nagasa, Nam Thần và nhiều hiện vật khác
bằng vàng, đồng, gốm,...Năm 1994 Bộ văn hóa – Thông tin đã công nhận di tích
khảo cổ Gò Thành là di tích cấp Quốc gia.
Lăng Hoàng Gia: được xây dựng tại Gò Sơn Quy, thị xã Gò Công từ đầu thế
kỷ XIX. Khu Lăng Hoàng Gia gồm mộ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng – ông
ngoại vua Tự Đức, người nổi tiếng lỗi lạc, hiền đức; tấm bia đá của vua Tự Đức
viếng ông ngoại được chạm khắc dựng ngay cạnh mộ cùng 13 ngôi mộ cổ của dòng
họ Phạm Đăng. Đây là khu lăng mộ có tính thánh địa, phản ánh văn hóa mộ táng và
nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của thời Nguyễn.
Lăng Tứ Kiệt: Nằm ở trung tâm thị trấn Cai Lậy, với cổng nhìn ra đường
304, du khách đến tham quan chắc hẳn sẽ hài lòng với khung cảnh và càng thích thú
hơn khi được nghe về lai lịch của lăng. Tứ Kiệt hay Bốn ông là cách gọi tôn kính
của nhân dân đối với 04 vị anh hùng lãnh đạo nhân dân chống Pháp từ năm 1868 -
1870. Đó là các ông: Trần Công Thận, Nguyễn Thanh Long, Ngô Tấn Đước và
Trương Văn Rộng. Sau khi giặc Pháp hạ thành Mỹ Tho và chiếm toàn tỉnh Định
Tường (1861), Bốn ông tham gia cuộc khởi nghĩa do Thiên Hộ Dương khởi xướng
và lãnh đạo, góp phần cùng nghĩa quân tạo nên những chiến thắng oai hùng. Căn cứ
Đồng Tháp Mười bị vỡ, Bốn ông liền về Cai Lậy chiêu mộ nghĩa quân tiếp tục phất
cao cờ khởi nghĩa. Trong hàng loạt những chiến công của nghĩa quân Tứ Kiệt, có 02
chiến công được xem là chói lọi nhất. Đó là cuộc tấn công vào thành Mỹ Tho và
thiêu hủy đồn Cai Lậy. Sau hai năm hoạt động gây cho giặc nhiều thiệt hại, cuộc
khởi nghĩa của Tứ Kiệt đành chịu sự thất bại trước sự bao vây và đàn áp tổng lực
của quân đội viễn chinh Pháp. Bốn ông cùng 150 nghĩa quân bị bắt. Bọn chúng đem
vinh hoa phú quí ra dụ dỗ các ông trong nhiều ngày không thành. Ngày 14/02/1871
(nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Canh Ngọ), giặc đưa Bốn ông ra pháp trường trảm
huyết, bêu đầu ở chợ Cai Lậy nhằm uy hiếp tinh thần của dân chúng, sau đó dùi dập
ở bến sông cạnh chợ. Thân nhân gia đình chỉ mang thân mình các ông về quê nhà,
gắn chiếc đầu giả làm bằng đất sét vào chôn cất.
Quần thể mộ đá Hòa Bình: được xây dựng từ đầu thế kỷ 20. Nằm ở cánh
đồng lúa ấp Hòa Bình, xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, quần thể mộ đá Hòa
Bình được xem là công trình chạm khắc trên đá sắc sảo ở nước ta. Quần thể gồm 10
ngôi mộ với nhiều kiểu dáng khác nhau, trong đó có một ngôi mộ được chạm khắc
bằng 80 bức phù điêu, nhiều tượng về các loại hoa quả và động vật phản ánh một
cách sống động những sinh hoạt, tập tục thờ cúng dân gian địa phương.
Tượng đài Chợ Giữa – Vĩnh Kim: thuộc huyện Châu Thành ngày 5 tháng 12
năm 1940 thực dân Pháp dùng máy bay ném bom lúc chợ đông người, làm chết và
bị thương hơn 200 người dân vô tội. Nơi chúng gây tội ác một tượng đài bằng đồng
và bức tranh gốm dài 24m mêu tả cuộc thảm sát dã man của thực dân Pháp.
Chùa cổ Sắc Tứ Linh Thứu: Xây dựng từ thế kỷ thứ XVIII và được coi là
ngôi chùa cổ ở Tiền Giang, ngôi chùa được tọa lạc tại chợ Xoài Hột, huyện Châu
Thành. Trong chùa còn lưu giữ 78 cây cột bằng gỗ căm xe và chiếc Đại Hồng
Chung nặng trên 100kg. Khoảng năm 1783, chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây
Sơn truy bắt đã chạy vào chùa tá túc, sau khi lên ngôi vua với hiệu đế là Gia Long,
nhà vua ban cho chùa danh hiệu Long Nguyên Tự (tức chùa Đất Rồng), được nhân
dân coi là chùa vua. Chùa Sắc Tứ Linh Thứu còn là ngôi chùa duy nhất thờ 49 ngọn
đèn hóa thân của Phật Dược Sư.
