Trong những năm qua, nhà nước cũng đã đầu tưxây dựng nhiều dựán đểvườn quốc
gia ChưYang Sin đạt các mục tiêu nhưbảo vệnguyên vẹn hệsinh thái rừng hiện có, bảo
tồn nguồn gen động - thực vật quý hiếm, tạo cơsởcho nghiên cứu khoa học về động - thực
vật, thổnhưỡng, khí hậu, thủy văn của rừng. Các dựán tạo công ăn việc làm cho người lao
động, nhất là đưa đồng bào các dân tộc thiểu sốbản địa vào trồng rừng theo hình thức nông
lâm kết hợp đang phát huy hiệu quả. Mặt khác, trong vài năm trởlại đây, vườn quốc gia
ChưYang Sin cũng đã khai thác du lịch sinh thái, nghỉdưỡng, nghiên cứu khoa học, giáo
dục môi trường, thu hút ngày càng đông khách du lịch trong và ngoài nước.
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2543 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Với số lượng voi tham gia đua có khi lên đến vài chục con nên voi phải thi đấu qua
nhiều vòng để chọn ra một chú voi chạy nhanh nhất. Và voi chiến thắng cũng được trao
“vòng nguyệt quế” tết từ hoa lá trong rừng, phần thưởng cho tất cả các voi dự thi là những
khúc mía hay nải chuối mà nài voi và cả khán giả cũng đã chuẩn bị sẵn, còn phần thưởng
của ban tổ chức cho nài voi là các ché rượu cần ngon nhất. Giữa nắng gió của trời Tây
Nguyên vào tháng 3, không gì sôi động và hào hứng bằng việc tận mắt chứng kiến và thoả
thích reo hò cổ vũ cho voi chạy đua. Nghỉ giải lao trong chốc lát, voi lại vào thi ném xa, kéo
co, đá bóng. Màn thi nào voi cũng cố gắng thể hiện sự nhanh nhẹn, khéo léo của mình, mặc
dù thân hình không nhỏ nhắn chút nào. Ngoạn mục nhất có lẽ là màn thi vượt sông Sêrêpôk.
Khúc sông mà đàn voi bơi qua là đoạn cuối của Sêrêpôk trên đất Việt. Sau hiệu lệnh cả
đàn voi chạy lao xuống nước, nước bắn tung toé một góc sông. Cảnh tượng này nhìn từ trên
cao rất đẹp và hùng vĩ. Ra đến giữa sông, du khách và khán giả chỉ còn thấy nhấp nhô dáng
nài voi đang ngồi chồm hổm trên lưng voi. Lúc đó ta mới cảm nhận hết được tài thuần
dưỡng voi cũng như mối quan hệ mật thiết giữa voi và người dân Dak Lak.
Thời gian gần đây, được sự đầu tư của Tỉnh, hội đua voi được tổ chức qui mô hơn, đều
đặn, vừa nhằm mục đích tôn vinh tinh thần thượng võ của các dân tộc Tây Nguyên, bảo tồn
văn hoá bản địa và thu hút khách du lịch. Số lượng khách trong nước đến với hội voi đang
tăng đáng kể, nhờ các phương tiện thông tin đại chúng quảng bá về hội voi nhiều hơn trong
thời gian gần đây.
Cồng chiêng là nét thu hút du lịch khác của Dak Lak. Danh tiếng văn hoá cồng chiêng
Tây Nguyên đã vượt ra khỏi biên giới nước ta, được quốc tế biết đến và tôn vinh. Ngày
25/11/2005, UNESCO đã chính thức công nhận “không gian văn hoá cồng chiêng Tây
Nguyên” là kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại.
Hiện nay Dak Lak còn khoảng 200 bộ cồng chiêng. Đối với du khách, những lần được
nghe các dân tộc Dak Lak biểu diễn cồng chiêng sẽ là cơ hội quý báu để thấu hiểu những
giá trị sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại. Mỗi chiếc chiêng giữ nhiệm vụ một nốt
nhạc trong dàn nhạc để biểu diễn các bản nhạc chiêng khác nhau. Âm nhạc của cồng chiêng
thể hiện trình độ điêu luyện của người chơi trong việc áp dụng những kĩ năng đánh chiêng
và chế tác. Ở huyện Krông Ana, có một nhóm nghệ nhân nữ chơi chiêng, đã từng đi biểu
diễn ở Ý, Pháp, nhưng thường thì người chơi chiêng là nam giới. Mỗi người cầm một
chiêng, tuỳ theo dân tộc mà họ gõ hoặc đấm vào cồng, chiêng. Trong mọi dịp lễ đều phải có
cồng chiêng, không có cồng chiêng thì nghi lễ trở nên vô nghĩa. Có khi những người đánh
cồng chiêng ngồi ở giữa nhà sàn nhưng thường họ đi vòng quanh đống lửa hay nơi cúng tế.
