Luận văn Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Dak lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa

MỤC LỤC

Lời cảm ơn

Mục lục

PHẦN MỞ ĐẦU. 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ TIẾP XÚC

NGÔN NGỮ Ê ĐÊ – VIỆT Ở TỈNH DAK LĂK . 10

1.1. Cơ sở lí luận .10

1.1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ .10

1.2. Cơ sở thực tiễn .25

1.2.1. Khái quát về người Ê đê ở tỉnh Dak Lăk .25

1.2.2. Khái quát về ngôn ngữ Việt, Ê đê.28

1.3. Tiểu kết.37

CHƯƠNG 2. TỪ VỰNG TIẾNG Ê ĐÊ VAY MƯỢN TIẾNG VIỆT. 39

2.1. Khảo sát và thống kê lớp từ ngữ tiếng Ê đê vay mượn của tiếng Việt .39

2.1.1. Lớp từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ, lĩnh vực và vị trí công tác .39

2.1.2. Lớp từ ngữ chỉ cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp.44

2.1.3. Lớp từ ngữ chỉ khoa học kĩ thuật .46

2.1.4. Lớp từ ngữ chỉ động - thực vật.53

2.1.5. Lớp từ ngữ chỉ đồ vật.55

2.1.6. Lớp từ ngữ chỉ tên người.58

2.2. Các phương thức tiếng Ê đê vay mượn từ ngữ tiếng Việt .62

2.2.1. Phương thức dịch nghĩa .62

2.2.2. Phương thức kết hợp phiên âm với dịch nghĩa .64

2.2.3. Phương thức phiên âm .66

2.2.4. Phương thức mượn nguyên dạng .702.3. Tiểu kết.71

CHƯƠNG 3. TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN TIẾNG Ê ĐÊ. 73

3.1. Khảo sát và thống kê lớp từ ngữ tiếng Việt vay mượn của tiếng Ê đê .73

3.1.1. Lớp từ ngữ chỉ địa danh .73

3.1.2. Lớp từ ngữ chỉ nhà ở, đồ dùng, dụng cụ lao động .74

3.1.3. Lớp từ ngữ chỉ không gian văn hóa, lễ hội, phong tục tập quán.78

3.2. Các phương thức tiếng Việt vay mượn từ ngữ tiếng Ê đê .84

3.2.1. Phương thức dịch nghĩa .84

3.2.2. Phương thức phiên âm .85

3.2.3. Phương thức mượn nguyên dạng .87

3.3. Vấn đề địa danh của tỉnh Dak Lăk trong sự tiếp xúc ngôn ngữ.87

3.3.1. Đặc điểm dân cư và văn hóa.87

3.3.2. Vài nét về thực trạng .89

3.3.3. Một số ý kiến đề xuất.98

3.4. Tiểu kết.100

KẾT LUẬN . 102

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 105

PHỤ LỤC1

pdf155 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 730 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Dak lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a của hai dân tộc. Cách ăn mặc của người Ê đê mang đậm nét văn hóa của vùng núi rừng Tây Nguyên. Trước kia, đàn ông Ê đê thường đóng khố còn phụ nữ thì mặc váy dệt từ thổ cẩm được nhuộm từ nhựa cây của rừng núi với màu đen là màu chủ đạo. Ngày nay, do tiếp xúc với người Kinh, do những thay đổi của đời sống xã hội, người Ê đê đa phần chỉ còn mặc trang phục truyền thống trong những dịp lễ hội. Thường ngày, trong sinh hoạt và lao động, chỉ còn số ít những người phụ nữ lớn tuổi hoặc trung niên còn mặc váy may theo kiểu 56 truyền thống nhưng không phải từ thổ cẩm mà bằng các loại vải của người Kinh. Đa số đàn ông và phụ nữ Ê đê, đặc biệt là giới trẻ đã chuyển sang mặc quần áo vì tính tiện dụng của nó. Ngôn ngữ Ê đê phải vay mượn từ tiếng Việt các từ ngữ chỉ kiểu trang phục mới này. Chẳng hạn: Ao: Áo Ao lah: áo cánh Ao dai: áo dài Ao msei: áo giáp Ao ti tac: áo khoác Ao êa hjan: áo tơi, áo mưa Chum ao Prăng: âu phục Sa êa sa hnơng: đồng phục Chum ao: quần áo Ală kĭng: kính Khi nói đến người Ê đê ở Dak Lăk, một số người ở xa, không có điều kiện tiếp xúc hay tìm hiểu về dân tộc này thường nhầm tưởng rằng người Ê đê đi lại bằng cách cưỡi