MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. 6
1.1.Khái niệm, đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị trường 6
1.2.Vai trò DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam. 12
1.3. Hiệu quả của DNNN trong nền KTTT định hướng XHCN ở việt nam 15
1.4. Kinh nghiệm tổ chức quản lý DNNN ở một số nước. 16
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA DNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 24
2.1 Quá trình đổi mới tổ chức quản lý của DNNN ở VN 24
2.2 Thực trạng hoạt động hiện nay của DNNN 28
2.3. Đánh giá chung về hoạt động của DNNN ở Việt nam 41
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TỔ CHỨC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 44
3.1 Định hướng tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý DNNN ở Việt nam 44
3.2 Một số giải pháp cơ bản tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý DNNN phù hợp với nền KTTT định hướng XHCN ở Việt nam 47
3.3 Một số kiến nghị 56
KẾT LUẬN 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
68 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiếp tục sắp xếp, đổi mới quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nguyện của doanh nghiệp như hiện nay, đồng thời định giá doanh nghiệp theo các tiêu chí của thị trường. Ngoài ra chính phủ sẽ ban hành các tiêu chí để phân loại những doanh nghiệp nào Nhà nước cần và không cần nắm giữ. Dự kiến Nhà nước sẽ nắm cổ phần chi phối của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dầu khí, bảo hiểm xăng dầu, khai thác than và khoáng sản quan trọng.
Các doanh nghiệp sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng khác có ít nhất 70% doanh thu từ các hoạt động trong các lĩnh vực sau đây:
a) Giao thông, công chính đô thị :
b) Quản lý, khai thác, duy tu, bảo dưỡng hệ thống cơ sở hạ tầng: hệ thống đường sắt quốc gia, đường bộ, đường thuỷ, sân bay, điều hành bay, bảo đảm hàng hải, dẫn dắt tàu ra vào cảng biển; kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông đường bộ, đường thuỷ; kiểm tra, kiểm soát và phân phối tần số vô tuyến điện.
c) Khai thác bảo vệ các công trình thuỷ lợi;
d) Sản xuất giống gốc cây trồng, vật nuôi;
đ) Xuất bản và phát hành sách giáo khoa, sách báo chính trị. Sản xuất và phát hành phim thời sự, tài liệu, phim cho thiếu nhi. Sản xuất và cung ứng muối ăn, chiếu bóng phục vụ vùng cao, biên giới, hải đảo. Sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ khác theo chính sách xã hội của Nhà nước.
Nhà nước có kế hoạch giảm số lượng của các DNNN từ 5.700 như hiện nay, xuống còn 2000 vào năm 2005. Mặc dù vậy, các DNNN mới sẽ vẫn được thành lập khi yêu cầu thực tế về phát triển kinh tế – xã hội đòi hỏi và những khu vực kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng để tham gia.
Về lâu dài, để hệ thống các DNNN có vai trò đối với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, Nhà nước cần chấp thuận việc thiết lập một số nhóm kinh tế đa dạng hoạt động ở một số vùng, để thuận lợi cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trong thời gian tới, sẽ xem xét việc thiết lập các nhóm về dầu khí, công nghệ – thông tin, điện tử và xây dựng về các cơ sở vững chắc.
Về lâu dài, để hệ thống doanh nghiệp Nhà nước thực sự mạnh, giữ vai trò đầu tàu trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Nhà nước sẽ cho phép hình thành một số tập đoàn kinh tế lớn kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân. Tập đoàn kinh tế này được thành lập trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh, khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Trước mắt, nghiên cứu thành lập thí điểm một số tập đoàn về dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng. Bộ Xây dựng hiện nay đang dự thảo để quý 3 – 2003 trình Chính phủ kế hoạch thành lập Tập đoàn xi măng, để dự kiến ra mắt vào đầu năm 2004. Bộ Xây dựng sẽ kêu gọi các thành phần kinh tế huy động vốn đâu ftư cho tập đoàn, nhưng Nhà nước giữ cổ phần chủ yếu.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiện có, căn cứ vào vị trí quan trọng của từng lĩnh vực, từng ngành, từng doanh nghiệp, từng sản phẩm trong nền kinh tế mà quyết định loại hình doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp Nhà nước có cổ phần đặc biệt, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần ở mức thấp và doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần, Nhà nước không cần có cổ phần. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có 100% vốn của Nhà nước sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là doanh nghiệp nhà nước.