Âm của cồng chiêng rất vang nhưng lại ấm, có sự cuốn hút lạ kì.
Du khách đến với Dak Lak sẽ có cơ hội được thưởng thức cồng chiêng vì hoạt động
văn hoá dân tộc này đã được UBND tỉnh tổ chức quy mô, phổ biến nhằm gìn giữ và phát
huy văn hoá cồng chiêng trong cộng đồng. Những năm qua riêng thành TP. BMT đã tổ chức
27 cuộc liên hoan văn hoá cồng chiêng, diễn tấu nhạc cụ dân tộc, ngày hội văn hoá các dân
tộc, liên hoan văn nghệ quần chúng và các câu lạc bộ văn nghệ dân gian. Các dàn chiêng
tiêu biểu như buôn Kôsier, buôn Ako Dhong, buôn Kô Lam, buôn Ki và đặc biệt, đội chiêng
buôn Kôsier là một trong những đội có phong cách diễn tấu hay, đậm đà bản sắc dân tộc nên
được cử đi biểu diễn ở nhiều nơi trong và ngoài nước. Các dân tộc ở Dak Lak có rất nhiều lễ
hội, mà không lễ hội nào thiếu tiếng cồng chiêng. Cồng chiêng còn thân thuộc với đồng bào
trong cả đời sống hàng ngày như đón khách quí, nghe kể khan (sử thi), do vậy, không đâu
có thể dễ tìm đến cồng chiêng như Dak Lak. Hơn 70 lớp dạy đánh cồng chiêng cho con em
đồng bào dân tộc đã được tổ chức. Đặt chân lên Dak Lak là quí khách được bước vào xứ sở
của cồng chiêng, được sống trong không gian của di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại.
Hiện nay, hầu hết các buôn làng đều có nhà văn hoá cộng đồng, nơi đây diễn ra các sinh
hoạt văn hoá rất bổ ích, cũng là nơi tập luyện và biểu diễn chiêng cho du khách muốn
thưởng thức. Đây là kết quả của sự đầu tư của UBND tỉnh cũng như ngành văn hoá - thông
tin và du lịch trong việc bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại.
Trong năm nay, UBND tỉnh Dak Lak đã quyết định tổ chức festival văn hoá cồng
chiêng Tây Nguyên 2007 vào tháng 10 tại trung tâm TP. BMT và huyện Buôn Đôn. Chương
trình gồm các nội dung như biểu diễn cồng chiêng Tây Nguyên, chế tác các loại nhạc cụ của
đồng bào dân tộc, lễ hội đua voi, rượu cần, điêu khắc nhà mồ, kể khan. Festival còn tổ chức
các hội thảo về không gian văn hoá cồng chiêng, bảo tồn và phát triển đàn voi nhà Dak Lak.
Dự kiến sẽ có nhiều đoàn nghệ thuật quốc tế và nhiều đội cồng chiêng nước ngoài như Lào,
Campuchia, Ma-lai-xi-a tham gia biểu diễn.
Trong các dịp vui hay lễ tế, người Kinh thường mổ gà hoặc lợn, còn đối với dân tộc
thiểu số Tây Nguyên, từ bao đời nay họ thường làm lễ đâm trâu.
Lễ đâm trâu thường được tổ chức vào dịp mừng năm mới, mừng thu hoạch lúa hay
mừng nhà rông và thu hút đông đảo bà con trong buôn tham gia. Vì lễ do một hoặc vài gia
đình cùng đứng ra tổ chức nên đâm trâu là hoạt động quen thuộc đối với đồng bào và nó
được gìn giữ đến tận ngày nay.
Gia chủ chuẩn bị rượu, gạo nếp, lá chia thức ăn, các loại rau quả từ trước rồi báo cho
họ hàng, buôn làng biết về ngày giờ đâm trâu. Những người đến dự cũng mang rượu, gạo,
rau quả đến góp với gia đình làm lễ.