voi. Thực ra, voi là một phương tiện vận chuyển vô cùng quí giá, thường các nhà giàu trong buôn mới có, nhưng cũng chỉ được dùng khi có những việc lớn, việc quan trọng. Trong sử thi Đam San, quả thực ta thấy rằng các tù trưởng, các bà vợ của tù trưởng đi đâu cũng cưỡi voi, thể hiện được sự uy nghiêm, sang trọng và giàu có của mình. Tuy nhiên, ngay cả xưa kia thì những người nghèo hay phận tôi tớ cũng chỉ di chuyển bằng đôi chân của mình. Hiện nay, voi càng trở nên quí, chúng chỉ được dùng trong việc kéo gỗ hay chở khách du lịch. Xã hội phát triển, tiếp xúc với người Kinh, các phương tiện dùng để đi lại được người Ê đê sử dụng phong phú. Từ ngữ chỉ tên phương tiện đi lại, vận chuyển cũng là một nhóm từ mà tiếng Ê đê phải vay mượn từ tiếng Việt: 57 Êdeh phiơr: máy bay Hô mran: tàu bè Hô mran êa ksĭ: tàu biển Hô mran mblah ngă: tàu chiến Êdeh đrông: tàu hỏa Kĭ ngă hŏng msei: sà lan Trong lớp từ ngữ chỉ đồ vật, chúng tôi nhận thấy có một nhóm từ chỉ tên một số đồ dùng trong gia đình được tiếng Ê đê vay mượn của tiếng Việt. Sở dĩ như vậy là do đây đều là các đồ vật mà trước kia người Ê đê không sử dụng. Trong tiếng Ê đê không có các từ ngữ chỉ tên các đồ vật này. Am pul pui: bóng đèn Am pul pui kmlă: bóng điện Boh nut ao: nút áo Dh ŏng ƀơng êhăng: d Dhŏng kcoh čĭm : dao pha Dhŏng kuêh: dao cầu Dhŏng thâo kkut: dao xếp Eerŭm čŭt m’ar: đinh ghim Giêt čai: cái chai K ƀao: cái bào Kcok prŏng: cốc vại Kđĭn: cái đinh Kuat: cái quạt Msei kđĭn ktir: đinh vít Msei kđĭn thâo ktir: đinh ốc Msei uih: bàn là Pui kđen mâo wer kdjŏng hiu: đèn bão 58 Pui mtrang mngac: đèn pha Pui pĕ: máy lửa Phič: cái phích Các từ ngữ chỉ tên các đồ dùng trong gia đình được vay mượn theo hình thức phiên âm là chủ yếu. Số lượng lớp từ ngữ này là 36 từ, chiếm 3,7% tổng số từ tiếng Ê đê vay mượn từ tiếng Việt. 2.1.6. Lớp từ ngữ chỉ tên người Cũng như các dân tộc khác, đặt tên cho con cái là một việc có ý nghĩa hết sức quan trọng trong gia đình của người Ê đê. Vì vậy, khi gia đình có thêm thành viên mới, những bậc cha mẹ đều muốn đặt cho con mình một cái tên thật hay, thật đẹp, gắn liền với một ý nghĩa nào đó. Tên gọi luôn gắn liền và có ý nghĩa với cả cuộc đời của một con người, cái tên cũng là sự gửi gắm cả một bầu trời yêu thương và hi vọng của cha mẹ vào con cái của mình. Trong xã hội Ê đê truyền thống, dòng họ (djmê) đóng vai trò vô cùng quan trọng. Con cái thường được theo họ của mẹ. Theo quan niệm dân gian, người Ê đê cho rằng trong xã hội Ê đê chỉ có hai dòng họ chính là Mlô và Niê. Tất cả các dòng họ khác như B’krông, Ktla, Byă, K’sor, Ajun, Êban, đều xuất phát từ hai dòng họ gốc này. Những người con thuộc hai dòng họ Mlô và Niê không được lấy nhau, nếu vi phạm thì coi như đã phạm vào tội loạn luân. Các chàng trai, cô gái thuộc các dòng họ nhánh của hai dòng Niê và Mlô phaỉ có nghĩa vụ kết hôn qua lại để đảm bảo sự hòa thuận và duy trì nòi giống của dân tộc. Người Ê đê có cách đặt tên rất đặc biệt, có những điểm giống và khác biệt so với người Kinh. Điểm giống nhau đó là trong cách đặt tên của người Ê đê và người Kinh đều có sự phân biệt về giới tính. Theo truyền thống, để phân biệt nữ giới, người Kinh dùng yếu tố “Thị”, người Ê đê thì dùng “H’” (Hơ) 59 đặt trước tên chính thức. Để phân biệt giới tính nam, người Kinh dùng yếu tố “Văn” còn người Ê đê lại dùng “Y” trước tên chính. Hiện