Chủ trương cổ phần hoá đã được thực hiện 10 năm nay song đến nay cả nước mới có 1.070 doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi sang hình thức này. Năm 2003, mục tiêu là phải sắp xếp lại 1.640 doanh nghiệp nhà nước, trong đó có cổ phần hoá 967 doanh nghiệp. Tuy nhiên, hết 6 tháng đầu năm 2003, số doanh nghiệp sắp xếp lại chỉ được 286, trong đó, cổ phần hoá được 163 doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiện có, căn cứ vào vị trí quan trọng của từng lĩnh vực, từng ngành, từng doanh nghiệp, từng sản phẩm trong nền kinh tế mà quyết định loại hình doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp Nhà nước có cổ phần đặc biệt, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần ở mức thấp và doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần, Nhà nước không cần có cổ phần. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có 100% vốn của Nhà nước sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước chỉ nắm giữ một số lĩnh vực chủ yếu, còn lại sẽ tiến hành cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước hoặc cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, với mục tiêu đến năm 2005 chỉ còn 3.000 doanh nghiệp quốc doanh (năm 2002 là 5.000 doanh nghiệp).
Để khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, Chính phủ sẽ tiếp tục chủ trương xây dựng một mặt bằng pháp lý, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp; các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động hoạt động theo tín hiệu của thị trường, Nhà nước chỉ điều hành ở tầm vĩ mô thể hiện ở hệ thống pháp luật, các chính sách thuế... Để phù hợp với các cam kết hội nhập mà Việt Nam đã tham gia, Chính phủ sẽ tiếp tục dỡ bỏ các hàng rào phi thuế, giảm bớt và tiến tới xóa bỏ bảo hộ (trong thời gian nhất định và phạm vi nhất định) nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế, doanh nghiệp và từng ngành hàng. Chính phủ Việt Nam coi đầu tư nước ngoài là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế. Việt Nam xác định cần khoảng 60-62 tỷ USD tổng vốn đầu tư xã hội; trong đó ĐTNN chiếm 1/3 bao gồm cả viện trợ phát triển chính thức và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính phủ cam kết đảm bảo môi trường chính trị xã hội ổn định, thực hiện minh bạch và nhất quán các chính sách để tạo lòng tin nơi các nhà đầu tư, tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý; từng bước mở cửa thị trường và tham gia vào thị trường vốn quốc tế.
2.2.2.Về cơ chế quản lý :
Điều 25 Luật doanh nghiệp nhà nước quy định:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước với những nội dung sau dây:
1- Ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với từng lợi doanh nghiệp nhà nước, chính sách khuyên khích, chế độ trợ cấp, trợ giá và chế độ ưu tiên đối với các sản phẩm và dịch vụ hoạt động công ích;
2- Quyết định các biện pháp bảo hộ và hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước quan trọng của nền kinh tế quốc dân;
3- Tổ chức xây dựng quy hoạch và chiến lược phát triển doanh nghiệp nhà nước trong tổng thể quy hoạch và chiến lược phát triển ngành, lãnh thổ;
4- Tổ chức xây dựng quy hoạch và đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ điều hành doanh nghiệp nhà nước;
5- Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách, chế độ nhà nước tại các doanh nghiệp.
Nghị định số 59/CP ngày 3 tháng 10 năm 1996 ban hành quy chế quản lý tài chính và đối với doanh nghiệp nhà nước quy định doanh nghiệp Nhà nước mới thành lập được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn Điều lệ ban đầu, nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, khi cần thiết, Nhà nước có thể xem xét đầu tư bổ sung vốn cho doanh nghiệp để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao bổ sung.