Buổi sáng, chiêng cồng nổi lên rộn rã cả buôn. Người đến dự đông đủ. Trâu được buộc
vào một cái trụ, thường là cây pơlang. Sau bài nhạc mở đầu lễ hội, già làng popin ra cầm
một nắm gạo và nước đến gần con trâu, vãi vào mình trâu và đọc lời khấn Giàng phù hộ cho
gia đình làm ăn phát đạt, mạnh khoẻ, gia đình xin tế Giàng một con trâu, mong được phù hộ
cho nương rẫy được mùa.
Trong khi già làng đọc lời tế, tất cả đều im phăng phắc. Già làng tế xong, cồng chiêng
lại nổi lên sôi động, một thanh niên cầm dao khua như múa chạy quanh và chém vào sau
khuỷu chân trái sau của trâu, trâu lồng lên, chàng trai lại chém vào khuỷu chân phải sau của
trâu. Trâu ngã xuống, chàng trai cầm cây giáo dài múa theo nhịp chiêng rồi đâm đúng một
mũi giáo trúng vào tim trâu. Mọi người hò reo ầm ĩ, lao ra lôi trâu đi mổ. Một người cầm bát
đồng ra hứng máu trâu, hoà cùng với rượu. Trâu mổ xong, thịt được bày trên lá, chuẩn bị
hành lễ. Nếu đó là lễ mừng vụ lúa hoặc nhà mới thì phần lễ sẽ dành cho chủ nhà. Còn nếu
đó là lễ mừng năm mới thì mọi người cùng uống rượu hoà máu trâu, ăn thịt và ca hát.
Đã trọn mùa rét
Đã hết mùa thu
Theo tục lệ xưa
Ăn mừng năm mới
Uống tháng, ăn năm
Đâm trâu mổ lợn
Bà con buôn, họ
Ai nấy đều lo
Mừng gùi sắp sẵn
Anh em chim Tơ – Lang
Thần linh buôn rẫy
Nội ngoại gái trai
Dân làng trong ngoài
Rủ nhau kéo tới.
Ai có cháu con
Dạy dỗ cho tròn
Giữ gìn tục lệ
Kẻ nào chân đi không nhanh
Gót bén chẳng nhậy
Chạy lễ trễ tràng
Buôn plây bắt vạ
( Dân ca Tây Nguyên. Nxb Văn Hoá, 1986)
Lễ đâm trâu thường được dân tộc Ê Đê và Giarai tiến hành, nhưng ngày nay, do chung
sống với nhiều dân tộc khác nên trong lễ đâm trâu, có thể có nhiều dân tộc tham dự. Đây là
dịp để mọi người cùng sinh hoạt, nhảy múa, thắt chặt thêm tình đoàn kết và khuyến khích bà
con làm ăn chăm chỉ, hẹn mùa sau lại làm lễ đâm trâu. Nét sinh hoạt đặc sắc này thu hút
nhiều du khách là người Kinh tham dự. Các nhà nghiên cứu về dân tộc học, văn hoá cũng
tìm đến lễ đâm trâu để hiểu thêm về văn hoá của người Thượng trên cao nguyên đất đỏ này.
Một trong những đặc trưng của người dân tộc Tây Nguyên là lễ bỏ mả. Tuỳ theo dân
tộc Ê Đê hay Giarai mà lễ có khác nhau đôi chút nhưng nhìn chung đều là lễ vĩnh biệt hồn
người qua đời lần cuối, không có giỗ và không bao giờ nhắc tới nữa:
Từ hôm hồn đi ở nơi khác
Nhà không đem cơm, không đem nước
Hồn không có gì phải buồn
Hàng năm, nhà không nhắc tới hồn nữa
… Đã tách riêng hai vùng khác nhau, đã chia đôi
( Dân ca Tây Nguyên. Nxb Văn Hoá, 1986)
Lễ bỏ mả được tiến hành sớm nhất là một năm sau khi có người chết, muộn nhất là bảy
năm. Thường thì lễ làm chung cho một số người. Điều kiện dư dả thì làm lễ 2 - 3 ngày,
không thì lễ trong 1 - 2 ngày.