nay, trong cách đặt tên của người Kinh đã có sự thay đổi rất nhiều. Trong tên gọi nhiều khi không cò hiện hữu yếu tố “Thị” hoặc “Văn” để chỉ giới tính nữa, nhưng do quan niệm của người Việt về từng giới nên khi đọc tên, hầu hết ta vẫn có thể nhận ra được người đó là nam hay nữ. Ví dụ: Nguyễn Ngọc Hoa, Trần Lệ Trà, Phan Thục Uyên, Hoàng Tố Nga, Lý Ngọc Ánh Linh, (tên con gái). Trần Thái Sơn, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Trương Quốc Khánh, (tên con trai). Tuy trong tên gọi cùng có sự phân biệt về giới tính nhưng cấu trúc tên gọi của người Ê đê lại có sự khác biệt hẳn so với người Kinh. Người Kinh gọi tên họ trước, tên chính sau còn người Ê đê lại giống với các ngôn ngữ Ấn – Âu, gọi tên chính trước, tên họ sau. - Mô hình tên gọi của người Kinh: Nam giới: Tên họ + tên đệm + tên chính Ví dụ: Trần Văn Hòa, Nguyễn Văn Tuấn, Lương Văn Thanh Quyết, Nữ giới: Tên họ + tên đệm + tên chính Ví dụ: Nguyễn Thị Bích Ngọc, Trần Thị Thanh Sương, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Bình, - Mô hình tên gọi của người Ê đê: Nam giới: Y + tên chính + tên họ Ví dụ: Y Tương Niê, Y Moan Êñuôl, Y Luyên Niê, Nữ giới: H’ + tên chính + tên họ Ví dụ: H’Ngach Ktla, H’Ưng Êban, H’Dư Byă, H’Zeny Ajun, H’Vưt K’sor, H’Il Êban, H’Bliêk Niê, H’Diêt Niê, Trước đây, người Ê đê thường đặt tên con cái của mình bằng tiếng của 60 chính dân tộc mình. Tuy nhiên, hiện nay do sự tiếp xúc văn hóa với người Kinh, trong cộng đồng người Ê đê đã xuất hiện rất nhiều tên gọi có sự kết hợp Việt – Ê đê. Đa phần đó là sự kết hợp giữa tên được vay mượn ngôn ngữ Việt của người Kinh và họ là của người Ê đê. Ví dụ: Tuyết Nhung B’krông, Thu Nhung Mlô, Phương Thảo Niê, Hoàng Lan Êban, (tên con gái). Tuấn Anh Mlô, Thế Đắc Ê ban, (tên con trai). Sự thay đổi trong cách đặt tên này phản ánh rất rõ sự tiếp xúc về văn hóa và ngôn ngữ của người Ê đê với người Việt tại Dak Lăk. Đặc biệt là trong các gia đình có sự kết hợp hôn nhân của người Kinh với người Ê đê hoặc trong các gia đình có cha mẹ là người Ê đê nhưng đã có một thời gian học tập và công tác rất lâu dài với người Kinh thì sự biến đổi trong cách đặt tên này càng được thể hiện đậm nét. Sự biến đổi này không làm mất đi nét văn hóa riêng trong cách đặt tên của người Ê đê mà ngược lại nó càng làm giàu, làm phong phú thêm cho vốn từ chỉ tên riêng của người Ê đê. Mặc dầu vậy, sự biến đổi này chỉ thuộc về số ít còn đại đa số các gia đình người Ê đê vẫn giữ cách đặt tên truyền thống. Dù đặt tên theo cách nào đi chăng nữa thì khi viết tên riêng của người Ê đê cũng đều viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu tiên trong mỗi từ. Tuy có sự tiếp xúc nhưng ở các gia đình người Kinh tại Dak Lăk lại rất hiếm thấy sự pha trộn giữa yếu tố Việt – Ê đê trong cách đặt tên cho con kể cả ở các gia đình có cha là người Kinh, mẹ là người Ê đê. Điều này cũng là dễ hiểu bởi thông thường, trong tiếp xúc văn hóa và ngôn ngữ, dân tộc nào có số lượng dân cư đông hơn, lớn mạnh hơn, có nền văn hóa lâu đời hơn thì thường ít chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa của dân tộc ít người hơn. Một thực trạng đáng lưu ý là hiện nay, do thiếu hiểu biết về cách đặt tên của người Ê đê mà nhiều người Việt khi gọi tên, viết tên của họ lại đi điều 61 chỉnh theo thói quen đặt tên của người Việt (tên họ trước, tên chính sau), làm sai khác đi quan