Khi có sự thay đổi vốn điều lệ, doanh nghiệp Nhà nước phải công bố công khai số vốn điều lệ mới theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Đối với trường hợp vốn điều lệ thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh, thì cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập doanh nghiệp đó phải: cấp bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp hoặc giảm ngành nghề cho doanh nghiệp hoặc Quyết định phá sản doanh nghiệp đó theo Luật phá sản doanh nghiệp. Ngoài số vốn điều lệ ban đầu, doanh nghiệp phải tự huy động vốn để phát triển kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về việc huy động vốn. Doanh nghiệp Nhà nước có nghĩa vụ nhận, quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực Nhà nước giao, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn về dân sự đối với các hoạt động kinh doanh trước pháp luật trong phạm vi vốn của doanh nghiệp, trong đó có phần vốn Nhà nước giao. Nhà nước thực hiện việc giao vốn thuộc sở hữu Nhà nước cho các doanh nghiệp độc lập mới thành lập hoặc thành lập lại trên cơ sở sáp nhập hoặc tách từ các doanh nghiệp khác, các Tổng công ty thành lập theo Quyết định số 90/TTg và Quyết định số 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ.
Vốn Nhà nước giao cho Tổng công ty bao gồm cả vốn của các thành viên tổng công ty.
Điều 6 Nghị định 59 quy định doanh nghiệp có trách nhiệm:
1- Mở sổ kế toán, theo dõi chính xác toàn bộ tài sản, tiền vốn doanh nghiệp quản lý và sử dụng theo đúng quy định của chế độ hạch toán kế toán, thống kế hiện hành, phản ánh kịp thời tình hình sử dụng, biến động tài sản, vốn.
2- Thường xuyên kiểm tra, đối chiếu tình hình công nợ, xác định và phân loại các khoản nợ tồn đọng, phân tích khả năng thu hồi để có biện pháp xử lý thích hợp.
Việc giao vốn cho doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước và các quy định khác của pháp luật hiện hành. Khi giao, nhận vốn phải đảm bảo:
1. Đánh giá, xác định lại giá trị tài sản theo mặt bằng giá thị trường tại thời điểm giao vốn;
2. Đối với doanh nghiệp độc lập thành lập lại trên cơ sở sáp nhập hoặc tách từ doanh nghiệp khác, trước khi giao vốn phải xác định và xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính;
3. Việc giao vốn phải tiến hành chậm nhất 60 ngày sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
4. Cơ quan tài chính Nhà nước là người giao vốn;
5. Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc hoặc Giám đốc (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị) là người ký nhận vốn;
6. Riêng đối với các Tổng công ty thành lập theo Quyết định số 90/TTg và Quyết định số 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ thì việc giao nhận vốn phải có sự chứng kiến của thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp.
Chậm nhất 30 ngày sau khi nhận vốn Nhà nước giao, Tổng công ty phải giao lại vốn cho các doanh nghiệp thành viên. Trong vòng 15 ngày sau khi giao lại vốn cho các doanh nghiệp thành viên, Tổng công ty phải thông báo kết quả giao vốn cho cơ quan tài chính Nhà nước và Thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước được quyền sử dụng vốn và các quỹ của mình để phục vụ kinh doanh theo nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các nguồn vốn, quỹ khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các nguồn vốn, quỹ đó thì phải theo nguyên tắc có hoàn trả. Việc sử dụng vốn, quỹ để đầu tư xây dựng phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng.
Trong các Tổng công ty Nhà nước, Tổng giám đốc thực hiện việc điều động tài sản giữa các doanh nghiệp thành viên theo phương án đã được Hội đồng quản trị phê duyệt. Trong vòng 10 ngày sau khi điều động tài sản, Tổng công ty phải thông báo kết quả điều động tài sản cho cơ quan tài chính Nhà nước và Thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước được quyền sử dụng vốn, tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp. Việc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp có liên quan đến đất đai phải tuân theo quy định của pháp luật về đất đai.