Ngày thứ nhất, người ta làm lễ chuyển giao nhà mồ cho người đã chết. Trong nhà mồ
cũng có những vật dụng mà người dân tộc sử dụng hàng ngày và cả những đồ mà người
sống cho người chết hay làm cho người chết. Lễ bỏ mả là một dịp vui chơi của cả buôn
làng. Quanh khu nhà mồ, người lớn, trẻ con đốt lửa, đánh chiêng, nhảy múa vui chơi suốt
đêm. Tiếng cồng chiêng rộn rã và ánh lửa bập bùng không chỉ thu hút người dân trong buôn
mà cả thanh niên buôn khác cũng đến góp vui. Sang ngày thứ hai, trâu và bò của gia đình
làm lễ bỏ mả được giết thịt ngay tại khu nhà mồ, một phần được gùi về nhà có người chết để
làm lễ cúng, một phần cúng tại nhà mồ và phần còn lại dân làng chia nhau ăn. Cả đám đông
nhảy múa theo nhịp chiêng và đi vòng quanh nhà mồ. Do đó, lễ bỏ mà còn là cuộc trình diễn
các món ăn dân tộc, các điệu nhảy, nhịp chiêng truyền thống và các trò chơi dân gian hết
sức lôi cuốn của đồng bào. Đây là điểm thu hút khách du lịch đến tham dự và chung vui.
Tuy nhiên, ngày nay, lễ bỏ mả không còn được làm qui mô và dài ngày như trước đây.
Dưới ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá và cơ chế thị trường, lễ bỏ mả đang dần bị mai
một. Được chứng kiến lễ bỏ mả của người dân tộc bản địa Dak Lak không hề dễ dàng
nhưng một khi được sống trong không khí của lễ bỏ mả rồi thì bất cứ ai cũng nảy sinh nhiều
điều đáng suy ngẫm về tín ngưỡng, phong tục và văn hoá hết sức độc đáo của người dân tộc
nơi đây.
Du khách đi qua khu nhà mồ không khỏi ngạc nhiên vì kiến trúc và lối bài trí hoa văn,
tượng gỗ của nhà mồ. Nhiều kiến trúc sư và các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá đã tìm đến
nhà mồ của dân tộc ở Dak Lak để tìm hiểu.
2.1.2.3. Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học
Cùng với voi Bản Đôn, nhà sàn hay nhà dài ở Dak Lak là một trong những đặc trưng
được du khách biết đến nhiều nhất về xứ sở cao nguyên này.
Ngay trong lòng TP. BMT, du khách có thể dễ dàng ghé thăm các buôn làng với những
dãy nhà sàn thẳng tắp. Đường xá thuận tiện, đi lại dễ dàng và sự hiếu khách của đồng bào
khiến cho các buôn Ako Dhong, Ea Tam, Buôn Kosier, Buôn Ki ngày nào cũng có đoàn
khách đến thăm. Xa xa về các huyện, buôn làng dân tộc càng nhiều hơn, chứa đựng những
nét đẹp nguyên sơ của nhà sàn, lấp ló nơi chân núi hay lẳng lặng bên những con đường đất
đỏ Tây Nguyên.
Nhà sàn là nhà ở truyền thống của nhiều đồng bào dân tộc bản địa ở Dak Lak như Ê
Đê, M’nông. Nhà sàn còn được gọi là nhà dài, vì ngôi nhà được làm “dài như một tiếng
chuông ngân”, mỗi nhà dài từ 30 - 200m.
Nhà thường được làm bằng gỗ, tre, nứa, rất mộc mạc và quay theo hướng Bắc - Nam,
trong khi các buôn làng được bố trí theo hướng Đông - Tây. Nhà có hai mái, nhô lên rất cao
rồi thoải dần và mở rộng sang hai bên. Về tổng thể, nhà sàn được chia làm hai phần, phần
dưới là các trụ chống nhà, chỉ để vậy cho thoáng chứ không nuôi gia súc như nhà sàn phía
Bắc Việt Nam. Phần nhà sàn được đóng kín dùng để ở và sinh hoạt. Phần này lại có thể chia
làm hai phần chính: Phần Gah được trang trí cầu kì, là nơi đón khách và là khu vực diễn ra
các sinh hoạt gia đình và dòng họ như hội họp hay đánh cồng, dệt vải. Nơi đây lưu giữ các
nhạc cụ cồng chiêng, chiếc trống lớn và ghế Kpan, ghế chỉ dành cho chủ nhà ngồi. Phần Ôk
là phòng ngủ được bố trí giản đơn của vợ chồng chủ nhà và các thành viên trong gia đình.
Phía Đông được ngăn thành nhiều buồng, làm chỗ ngủ cho các cặp vợ chồng. Cứ mỗi cô gái
đi lấy chồng, nhà của cha mẹ cô lại được nới ra thêm để ngăn phòng cho vợ chồng cô, chính
vì thế mà nhà nào có nhiều con gái đi lấy chồng thì sẽ rất dài. Phía Tây là nơi bố trí bếp lửa,
mỗi cặp vợ chồng có bếp lửa đặt trước cửa phòng, và các vật dụng sinh hoạt trong gia đình.