niệm truyền thống của họ. Không những trong cách dùng thường ngày mà ngay ở các loại giấy tờ rất quan trọng như giấy khai sinh, chứng minh thư, giấy phép lái xe, sổ hộ khẩu, các cơ quan hành chính cũng không thống nhất cách ghi, dẫn tới hiện tượng cùng một người nhưng lại có cách viết tên khác nhau. Việc làm này sẽ gây nên nhiều điều bất cập đặc biệt là trong công tác chứng thực giấy tờ. Hiểu đúng về quan niệm và cách đặt tên của dân tộc Ê đê là điều cần thiết nhằm đảm bảo đúng cơ sở khoa học cũng như thể hiện được dấu ấn văn hóa đặc trưng của mỗi dân tộc trong cách đặt tên, viết tên riêng. Tên riêng là một lớp từ đặc biệt, nó được người ta đặt có thể chỉ dựa trên sở thích, thói quen, mà không cần tuân theo một qui tắc cấu tạo từ hay quy tắc chính tả nào. Lớp từ chỉ tên người chịu ảnh hưởng bởi nét tâm lí chủ quan của mỗi cá nhân cũng như tính chất văn hóa đặc trưng của vùng dân cư. Chính vì vậy, khi đưa ra một cách viết nào đấy, chúng ta không nên áp đặt một cách cứng nhắc. Hiện nay, ở Dak Lăk, trong cách viết tên của người Ê đê tồn tại hai hình thức đó là tên được viết thuần bằng tiếng Ê đê và tên có sự kết hợp giữa tiếng Ê đê và tiếng Việt. Dù ở hình thức nào thì tên người cũng được viết bằng chữ cái La tinh nên cũng không quá khó để chúng ta nhận dạng. Do vậy, khi viết tên của người Ê đê chúng ta cần phải tôn trọng cách viết của họ: viết nguyên dạng như cách đặt tên, cách viết mà họ sử dụng đồng thời phải viết hoa tất cả những chữ cái đầu của âm tiết đầu tiên của mỗi từ. Ví dụ: Y Dlong Êban, H’Siêu Bjă, H’Ưng Mlô, Đối với cách đặt tên có sự kết hợp giữa tiếng Ê đê và tiếng Việt, thì chúng ta nên chấp nhận theo ý muốn chủ quan của họ. Tức là có thể viết tên chính trước, tên họ sau theo cấu trúc tên của người Ê đê hoặc ngược lại theo 62 cấu trúc tên của người Kinh đều chấp nhận được, đồng thời cũng phải viết hoa tất cả những chữ cái đầu của âm tiết đứng đầu mỗi từ. 2.2. Các phương thức tiếng Ê đê vay mượn từ ngữ tiếng Việt 2.2.1. Phương thức dịch nghĩa Tiếng Ê đê đã vay mượn của tiếng Việt rất nhiều từ ngữ bằng phương thức dịch nghĩa. Đây là phương thức được sử dụng phổ biến nhất trong số tất cả các phương thức vay mượn từ vựng tiếng Việt của tiếng Ê đê. Theo phương thức vay mượn này, từ ngữ tiếng Việt chỉ được tiếng Ê đê vay mượn về nội dung ngữ nghĩa còn toàn bộ hình thức từ bao gồm ngữ âm, chữ viết, hình thái – cấu trúc là của tiếng Ê đê. Ví dụ: Từ vay mượn Dịch từ vựng Dịch văn học Sang mdrao Nhà chữa bệnh Bệnh viện Čưng boh Đá quả (trái) Đá bóng Kan mnga Cá hoa Cá vàng Theo phương thức này, tiếng Ê đê không những chỉ dịch sát nghĩa các từ của tiếng Việt mình không có mà nhiều khi còn là sự mô phỏng nghĩa, giải thích nghĩa. Tức là, khi không tìm được từ trong tiếng Ê đê có nghĩa tương đương như tiếng Việt thì tiếng Ê đê tìm đến giải pháp áp dụng cách giải thích nghĩa. Ví dụ: Dap: bằng phẳng; Kngư: dốc - Dap kngư: cao nguyên Thâo: biết; nao: đi - Thâo nao: di động Mnuih klia pưk sang (người xây nhà): thợ nề Êlan kah krah (đường ở giữa): đường kính 63 Khi vay mượn từ vựng từ tiếng Việt, những từ vay mượn theo hình thức này khi vào tiếng Ê đê đã bị thay đổi hoàn toàn về cách viết so với tiếng Việt. Lí do phải thay đổi về chữ viết là do tiếng Ê đê và tiếng Việt tuy cùng thuộc hệ chữ cái La tinh nhưng lại có những chữ cái, những dấu phụ, những qui tắc