Việc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật và bảo đảm nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển được vốn, tăng thu nhập và không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ kinh doanh chính của doanh nghiệp được Nhà nước giao.
Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị) Quyết định phương án liên doanh trong nước. Trường hợp các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn và tài sản Nhà nước để góp vốn liên doanh với các chủ đầu tư nước ngoài thì Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị) trình Thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập phê duyệt dự án liên doanh đó hoặc tự quyết định nếu được thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập uỷ quyền bằng văn bản. Trong vòng 15 ngày sau khi Thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp phê duyệt dự án liên doanh hoặc doanh nghiệp tự quyết định, doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan tài chính Nhà nước bằng văn bản.
Riêng doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị khi sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước để góp vốn liên doanh với các chủ sở hữu tư nhân, tập thể phải có luận chứng giải trình về dự án liên doanh được cơ quan tài chính có thẩm quyền xem xét, thẩm định và phải được Thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp chuẩn y.
Doanh nghiệp Nhà nước không được phép đầu tư vào các doanh nghiệp không thuộc sở hữu Nhà nước mà người quản lý điều hành hoặc người sở hữu chính là vợ, chồng, bố, mẹ, con của Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước đó.
Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị) Giám đốc (đối với doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị) có trách nhiệm cử người đại diện tham gia quản lý, giám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn góp vào doanh nghiệp khác; chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn góp, thu lợi nhuận từ phần vốn góp.
Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, doanh nghiệp Nhà nước được quyền huy động vốn dưới các hình thức: phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết và các hình thức khác. Việc huy động vốn phải tuân theo các quy định của pháp luật, không được làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp và tổng mức dư nợ vốn huy động không được vượt quá vốn điều lệ của doanh nghiệp tại thời điểm công bố gần nhất, trừ trường hợp Luật hay Pháp lệnh có quy định khác. Trường hợp phát hành cổ phiếu để huy động vốn phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Trong các Tổng công ty, Tổng Giám đốc theo uỷ quyền của Hội đồng quản trị, Quyết định việc huy động số khấu hao tài sản cố định, quỹ của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập để phục vụ nhu cầu đầu tư tập trung của Tổng công ty theo hình thức vay, trả với lãi suất nội bộ.
Đối với một số trường hợp đặc thù được quy định trong Điều lệ tổ chức và hoạt động cụ thể của Tổng công ty thì Tổng công ty được huy động số khấu hao tài sản cố định (trừ số khấu hao của những tài sản cố định hình thành từ nguồn vốn vay chưa trả hết nợ) của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập theo nguyên tắc ghi tăng, giảm vốn.
Doanh nghiệp Nhà nước có trách nhiệm bảo toàn vốn Nhà nước giao theo các quy định dưới đây:
1. Thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo quy định của Nhà nước;
2. Mua bảo hiểm tài sản theo quy định;
3. Được hạch toán vào chi phí kinh doanh các khoản dự phòng sau đây:
a) Dự phòng giảm giá hàng tồn kho: là khoản giảm giá vật tư, hàng hoá tồn kho dự kiến sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo.
b) Dự phòng giảm giá các khoản phải thu khó đòi: là phần giá trị dự kiến bị tổn thất của các khoản thu sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo do con nợ không có khả năng thanh toán.
c) Dự phòng giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt động tài chính.
Bộ Tài chính hướng dẫn việc trích lập và sử dụng các khoản dự phòng nêu tại Khoản 3 Điều này.
1. Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện đánh giá lại tài sản trong các trường hợp sau:
a) Kiểm kê đánh giá lại tài sản theo Quyết định của Nhà nước;
b) Thực hiện cổ phần hoá, đa dạng hoá hình thức sở hữu;
c) Dùng tài sản để liên doanh, góp vốn cổ phần (đem góp tài sản và khi nhận tài sản).
d) Điều chỉnh giá để đảm bảo giá trị thực tế tài sản của doanh nghiệp.