Nhà dài tiêu biểu cho chế độ mẫu hệ của người dân tộc. Trên chiếc thang bước lên sàn
có chạm đôi bầu sữa và vành trăng khuyết, những biểu tượng sống động của người phụ nữ.
Nhà dài là nơi ở cho các con gái, cháu gái của chủ nhà ở. Còn đàn ông lấy vợ thì phải theo
vợ và về nhà vợ ở.
Nhà dài còn là biểu tượng cho sự gắn bó mật thiết giữa con người và thiên nhiên. Mọi
sinh hoạt hàng ngày đều được sắp xếp phù hợp, hài hoà với thiên nhiên: Buôn làng bao giờ
cũng ở nơi cao ráo và gần nguồn nước sạch, vật dụng trong nhà đều được làm từ những
nguyên liệu có sẵn ở vùng đất họ sinh sống, trên xà ngang của ngôi nhà có hình ảnh đàn voi
đang bước đi hay những con rùa, con thằn lằn mà họ vẫn thấy trên rừng; người dân tộc yêu
ngôi nhà, yêu cuộc sống, yêu mảnh đất Tây Nguyên.
Du khách thích đến thăm nhà sàn vì nó gần gũi với thiên nhiên, lại có những nét khác
biệt so với nhà ở nói chung thời hiện đại và vì những nét văn hoá chứa đựng trong mỗi nếp
nhà.
Một đặc trưng khác của Dak Lak là nhà mồ. Người Tây Nguyên quan niệm chết nghĩa
là bắt đầu cuộc sống mới ở một thế giới khác. Do đó, khi người chết đi là ra đi vĩnh viễn, để
sống một cuộc sống khác. Nhà mồ là nhà của người chết, được làm cho lễ bỏ mả, cuộc chia
tay cuối cùng của người sống và người chết. Để người chết thanh thản ra đi, hôm bỏ mả,
người sống chuyển giao cho người chết nhà mồ, các vật dụng của họ, của cải và cả những
bức tượng.
Dân tộc Ba Na và Ê Đê ở Dak Lak có tập quán làm nhà mồ, đặc biệt là người Ba Na.
Trên đường đến tham quan khu du lịch Buôn Đôn, du khách có thể thấy một số nhà mồ hoặc
vô tình bắt gặp nhà mồ trong một lần rong chơi trên cao nguyên lộng gió này.
Nhà mồ được làm bằng gỗ, mái tựa như mái nhà dài và được dựng ngay phía trên nơi
chôn cất người chết. Quanh nhà mồ có nhiều tượng. Khác với tượng của người Kinh được
chạm tinh xảo và để ở nơi thờ cúng trang trọng, tượng nhà mồ của người Ba Na được chạm
trổ thô sơ hơn và đặt trong khung cảnh thiên nhiên, hoà vào mưa nắng. Từ một thân gỗ tròn,
không lắp ghép, không thêm thắt chi tiết nào, người Ba Na chỉ dùng đục và chà gạc để tạo
nên tượng. Mặt phẳng hình bầu dục là mặt, hai hình cong nổi lên bên đầu là tai, mũi miệng
được khoét chìm vào mặt tượng. Các phần nổi trên cơ thể người sống như bụng, má, ngực
không được làm cho nổi lên mà bị vạt cho dẹt đi. Có người đã nhận định, những bức tượng
mồ này rất gần gũi với mĩ thuật nguyên thuỷ, nghệ thuật cổ đại của các bộ lạc trên thế giới.
Tượng được sơn màu đỏ ở cùi tay, đầu gối và màu đen ở tóc và mắt. Nội dung của
tượng cũng rất sinh động, từ cô gái chia cơm, người đánh trống đến cặp trai gái tự tình, bên
cạnh là người đàn bà mang thai, không chỉ đơn thuần là làm cho không khí nhà mồ bớt cô
quạnh mà nó còn gắn liền với niềm tin về sự chấm dứt của cái chết và bắt đầu của cuộc sống
mới. Những tượng người ở nhà mồ đó được xem như để phục vụ người chết mà người Ba
Na gọi là “tich” tức là người hầu. Người chết ra đi không hề cô độc, không có gì phải buồn
vì họ đã có đầy đủ hành trang cho cuộc sống mới.