tạo chữ viết khác nhau. Nói cách khác, tiếng Ê đê và tiếng Việt là hai ngôn ngữ khác nhau, khi vay mượn theo hình thức dịch nghĩa, tiếng Ê đê chỉ muốn mượn phần ngữ nghĩa của tiếng Việt còn tất cả các phần khác như ngữ âm, hình thái – cấu trúc, chữ viết tiếng Ê đê sử dụng những gì sẵn có của mình. Theo hình thức này, có rất nhiều từ trong tiếng Ê đê đã được mở rộng, phát triển về mặt ngữ nghĩa. Đây cũng là một trong những lí do làm xuất hiện các từ đa nghĩa trong tiếng Ê đê. Ví dụ: Khua (tt) 1.Træåíng. Ama H’Ran jing khua [uän: Bäú H’ Ran laì træåíng laìng. 2. Giaì. Ktår anei khua leh: Bàõp naìy giaì räöi. 3. Ngæåìi laînh âaûo cå quan, ban ngaình. Khua phu\n bruà mtä mjuàt: Bäü træåíng Bäü Giaïo duûc; Khua phu\n bruà mgang ala: Bäü træåíng Bäü Quäúc phoìng; Khua Knå\ng bruà mtä mjuàt: Giaïm âäúc Såí Giaïo duûc - Âaìo tạo [37, tr.68]. Trong tiếng Ê đê, từ “khua” có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là trưởng và nghĩa thứ hai là già. Khi tiếp xúc với tiếng Việt, từ này mới được bổ sung một nghĩa mới là người lãnh đạo cơ quan, ban ngành. Nghĩa thứ ba chính là nghĩa mà tiếng Ê đê vay mượn của tiếng Việt. Từ čut thuộc từ loại động từ, có nghĩa xuất phát là cắm. Sau này tiếng Ê 64 đê vay mượn của tiếng Việt thêm nghĩa thứ hai là đeo và nghĩa thứ ba là mặc. Čut (dgt) 1. Càõm. }u\t wah: Càõm cáu; }u\t â^ng kpiã: Càõm cáön ræåüu. 2. Âeo. }u\t buã: Âeo bäng tai; }u\t krah: Âeo nháùn. 3. Màûc (chè duìng cho màûc quáön) }u\t ]hum: Màûc quáön. [37, tr.24]. 2.2.2. Phương thức kết hợp phiên âm với dịch nghĩa Tiếng Ê đê đã mượn của tiếng Việt một số lượng lớn các từ của tiếng Việt theo phương thức kết hợp giữa từ của tiếng Ê đê với từ của tiếng Việt. Nói cách khác đây là phương thức vay mượn có sự kết hợp cả hai phương thức phiên âm và phương thức dịch nghĩa. Theo cách vay mượn này, tiếng Ê đê đã bổ sung thêm được một lượng từ vựng vào ngôn ngữ của mình bằng cách ghép từ của ngôn ngữ Ê đê với từ của tiếng Việt. Ở cách vay mượn bằng phương thức này, yếu tố từ tiếng Việt thường là chỉ các sự vật, sự việc mà tiếng Ê đê không có, phải vay mượn của tiếng Việt. Tuy nhiên, khi tiếng Ê đê vay mượn của tiếng Việt, từ đó chỉ được giữ nguyên ý nghĩa còn hình thức chữ viết đã bị thay đổi đi cho phù hợp với cách phiên âm của người Ê đê. Tức là, theo cách này thì yếu tố từ tiếng Việt trong tổ hợp từ vay mượn đã được phiên âm. Yếu tố thứ hai chỉ các sự vật, sự việc, tính chất, còn lại trong từ được dịch nghĩa từ tiếng Việt sang tiếng Ê đê và được viết bằng chữ Ê đê. Chúng tôi gọi hình thức vay mượn này là phương thức kết hợp giữa phiên âm và dịch nghĩa. 65 Ví dụ: Từ vay mượn Yếu tố Việt Yếu tố Ê đê Dịch nghĩa Ao msei ao msei Áo giáp Sang maĭ maĭ sang Nhà máy Kruê čên čên kruê Quả chanh Kcok prŏng kcok prŏng Cốc vại Mtô klei daŏ daŏ mtô klei Giảng đạo Mdhă kơ tương kơ tương mdhă Bàn cờ tướng Boh sâo riêng sâo riêng boh Sầu riêng Toi prŏng toi prŏng Tỏi tây Qua khảo sát các từ vay mượn tiếng Việt của tiếng Ê đê theo phương thức này, chúng tôi đã tổng kết ra các mô hình cấu tạo của từ vay mượn theo phương thức kết hợp từ tiếng Việt với từ tiếng Ê đê như sau: Mô hình 1: Từ mượn = Yếu tố Việt (đã được phiên âm) + Yếu tố Ê đê Ví dụ: Từ mượn Yếu tố Việt Yếu tố Ê đê Ao lah Ao lah Ao ti tac Ao ti tac Ao êa hjan Ao êa hjan Toi prŏng Toi prŏng Ƀêñ lăp Ƀêñ lăp Lĭng k’han Lĭng