Chùa Vĩnh Tràng: tọa lạc tại xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, chùa Vĩnh
Tràng được xem là ngôi chàu Việt lớn và đẹp nhất Nam Bộ. Được dựng từ thế kỷ
XIX, chùa có phong cách kết hợp Á – Âu. Nét độc đáo của chùa là nghệ thuật ghép
các mảnh sành sứ tạo nên những bức tranh nghệ thuật hài hòa, minh họa sự tích nhà
Phật tại hai cổng Tam Quan. Trong chùa có bộ phù điêu Bát Tiên cưỡi thú, bộ
tượng Tam Tôn cổ bằng đồng to bằng người thật. Đặc biệt hơn cả là bộ Thập Bát La
Hán được chạm khắc bằng gỗ. Chùa Vĩnh Tràng được Bộ Văn hóa – Thông tin
công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1984.
Chùa Bửu Lâm: được xây dựng từ năm 1803 theo kiểu "nội tam ngoại quốc".
bước vào Chánh diện, du khách sẽ thấy vẻ tráng lệ hiện ra vơi 3 long trụ chạm trổ
công phu, 5 bộ bao lam tuyệt phẩm, những tấm hoành phi, câu đối sơn son thếp
vàng rực rỡ, 5 tượng Phật bằng đồng đúc từ thế kỉ XVIII, đặc biệt là bức chạm hình
Cửu long tranh châu và bức chạm hình Mẫu đơn – chim trĩ mang dấu ấn của những
nghệ nhân đầu thế kỷ XIX. Chùa tọa lạc tại phường 3 – thành phố Mỹ Tho.
Đình Long Trung: thuộc xã Long Trung, huyện Cai Lậy, đình được xây từ
năm 1897. Ngôi đình là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Hoa và kiến trúc Nam Bộ,
theo kiểu nhà ghép gồm nhà khách, đình chánh và võ ca. Ngôi đình có 6 sắc thần,
bộ cột tại chánh điện bằng gỗ quý có gắn những bao lam, câu đối được chạm rồng
mây cổ kính và sinh động, đặc biệt đình vẫn cond lưu giữ tấm hoành quý "Mỹ Long
Trung Đình". Năm 1999 Đình Long Trung được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận
là Di tích Nghệ thuật cấp Quốc gia.
Đình Long Hưng: nói đến cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940 tại
Mỹ Tho người nghĩ ngay đến đinhg Long Hưng tại xã Long Hưng, huyện Châu
Thành. Đây là trụ sở chỉ huy, trung tâm của cuộc khởi nghĩa, nơi lá cờ đỏ sao vàng
đầu tiên của nước ta tung bay trong đêm khởi nghĩa. Đình được thành lập từ thế kỷ
XIX và bị cháy nhiều lần trong chiến tranh, vốn được thờ thần Hoàng và Tả quân
Lê Văn Duyệt – một công thần của thời Nguyễn. Ngày nay, đình được dựng lại tại
khu vực đình cũ, trong khuôn viên rộng rãi, bên cạnh nhà thờ bà Nguyễn Thị Thập,
người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nhà trưng bày về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tại
Mỹ Tho.
Đình Trung: được xây dựng năm 1913 mang dáng dấp của nghệ thuật kiến
trúc pha lẫn cổ kim, là ngôi đình lớn và đẹp của Tiền Giang. Đây là công trình kiến
trúc dân gian phản ánh quá trình hình thành, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đình thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh hiện vẫn còn lưu giữ hai sắc thần của vua phong.
Đình tọa lạc tại trung tâm thị xã Gò Công, cùng cụm di tích ngôi nhà Đốc Phủ Hải,
tượng đài và lăng mộ anh hùng dân tộc Trương Định và phố cổ thành khu di tích
lớn ở Gò Công. Hằng năm người dân tổ chức lễ hội Kỳ Yên vào các ngày từ 14 đến
16 tháng 2 âm lịch với phần lễ hội chính như: Lễ thỉnh sắc, Tết Túc Yết, lễ xây chầu
Đại bội, lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền, Tiên sư,...
Đình Điều Hòa: nằm giữa lòng thành phố Mỹ Tho, trên đường Trịnh Hoài
Đức, phường 2, đình được xây dựng năm 1913. Với kiến trúc pha lẫn cổ kính và
hiện đại, đình có bố cục hình chữ thập, khác với một ngôi đình truyền thống ở Nam
Bộ. Trong đình có nhiều cổ vật, các bức tranh, các bức chạm khắc, bao lam, đặc biệt
có câu đối của Thượng thư Cao Xuân Dục và bức hoành chạm trổ tứ linh.