Trong nắng bàng bạc cuối chiều, trời Tây Nguyên như rộng hơn, rừng xanh thẳm hơn
và gió rít từng hồi qua tán lá, đứng bên cạnh nhà mồ, hẳn du khách cảm nhận được nhiều
điều về nghệ thuật, thẩm mĩ, tình cảm và lịch sử của loài người.
Tìm hiểu nhà mồ, chúng ta có thể học thêm về nghệ thuật nguyên thuỷ của loài người,
về trình độ thẩm mĩ cũng như tư duy của dân tộc. Tượng nhà mồ cũng nói lên thái độ của
đồng bào về cuộc sống, quan niệm về sự sống và cái chết. Nó cũng thể hiện tình cảm sâu
đậm của người còn sống với người đã chết. Về mặt lịch sử, tượng nhà mồ phản ánh cuộc
sống đời thường của các dân tộc, là tư liệu vật thể chân thực, sinh động để nghiên cứu lịch
sử tộc người.
Có thể nói nhà mồ là di sản văn hoá, lịch sử không chỉ của dân tộc ở Dak Lak mà còn
là di sản của cả nhân loại, hứa hẹn nhiều điều bổ ích mà cho đến nay các nhà nghiên cứu
vẫn miệt mài tìm kiếm. Nhà mồ có thể phục vụ cho du lịch, tuy nhiên, hiện nay chưa có
nhiều tour du lịch có tham quan nhà mồ, một phần vì hiểu biết của chúng ta về nhà mồ chưa
nhiều, một phần do nhà mồ hiện đang bị mai một trước ảnh hưởng của lối sống hiện đại.
Thay vì làm nhà mồ, một số nhà đã tiến hành xây mộ như mộ của người Kinh.
Ở Dak Lak có nhiều làng nghề dệt thổ cẩm, chủ yếu của dân tộc Ê Đê và M’nông. Đây
là nghề truyền thống, có từ rất lâu đời và thiếu nữ dân tộc nào cũng được bà mẹ dạy cho
cách dệt vải để may váy áo cho mình, chăn gối cho gia đình và sau này là may cho chồng
con. Vì thế du khách đến Dak Lak có thể dễ dàng tìm cho mình một trong số các làng nghề
dệt thổ cẩm để dừng chân.
Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ, công nghiệp dệt may đã làm thoả
mãn phần lớn nhu cầu của con người về vải vóc, quần áo, nhưng được tận mắt chứng kiến
quá trình dệt vải bằng những phương pháp thủ công và mặc trên mình chiếc áo do chính bàn
tay thiếu nữ dân tộc dệt nên khiến du khách háo hức hơn nhiều. Đó chính là sức thu hút của
các làng dệt thổ cẩm ở Dak Lak.
Ngay tại thành phố Buôn Ma Thuột cũng có các làng nghề dệt thổ cẩm như Alê A,
Tơng Bông, xa hơn chút nữa là huyện Krông Pak và rải rác rất nhiều trong các buôn làng.
Nhiều công ty du lịch đã đưa làng nghề thổ cẩm vào trong tour của mình. Đây là điều kiện
tốt để du khách tiếp cận với làng nghề, để đồng bào được tham gia làm du lịch và bảo tồn
nghề truyền thống của mình. Dấu hiệu này bước đầu thể hiện sự bền vững trong hoạt động
du lịch.
Sợi bông là nguyên liệu chính để dệt vải. Bông được trồng ở nhiều nơi: nương rẫy,
vườn nhà, ven rừng. Đến mùa bông chín, người ta thu hoạch về nhà và bắt đầu nhặt bông,
cán bông, lăn con cúi, kéo sợi và nhuộm màu cho sợi từ những loại cây có sẵn ở vùng đất
này. Vải của người Ê Đê có bốn màu chủ đạo: đỏ chàm, vàng nghệ, chàm và xanh.
Dụng cụ dệt vải làm bằng gỗ, khi dệt, người thợ ngồi trên nền đất hai chân duỗi thẳng,
đạp lên một thanh gỗ nằm ngang để làm căng các sợi trên khung dệt. Những cánh rừng bạt
ngàn, dòng thác bạc hùng vĩ, con cá, lá cây cho đến ngôi nhà đều là nguồn cảm hứng cho
những hoa văn trên nền vải. Để tạo các hoa văn ấy, người dệt sắp xếp trật tự màu sắc các sợi
vải hợp thành thảm dọc ứng với kiểu trang trí mình muốn thể hiện, những sợi chỉ ngang
được bố trí nằm ở mặt ngoài, nổi lên trên trong quá trình dệt.