2. Việc kiểm kê, đánh giá lại tài sản phải theo đúng các quy định của Nhà nước. Các khoản chênh lệch tăng hoặc giảm giá trị do đánh giá lại tài sản được hạch toán tăng hoặc giảm vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện trích khấu hao tài sản cố định theo nguyên tắc mức trích khấu hao phải bảo đảm bù đắp cả hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình của tài sản. Bộ Tài chính ban hành chế độ khấu hao tài sản cố định theo hướng khuyến khích khấu hao nhanh để các doanh nghiệp có điều kiện hiện đại hoá và nhanh chóng đổi mới công nghệ.
Doanh nghiệp được sử dụng số khấu hao tài sản cố định để tái đầu tư, thay thế đổi mới tài sản cố định và sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh khác theo quy định của Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước được quyền cho thuê, thế chấp, cầm cố các tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn và bảo đảm các thủ tục theo quy định của Nhà nước.
Việc sử dụng tài sản để cho thuê, thế chấp, cầm cố phải tuân theo dúng các quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của Nhà nước.
Đối với những tài sản của Nhà nước do doanh nghiệp quản lý là toàn bộ hoặc phần chủ yếu của dây chuyền công nghệ chính, những tài sản có giá trị lớn theo quy định của Bộ Tài chính, khi doanh nghiệp muốn cho thuê, thế chấp, cầm cố phải được Thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập doanh nghiệp xem xét, Quyết định sau khi có sự thẩm định của cơ quan tài chính có thẩm quyền.
Doanh nghiệp được chủ động nhượng bán tài sản để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu quả hơn. Đối với những tài sản quy định tại khoản 3 Điều 17 trong Quy chế này nếu nhượng bán cho tổ chức và cá nhân nước ngoài phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép. Khi nhượng bán tài sản, doanh nghiệp phải định giá tài sản và tổ chức đấu giá theo quy định của pháp luật.
Khoản chênh lệch giữa số tiền thu được do nhượng bán tài sản với giá trị còn lại của tài sản nhượng bán và chi phí nhượng bán tài sản được hạch toán vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được thanh lý những tài sản kém, mất phẩm chất, lạc hậu kỹ thuật không thể sử dụng được; tài sản hư hỏng không có khả năng phục hồi. Đối với những tài sản quy định tại khoản 3 Điều 17 trong Quy chế này, khi thanh lý tài sản, doanh nghiệp phải được cơ quan tài chính có thẩm quyền và Thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập doanh nghiệp cho phép bằng văn bản.
Khi thanh lý tài sản doanh nghiệp phải thành lập Hội đồng thanh lý, trường hợp bán tài sản thanh lý phải tổ chức đấu giá theo quy định của pháp luật. Khoản chênh lệch giữa giá trị thu được do thanh lý tài sản với giá trị còn lại của tài sản thanh lý và chi phí thanh lý được hạch toán vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Về mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh
DNNN kinh doanh
Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, nếu có hoạt động công ích do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao, thì được hưởng các chế độ trợ cấp, trợ giá hoặc các chế độ ưu đãi khác của Nhà nước tương ứng với phần hàng hoá hoặc dịch vụ phục vụ công ích quy định tại Tiết đ, Khoản 1 Điều 8 Luật Doanh nghiệp nhà nước và các quy định khác của pháp luật.
DNNN công ích
DNNN hoạt động công ích mới thành lập được Nhà nước ưu tiên đầu tư đủ vốn ban đầu tương đương với nhiệm vụ công ích được giao.
Việc đầu tư vốn bổ sung cho DNNN đang hoạt động tương ứng với nhiệm vụ công ích Nhà nước giao được quy định như sau:
a) Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích có lãi, được xét giảm thuế lợi tức để bổ sung vào vốn của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
b) Trường hợp doanh nghiệp hoạt động công ích không có nguồn để tự bổ sung, thì được Nhà nước đầu tư bổ sung vốn.