k’han Ao să Ao Să Ngông dliê Ngông Dliê Mô hình 2: Từ mượn = Yếu tố Ê đê + Yếu tố Việt (đã được phiên âm) Ví dụ: Từ mượn Yếu tố Ê đê Yếu tố Việt 66 Sang maĭ Sang maĭ Khil đao Khil đao Boh kruê kuit Boh kruê kuit Kčĭng ao Kčĭng ao Ală kĭng Ală kĭng Kruê čên Kruê čên Khil đao Khil đao Mdhă kơ tương Mdhă kơ tương Khua phŭn či ƀô Khua phŭn či ƀô Giêt čai Giêt čai Angĭn mơng lao Angĭn mơng lao Mô hình 3: Từ mượn = Yếu tố Ê đê + Yếu tố Việt (đã được phiên âm) + Yếu tố Ê đê Ví dụ: Từ mượn Yếu tố Ê đê Yếu tố Việt Yếu tố Ê đê Giêt čai mang Giêt čai mang Sang čơ mnia Sang čơ mnia Asăr tiêu êjăng Asăr tiêu êjăng Nhờ vào cách kết hợp đa dạng theo các mô hình như trên để vay mượn từ của tiếng Việt, tiếng Ê đê đã tạo cho mình có thêm được một số lượng từ vựng rất phong phú. 2.2.3. Phương thức phiên âm Bên cạnh phương thức được sử dụng phổ biến nhất là dịch nghĩa thì phiên âm cũng là một cách để tiếng Ê đê có thể mượn các từ ngữ của tiếng Việt, làm giàu vốn ngôn ngữ cho mình. Theo tác giả Nguyễn Văn Khang, 67 phiên âm là phương thức vay mượn từ vựng bằng cách dựa trên (phỏng theo) âm đọc của từ ngữ vay để ghi lại từ ngữ đó bằng cách đọc, cách viết của ngôn ngữ đi vay [14, tr.52]. Nếu vay mượn theo phương thức dịch nghĩa, tiếng Ê đê chỉ giữ lại phần ngữ nghĩa của từ đi vay còn thay đổi toàn bộ các yếu tố chữ viết, hình thái – cấu trúc, ngữ âm thì theo phương thức phiên âm, tiếng Ê đê chỉ thay đổi một phần cách viết, cách đọc của các từ ngữ vay mượn từ tiếng Việt cho phù hợp với cách đọc, cách viết của ngôn ngữ mình. Còn các yếu tố như ngữ nghĩa và hình thái – cấu trúc thì được giữ nguyên. Ví dụ: Ao: áo Ƀêñ: bánh Ƀêñ mi: bánh mì Băo: báo Băo čĭ: báo chí Či ƀô: chi bộ Ƀung: bún Kăn ƀô: cán bộ Čê: chè Kông an: công an Yu kic: du kich Đăi sô: đại số Mit: mít Kuat: quạt Toi: tỏi Wơt lĭ: vật lý Cùng là vay mượn bằng hình thức phiên âm nhưng mỗi ngôn ngữ đều cố gắng xây dựng cho mình một số nguyên tắc phiên âm riêng. Khi vay mượn 68 từ vựng của tiếng Việt bằng phương thức này, tiếng Ê đê cũng dựa trên một số quy tắc riêng của mình. Thứ nhất, do tiếng Việt là một ngôn ngữ có thanh điệu còn tiếng Ê đê thì không nên khi vay mượn từ vựng của tiếng Việt, tiếng Ê đê đã phải loại bỏ thanh điệu đi cho phù hợp với đặc điểm về cấu tạo chữ viết và phát âm của ngôn ngữ mình. Ví dụ: Ao: Áo Ao dai: Áo dài Ƀêñ: bánh Băo: Báo Băo čĭ: báo chí Či ƀô: chi bộ Ƀung: bún Đăi sô: đại số Mit: mít Kuat: quạt Nông trương: nông trường Thứ hai, mặc dù cùng sử dụng kiểu chữ cái La tinh để ghép thành các con chữ, nhưng do mỗi ngôn ngữ Việt – Ê đê lại có bảng chữ cái riêng của mình và hai bảng chữ cái này không giống nhau ở tất cả các chữ cái. Vì vậy, khi vay mượn từ vựng của tiếng Việt, tiếng Ê đê đã phải biến đổi một số chữ cái đi cho phù hợp với ngôn ngữ của mình. Một số qui luật biến đổi về mặt chữ viết: Chữ b > ƀ. Lí do: chữ ƀ trong tiếng Ê đê có âm tiếng Việt tương ứng là b. Ví dụ: Ƀêñ: bánh Ƀêñ ƀao: bánh bao 69 Ƀêñ trang: bánh đa K ƀao: cái bào Ƀi: bi Či ƀô: chi bộ Ƀom: bom Ƀom bi: bom bi Ƀung: bún Kăn ƀô: cán bộ Chữ ch > č. Lí do: chữ č trong tiếng Ê đê có âm tiếng Việt tương ứng là ch. Ví dụ: Băo čĭ: báo chí Či ƀô: chi bộ Čê: chè Yu kič: du kich Či ƀô: Chi bộ Chữ c > k; q > k. Lí do: chữ k trong tiếng Ê đê có âm tiếng Việt tương ứng là c, q. Trong bảng chữ cái tiếng Ê đê không có chữ c. Ví dụ: Kăn ƀô: cán bộ Kông an: công an Kơ tương: cờ tướng Kuat: quạt Chữ a > ă, a > ê Băo: báo Băo čĭ: báo chí Kăn ƀô: cán bộ Đăi sô: đại số 70 Ƀêñ: bánh Chữ nh > ñ. Lí do: chữ ñ trong tiếng Ê đê có âm tiếng Việt tương ứng là nh. Ví dụ: Ƀêñ: bánh Ƀêñ ƀao: bánh bao Ƀêñ trang: bánh tráng Chữ v > w. Lí do: chữ w trong tiếng Ê đê có âm tiếng Việt tương ứng là v. Ví dụ: Wơt lĭ: vật lý Có sự biến đổi các chữ cái như trên không phải là ngẫu nhiên, bất qui luật mà phải căn cứ trên cách phát âm các âm vị của tiếng Ê đê. Hay nói cách khác, theo cách này, tiếng Ê đê đã mượn nguyên tiếng Việt về hình thái – cấu trúc và ý nghĩa, nhưng có sự thay đổi về chữ viết và cách phát âm cho phù hợp. Chúng tôi nhận thấy các từ ngữ vay mượn theo hình thức phiên âm đều là những từ chỉ những sự vật, sự việc, hiện tượng, không có trong tiêng Ê đê nhưng lại có trong tiếng Việt. Có thể đó là các từ thuần Việt, cũng có thể đó là các từ mà tiếng Việt phải đi vay mượn của các ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, chỉ khi tiếp xúc với người Việt, do sự thiếu hụt về ngôn ngữ, tiếng Ê đê đã vay mượn các từ ngữ này từ tiếng Việt. Hay nói cách khác, ngôn ngữ của người Ê đê phải đi vay mượn các từ ngữ của người Việt theo hình thức phiên âm là do thiếu, không có. 2.2.4. Phương thức mượn nguyên dạng Mượn nguyên dạng cũng là một trong những phương thức được tiếng Ê đê sử dụng trong rất nhiều các trường hợp vay mượn từ vựng. Các từ được mượn nguyên dạng đa phần chỉ các sự vật, sự việc, đặc điểm, tính chất, chỉ 71 có trong tiếng Việt. Cộng đồng buôn làng với những nét văn hóa riêng của người Ê đê khi chưa có sự tiếp xúc giao lưu với người Việt không có các hoạt động, sự vật, sự việc, này. Ví dụ: Ca nhạc, kí túc xá, khám bệnh, cá chép, cá trắm, đại học, cao đẳng, cấp cứu, câu lạc bộ, cầu thủ, trọng tài, chè, chứng minh thư, Theo phương thức vay mượn này, tiếng Ê đê giữ y nguyên ngữ nghĩa, chữ viết và hình thái cấu trúc của từ mượn tiếng Việt. Về ngữ âm, người sử dụng tiếng Ê đê cũng cố gắng phát âm các từ ngữ này sao cho giống nhất với cách phát âm của người Việt. Tuy nhiên, do những đặc trưng về ngữ âm của hai ngôn ngữ là khác nhau; do thói quen phát âm của người Ê đê khác với người Việt nên dù là mượn nguyên dạng nhưng người ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra giọng của một người Ê đê khi nói hay đọc các từ vay mượn ở hình thức nguyên dạng này. 2.3. Tiểu kết Khi hai ngôn ngữ Ê đê - Việt có sự tiếp xúc với nhau thì tất yếu sẽ xảy ra hiện tượng vay mượn từ vựng. Vay mượn từ vựng là một hiện tượng thuộc ngôn ngữ học xã hội và nó chịu sự chi phối của các nhân tố xã hội. Ở đây, rõ ràng rằng tiếng Việt là ngôn ngữ chiếm ưu thế nên nó có những ảnh hưởng mạnh mẽ hơn tới tiếng Ê đê. Mà cụ thể theo chúng tôi khảo sát được thì tiếng Ê đê đã vay của tiếng Việt 974 từ vựng (trong tổng số hơn 4200 từ vựng tiếng Ê đê), chiếm khoảng 23% tổng số từ vựng tiếng Ê đê. Các từ ngữ tiếng Ê đê vay mượn từ tiếng Việt chủ yếu thuộc từ loại danh từ. Các từ ngữ này đa phần thuộc một trong các nhóm các từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ, lĩnh vực, vị trí công tác; tên cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp; khoa học kĩ thuật; động - thực vật; từ chỉ tên người và đồ vật. Trong số đó, do không có nên lớp từ chỉ khoa học kĩ thuật là nhóm từ ngữ mà tiếng Ê đê phải vay