Sau khi dệt xong, những tấm vải ấy lại được may thành khăn, váy, áo, khố. Khố
thường dài từ 3 – 5 m, rộng khoảng 28 cm và chỉ dành cho đàn ông. Mặt khố có nhiều hoa
văn và hai đầu khố thường có tua. Áo cổ truyền cho đàn ông là áo chui đầu, dài tay. Áo có
thân sau dài che kín mông. Thân trước ngắn hơn, giữa ngực áo mở ra một đoạn khoảng 10
cm có hàng khuy đồng, hai mảng áo màu đỏ rực, rất đẹp và mạnh mẽ. Phụ nữ thường mặc
váy dài đến mắt cá chân, trên váy có rất nhiều hoa văn mà nhà dân tộc học Từ Chi nhận
định “Xu hướng tự nhiên của con người sống giữa núi rừng và bằng núi rừng là vừa cố điệp
vào vừa cố vươn mình lên trên bối cảnh hoang dã bằng lao động cải tạo thiên nhiên, bằng
các biểu hiện văn hoá trong đó có nghệ thuật tạo hình mà trước hết là nghệ thuật trang trí
cho đồ mặc ôm bọc thân hình. Phải chăng chính vì vậy mà phong tục của nhiều cộng đồng
trên các vùng cao nước ta, kể cả áo, khố, váy, khăn của người Thượng là một mặt phẳng tạo
hình thường chứa chất nhiều kiểu trang trí nhất, phô ra nhiều màu sắc nhất” [3].
Áo của phụ nữ là áo chui đầu, mở ở hai vai và cũng đơm cúc bằng đồng. Áo, váy đều
màu đen và có hoa văn ở dọc theo thân váy, vai, cổ tay và gấu áo. Để dệt và may được một
cái áo, váy hay khố, người dệt phải cặm cụi cả tháng trời với bao công sức và sự nhẫn nại và
đôi bàn tay khéo léo. Thành quả lao động ấy mang hơi thở của núi rừng Tây Nguyên và nét
văn hoá độc đáo của người dân tộc bản địa. Chính vì thế, các tour tham quan làng nghề dệt
thổ cẩm đang phát triển mạnh và áo, váy thổ cẩm là những hàng lưu niệm được nhiều du
khách chọn mua. Đây là cơ sở để đồng bào dân tộc tham gia hoạt động du lịch, hưởng lợi từ
du lịch và bảo tồn nghề truyền thống, công ty du lịch có thêm sản phẩm du lịch, thu hút
nhiều khách hàng và là cầu nối giữa dân tộc địa phương với du khách, du lịch. Khách tham
quan có cơ hội hiểu biết thêm về văn hoá, làng nghề của người dân tộc bản địa Dak Lak.
Để chỉ “làng”, các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo như Ê Đê, Giarai, gọi là
“buôn”, còn dân tộc thuộc dòng Môn - Khơme như M’nông, Xơ Đăng, Ba Na gọi là “bon”.
Trải qua quá trình chung sống lâu đời, hầu hết các “làng” của người dân tộc ở Dak Lak đều
được gọi là buôn. Trên cao nguyên này, phố trong buôn và buôn trong phố. Ngay cả tên
thành phố cũng bắt đầu bằng “buôn”.
Các buôn ở Dak Lak đều là những điểm đến của du lịch sinh thái - văn hoá, tự bản thân
buôn làng, tập quán sinh hoạt, sản xuất, tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc vốn đã là lạ
lẫm, đặc sắc đối với du khách.
Ở Dak Lak có rất nhiều buôn, trong số đó có các buôn “làm du lịch” như buôn
M’Liêng, buôn Tur, buôn Bur, buôn Kosier. Đường đến các buôn thuận tiện, có thể đi xe
máy, ôtô, xe buýt. Người dân tộc trong buôn cũng đã quen với hoạt động du lịch nên rất cởi
mở và thân thiện. Họ hiểu rằng những truyền thống văn hoá mà họ đang gìn giữ không chỉ
quý báu đối với chính họ mà còn đối với cả dân tộc Việt và cả nhân loại. Việc gìn giữ bản
sắc văn hoá ấy vừa làm phong phú thêm văn hoá Việt, thoả ý thích khám phá của du khách
từ những nơi xa và đồng thời mang lại cho họ nguồn thu nhập ổn định cùng với cơ hội tiếp
cận nhiều nét văn hoá khác nhau.