DNNN hoạt động công ích phải tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ theo giá, khung giá hoặc thu phí theo quy định của Nhà nước. Doanh nghiệp được sử dụng các khoản thu nhập này để bù đắp các khoản chi phí theo nguyên tắc sau:
1. Trường hợp các khoản thu không đủ trang trải các khoản chi phí hợp lý thì được Nhà nước hỗ trợ đủ phần chênh lệch và bảo đảm lợi ích vật chất thoả đáng cho người lao động.
2. Trường hợp các khoản thu lớn hơn chi phí thì được quy định như sau:
a) Các khoản thu được cần phải có chi phí sản xuất hoặc dịch vụ, thì phần thu sau khi trừ các khoản chi phí hợp lý là lợi nhuận của doanh nghiệp và được phân phối theo quy định hiện hành;
b) Các khoản thu theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước quy định, mà không cần phải có chi phí sản xuất hoặc dịch vụ, thì phần còn lại sau khi trừ các khoản chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí khác theo quy định hiện hành và bảo đảm lợi ích vật chất thoả đáng cho người lao động phải được nộp vào ngân sách Nhà nước.
3. Bộ Tài chính có nhiệm vụ quy định cụ thể việc bảo đảm lợi ích vật chất thoả đáng cho người lao động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phục vụ quốc phòng an ninh hoặc sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước.
Việc chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp công ích phải được thủ trưởng cơ quan ký Quyết định thành lập doanh nghiệp công ích đó quyết định, sau khi có ý kiến thoả thuận bằng văn bản của cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp.
Khi có nhu cầu đầu tư ra ngoài doanh nghiệp hoặc huy động vốn theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp hoạt động công ích phải lập phương án cụ thể gửi cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp tham gia ý kiến trước khi trình thủ trưởng cơ quan ký Quyết định thành lập doanh nghiệp quyết định.
Doanh nghiệp hoạt động công ích có quyền tổ chức hoạt động kinh doanh thêm phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường với điều kiện:
1. Phải được cơ quan quản lý trực tiếp đồng ý bằng văn bản.
2. Không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ hoạt động công ích Nhà nước đã giao hoặc đặt hàng.
3. Đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh theo quy định hiện hành.
4. Hạch toán riêng phần hoạt động kinh doanh.
5. Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với phần hoạt động kinh doanh thêm theo quy định của pháp luật.
Thủ tục, trình tự thành lập, tổ chức lại, giải thể DNNN hoạt động công ích theo quy định tại Nghị định số 50/CP ngày 28 tháng 8 năm 1996 của Chính phủ về thành lập, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp Nhà nước. Khi giải thể một doanh nghiệp hoạt động công ích, thủ trưởng cơ quan ký Quyết định giải thể có thể đề nghị thành lập doanh nghiệp hoạt động công ích mới hoặc chuyển nhiệm vụ công ích của doanh nghiệp bị giải thể sang cho một doanh nghiệp Nhà nước khác thực hiện.
Việc giải quyết phá sản DNNN hoạt động công ích trong một số lĩnh vực đặc biệt quan trọng thực hiện theo quy định tại Mục III Nghị định số 189/CP ngày 23 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng.
Ngoài những quy định riêng cho DNNN hoạt động công ích tại Luật doanh nghiệp nhà nước và Nghị định này, DNNN hoạt động công ích còn thực hiện các quy định khác của pháp luật đối với DNNN.
2.3. Đánh giá chung về hoạt động của DNNN ở Việt nam
2.3.1 Những thành tựu của DNNN và bài học kinh nghiệm
Trong hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước; đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đạt được những kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước; sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của Chính phủ và các cấp, các ngành; sự cố gắng phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách để vươn lên của các doanh nghiệp nhà nước, của đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trong cơ chế mới.
Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng như: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa thật tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt; nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh; kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước; hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, nợ không có khả năng thanh toán tăng lên, lao động thiếu việc làm và dôi dư còn lớn. Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3.2 Những tồn tại yếu kém của DNNN và nguyên nhân.
Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan: chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; nhiều vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước còn n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24593.DOC