mượn hoàn toàn từ tiếng Việt. 72 Để vay mượn từ ngữ của tiếng Việt, tiếng Ê đê đã sử dụng một số phương thức cơ bản như: phương thức dịch nghĩa, phương thức phiên âm, phương thức kết hợp cả phiên âm và dịch nghĩa, phương thức mượn nguyên dạng. Đây cũng là những phương thức vay mượn nói chung của tất cả các ngôn ngữ trên thế giới. Khi vay mượn từ ngữ của tiếng Việt, tiếng Ê đê cũng đã sử dụng các phương thức vay mượn chung này nhưng vẫn có những nguyên tắc riêng của mình. Tiếp xúc ngôn ngữ Ê đê – Việt mà cụ thể là hiện tượng vay mượn từ vựng đã giúp cho cả hai ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng Ê đê làm giàu thêm vốn từ vựng của mình. Vốn từ vay mượn đó đã được sử dụng đi vào mọi hoạt động giao tiếp thường ngày. Trong hoạt động giao tiếp của người Ê đê kể cả giao tiếp trực tiếp bằng miệng hay gián tiếp bằng văn bản thì lớp từ vay mượn của tiếng Việt cũng đã được sử dụng góp phần giúp cho tiếng Ê đê đảm nhiệm tốt vai trò là công cụ giao tiếp của mình. Nhờ có lớp từ vay mượn này, những người nói tiếng Ê đê có thể giao tiếp hiệu quả với nhau trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Hiện nay, trong thực tế sử dụng tiếng Ê đê, kể cả nói hay viết, người nói tiếng Ê đê ngày càng thích sử dụng nhiều hơn các từ vay mượn tiếng Việt ở hình thức mượn nguyên dạng. Tức là giữ nguyên chữ viết như tiếng Việt và cố gắng phát âm cho gần giống nhất với cách phát âm của người Việt. Điều này cũng là dễ hiểu vì hiện nay, hầu hết tất cả người Ê đê đã đều được đi học và đều thông thạo tiếng Việt. 73 Chương 3. TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN TIẾNG Ê ĐÊ 3.1. Khảo sát và thống kê lớp từ ngữ tiếng Việt vay mượn của tiếng Ê đê 3.1.1. Lớp từ ngữ chỉ địa danh Dak Lăk là tỉnh có bề dày lịch sử rất phong phú và đa dạng, với nhiều tộc người anh em cùng nhau làm ăn, sinh sống. Theo dòng thời gian, các tộc người xuất hiện trên quê hương này gồm người Ê đê, người M’Nông, người Jrai Kế đến là người Việt, người Bru, Vân Kiều và gần hầu hết các tộc người thiểu số phía Bắc như Tày, Thái, Mường, Mông, Dao Nhưng căn cứ vào bề dày lịch sử và số lượng người cư trú ta có thể khẳng định, Dak Lăk chính là quê hương, là thủ phủ của người Ê đê. Các địa danh trên địa bàn theo đó lần lượt được hình thành ở nhiều dạng khác nhau nhưng chủ yếu có thể có 2 loại, loại dựa vào ngôn ngữ của các dân tộc cư trú lâu đời nhất ở Dak Lăk trong đó có dân tộc Ê đê và loại cải biên tên gọi đã có hoặc gắn với tên địa phương của dân mới đến. Dù được giữ nguyên dạng hay đã có sự cải biên đi thì đây cũng chính là vốn từ ngữ chỉ địa danh mà tiếng Việt vay mượn từ tiếng Ê đê. Những địa danh được gọi bằng tiếng Ê đê thường mượn từ tên gọi các địa hình, địa vật như núi, đồi, sông, suối, ao hồ, vùng tự nhiên hoặc tên người trong truyền thuyết, trong lịch sử. Trong quá trình thành lập, xây dựng và phát triển tỉnh Dak Lăk, nhà nước ta không thay đổi mà giữ nguyên các tên gọi đã có của người bản địa. Chẳng hạn: Theo tên gọi đồi núi: huyện }æ\ Jut, huyện }æ\ Mgar, Trong tiếng Ê đê “čư\” có nghĩa là “núi”. Theo tên gọi sông suối: huyện Krông Knô, Ea H’leo, Ea Kar, Ea Súp, Dak Mil, Dak Nông, xã Ea Tlinh, xã Ea Kao, phường Ea Tam,... Theo tên gọi một con thác: Buôn Drai

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2014_11_07_0536036888_2765_1871593.pdf
Tài liệu liên quan