Đình Đồng Thạnh: tọa lạc tại xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, đình được
xây dựng vào thế kỷ XIX. Trong đình có nhiều bức tranh đắp nổi mô tả cảnh sinh
hoạt của địa phương vào thế kỷ XIX, nhiều tượng gốm. Bên bờ thân của nóc thượng
lương đắp nổi các tượng La Hán mang yếu tố Phạt giáo. ở võ ca trang trí tứ linh, tứ
quý, bát tiên, cá hóa long, hoa quả trong vùng là nét độc đáo, hiếm thấy so với các
đình trong vùng.
Nhà cổ Cái Bè: ngôi nhà tồn tại khoảng 150 năm và đã qua nhiều lần sửa
chữa. Nhà có kết cấu kèo cột kiểu chồng rường, bằng loại gỗ căm xe. Các hoa văn
chạm khắc, trang trí trên các bộ kèo, xuyên, trính và trên các vách cửa, các bao lam
bên trong rất đặc sắc theo phong cách Nam Bộ. Trải qua nhiều thế kỷ và chiến
tranh, nhưng điều là lạ hầu hết vật liệu trang trí như các bộ bao lam, hoành phi, liễn
đối đến nay vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn. Độc đáo nhất là bộ bao lam được
chạm lọng tùng, cúc, trúc, mai được cách điệu hài hòa, các hoa tiết mềm mại, uyển
chuyển thể hiện trình độ mỹ thuật rất cao của người xưa. Ngoài ra, còn có các bộ
liễn đối khảm xà cừ, các bộ ghế được chạm trổ rất công phu và nhiều vật dụng có
giá trị mỹ thuật khác. Chưa kể các vật dụng bằng sứ được sử dụng trong nhà như
bình, dĩa, tách, gạt tàn đều thuộc loại quý hiếm.
Nhà Đốc Phủ Hải: tọa lạc tại trung tâm thị xã Gò Công, ngôi nhà do bà Trần
Thị Sanh con của Bá hộ Trần Văn Đồ dựng năm 1890 theo kiểu chữ Đinh. Ngôi nhà
gồm ba gian hai chái với sự bài trí cầu kỳ nhưng khoáng đạt. Du khách đến tham
quan tận mắt chứng kiến những cổ vật, những tác phẩm nghệ thuật chạm khắc. Tới
đây, du khách có thể cảm nhận sự vương giả của một gia đình Đốc phủ.
Bảo tàng Tiền Giang: được thành lập từ năm 1980, tọa lạc tại trung tâm
thành phố Mỹ Tho, là nơi nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày giới thiệu giá trị của di
sản văn hóa địa phương và dân tộc. Với khuôn viên thoáng mát, bên cạnh bờ sông
Bảo Định, Bảo tàng có nhiều khu trưng bày về các nền văn hóa cổ, các cuộc kháng
chiến, văn minh miệt vườn và văn hóa phi vật thể. Đến với Bảo tàng Tiền Giang du
khách sẽ có cái nhìn khái quát về quá trình hình thành và phát triển của vùng đất
Tiền Giang, về tính cách và sinh hoạt của người Tiền Giang. Đây là điểm du lịch lý
tưởng cho mục đích tham quan, nghiên cứu và học tập.
2.2.2.2. Lễ hội
Lễ hội chiến thắng Ấp Bắc: để ghi dấu chiến thắng lẫy lừng của quân dân Ấp
Bắc bẻ gãy các chiến thuật tân kỳ "trực thăng vận" và "thiết xa vận" của Đế quốc
Mỹ trong chiến lược "Chiến tranh đặc biệt". Hằng năm vào ngày 02 tháng 1 Dương
lịch, chính quyền và nhân dân Tiền Giang tổ chức lễ hội rất long trọng. Các năm
chẵn, lễ hội diễn ra nhiều ngày với các hoạt động diễu binh, diễu hành, trưng bày,
cắm trại, về nguồn, các cuộc thi thể thao, ẩm thực, văn nghệ,... rất nào nhiệt. Đông
đảo nhân dân trong và ngoài tỉnh tựu về để tham gia lễ hội.
Lễ hội Quan Thánh Đế Quân: là lễ hội của người Hoa được tổ chức trang
trọng trong các ngày từ mùng 10 đến 13 tháng Giêng hàng năm tại thị xã Gò Công.
Đây là dịp người Hoa từ thành phố Hồ Chí Minh và một số người Hoa trong tỉnh
tập trung về đây thắp hương cúng viếng, tỏ lòng thành kính đối với Quan Công. Lễ
hội Quan Thánh Đế Quân là một nét đẹp văn hóa của cộng đồng người Việt gốc
Hoa tại thị xã Gò Công.
Lễ hội Nghinh Ông: là lễ hội của ngư dân vùng biển Tiền Giang, được tổ
chức vào ngày mùng 9 tháng 3 Âm lịch tại xã Vàm Láng, huyện Gò Công Đông.
Người dân Vàm Láng tổ chức lễ hội rất long trọng tại Lăng Ông, với lễ rước Sắc
thần, cúng thủy lục, cúng vong linh thiên vị, hát bội...Ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng
chục tàu v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_01_24_5855014435_1275_1869327.pdf