Có vị trí tại phường Tân Lợi, TP. BMT, buôn Ako Dhong - người địa phương quen gọi
là buôn Cô Thôn - hàng ngày có nhiều khách du lịch đến tham quan. Đây là nơi sinh sống
của 66 hộ dân Ê Đê và một số hộ M’nông.
Nằm ngay trong trung tâm thành phố, nhưng khi vừa đặt chân đến buôn, ai cũng có
cảm giác rất thanh bình, yên tĩnh với những con đường đất đỏ, cây cối xanh um và đặc biệt
là mấy chục nếp nhà sàn như đang xếp hàng thẳng tắp. Buôn không ồn ào với tiếng xe máy,
tiếng nhạc xập xình của đô thị. Buôn xào xạc tiếng gió và thỉnh thoảng nghe tiếng trẻ con
cười đùa, tiếng gà tíu tít. Khi có khách đến thăm hoạc vào dịp lễ, buôn rộn rã tiếng cồng
chiêng.
Bước lên mỗi bậc thang để vào nhà sàn, du khách sẽ cảm nhận được những giá trị văn
hoá mà người dân tộc bản địa trong thôn đang gìn giữ, phát huy. Du khách có thể trò chuyện
thân mật, ở lại dùng cơm, uống rượu cần và cùng chung điệu múa, tiếng chiêng với đồng
bào nơi đây.
Được sự dìu dắt của già làng Ama Rin và sự khuyến khích của UBND Tỉnh, buôn Ako
Dhong ngày càng phát triển và bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá của mình. Các điệu nhạc,
lời ca, điệu múa truyền thống và các lễ hội được tổ chức định kì, có quy củ và đúng với
phong tục tập quán. Đây là mô hình tiên tiến được các buôn khác trong tỉnh học tập và cũng
là một trong những cơ sở để phát triển du lịch bền vững cho tỉnh nhà.
Bên cạnh hồ Lak là buôn Jun. Buôn Jun của người M’nông mang vẻ đẹp nguyên sơ,
hiền hoà của buôn làng Tây Nguyên. Buôn nhìn ra hồ rộng lớn, mát rượi. Những dãy nhà
sàn theo kiến trúc cổ truyền nép mình dưới bóng cây xanh.
Ban ngày, đàn ông cưỡi voi vào rừng và lên rẫy, phụ nữ ở nhà dệt thổ cẩm, lo bếp núc.
Hình ảnh người dệt vải rất phổ biến ở trong buôn. Trẻ con nô đùa vô tư và thật sự hoà nhập
với thiên nhiên. Chúng hồn nhiên nằm chơi trên đất, phía dưới nhà sàn, ôm mấy chú heo
như thể những người bạn. Đôi mắt trong veo, hàng mi cong vút và cái miệng cười thật tươi
trông đẹp đến lạ. Khung cảnh thật yên bình, thơ mộng.
Nếp sống và sinh hoạt của đồng bào dân tộc buôn Jun mang nét đặc trưng đã được định
hình từ hàng trăm năm trước. Cũng với bếp lửa ngay trên nhà sàn, các món ăn dân dã mà
mới lạ được bày ra để đãi du khách, cây lá trong rừng, hạt lúa trên nương, cá dưới hồ Lak.
Chiều xuống, đàn ông cưỡi voi về buôn. Buôn Jun nhộn nhịp hẳn. Du khách có thể ở lại qua
đêm để buổi tối được cùng uống rượu cần, ăn cơm lam, thịt nướng, xem biểu diễn cồng
chiêng và nghe kể sử thi Tây Nguyên.
Một thú vị nữa khi thăm buôn Jun là khách có thể chèo thuyền độc mộc thăm hồ Lak,
thăm nhà nghỉ của Bảo Đại hoặc những du khách quen với tiện nghi có thể nghỉ tại Lak
Resort rất hiện đại mà gần gũi thiên nhiên, mới được khánh thành vào đầu năm 2007.
Những ai thích mạo hiểm có thể tham gia tour đi bộ xuyên rừng 2 – 3 ngày với các hướng
dẫn viên là người bản địa. Nét độc đáo của buôn Jun là cực kì nguyên sơ, còn giữ được các
tập quán sinh hoạt văn hoá, thuần dưỡng voi và đồng bào rất thật thà, thân thiện với du
khách.
Đường đến buôn Jun đã được rải nhựa hoàn toàn, phương tiện thông tin liên lạc của
huyện Lak khá hiện đại, đầy đủ. Cùng với khu du lịch hồ Lak, buôn Jun hứa hẹn thu hút
ngày càng nhiều du khách, đặc biệt là du khách nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVDLDLH005.pdf